Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124974" data-attributes="member: 17223"><p>Tướng Hykutaké lúc ấy hiểu rằng kháng cự là vô ích, và vì lẽ giờ đây quân sĩ của ông đã đồn trú vững chắc tại Kolombangara dưới sự che chở của không lực đặt căn cứ tại Vila, ông ra lệnh cho Sazaki di tản khỏi Munda. Đoàn quân trú phòng chỉ còn lại 6.000 rút lui từng toán nhỏ và vượt qua được eo biển mà không làm kinh động địch quân. Ngày 5 tháng 8, quân Mỹ tiến vào phi trường không gặp kháng cự. Chỉ hai ngày cũng đủ cho các đơn vị Seabees sửa sang lại phi trường, nhưng các ổ đại liên địch còn hoạt động trên các cao điểm kế cận và phải mất hai ngày chiến đấu mới bắt chúng im lặng được.</p><p></p><p></p><p>Trong khi các binh sĩ bất khuất phòng vệ phi trường Munda chờ chết trong các hầm trú ẩn của họ, thì một biến cố đã xảy ra suýt làm dòng lịch sử thay đổi bằng cách làm thiếu mất một vị tổng thống tương lại của Hoa Kỳ. Một trong các khinh tốc đỉnh thuộc nhóm Kelly, chiếc PT 109, được chỉ huy bởi con trai một nhà triệuphú tên là John Fitzgerald Kennedy. Đấy là một lực sĩ từ bé đã quen thuộc với các môn thể thao dưới nước. Trong đêm 2 rạng ngày 3 tháng 8 năm 1943, chiếc PT 109 tuần tiễu trong eo biển Blackett với bốn chiếc khinh tốc đỉnh bạn để chặn một đoàn công voa nhỏ mà các nhân viên Coast Watchers báo hiệu đến gần. Đêm tối đen và các khinh tốc đỉnh phải chạy chậm để khỏi bị khám phá vì các luồng sóng sau tàu.</p><p></p><p></p><p>Vào khoảng 1 giờ sáng, đột nhiên, Kolombangara như một khối đen sậm được chiếu sáng về bên phải.</p><p></p><p>Đạn chiếu sáng, súng nổ rồi im lặng trở lại. Cuộc báo động này đã làm các hạm trưởng xao lãng trong một chốc lát việc lưu ý đến nhau và một cơn mưa rào nhiệt đới làm họ mất hút bóng dáng chiếc tàu bạn chạy kế cận. John Kennedy tiếp tục hải trình một cách hoàn toàn đơn độc. Mọi người trên chiếc PT 109 quan sát chân trời qua ống dòm để tìm lại chiếc tàu bạn gần nhất. Sau vài phút chờ đợi đầy lo âu, một trinh sát viên đêm báo hiệu có một bóng đen bên phải. Kennedy bẻ tay lái để áp lại gần nhưng thấy ngay đó không phải là một khinh tốc đỉnh mà là một chiến hạm lớn hơn nhiều đang xông đến hết tốc lực.</p><p></p><p></p><p>“Chuẩn bị phóng thuỷ lôi! Chạy thẳng hết tốc lực” ông thét trong loa truyền âm và bẻ hết tay lái… Quá chậm! Một sự đụng chạm ghê rợn làm rung chuyển chiếc PT 109 lúc đó bị lật nghiêng trên mặt biển. Mũi một khu trục hạm Nhật đang cắt nó ra làm hai làm lửa bắn tung toé. Xăng bắt đầu cháy đàng sau. Thế là hết! Mọi người nằm sát bất động phía trước mũi tàu, bị sức chạm làm ngã lộn nhào, chờ đợi tiếng nổ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: chiếc khu trục hạm đã chạy qua và sự chuyển động các chong chóng quạt nước đã nhận phần sau của chiếc khinh tốc đỉnh xuống nước và nó bị chìm ngay tức khắc. Phần phía trước còn nổi và thuỷ thủ đoàn sau khi hoàn hồn liền kiếm vài miếng ván để làm một chiếc bè nhỏ. Kennedy lao xuống biển để vớt hai cơ khí viên đang còn nổi trên mặt biển mặc dầu bị phỏng nặng. Ông đưa họ bơi dọc theo xác tàu và cho thả bè xuống nước. Đã đến lúc phải di tản khỏi chiếc PT 109 vì nó đang chìm nhanh dưới sóng biển.</p><p></p><p></p><p>Chiếc bè trên đó có những người bị thương trôi theo gió, do các người còn mạnh bơi dưới nước đầy đỉ. Khị họ đến được một hòn đảo san hô tí hon thì trời vừa sáng. Mọi người mệt nhoài nằm sóng sượt xuống đất và uống nước dừa để lại sức. Đến tối Kennedy phục hồi sức khoẻ và mặc dầu xương sống đau tàn nhẫn, ông quyết định lội về phía eo biển Ferguson mà ông tin là rất gần đó, hy vọng gặp một chiếc khinh tốc đỉnh đang đi tuần, vì ông biết rằng ai cũng nghĩ là ông đã chết và chẳng ai lại có ý tưởng đến tìm kiếm ông trên hòn đảo san hô hẻo lánh ấy.</p><p></p><p></p><p>Một cuộc bơi lâu dài trong cuộn sóng biển quả là một nỗi thống khổ thật sự. Ông lội suốt đêm. Đến sáng vẫn không thấy có một khinh tốc dỉnh nào. Sau một thời gian chờ đợi rất lâu trên một tảng đá ngầm có mũi nhọn sắc như dao, Kennedy quay trở lại đảo san hô của mình. Nhưng lần này dòng hải lưu chảy ngược chiều ông bơi. Sau khi lội suốt đêm mà gần như không tiến lên được, ông kiệt sức phải dừng lại trên đảo san hô đầu tiên nào đó được gặp. Phải mất hai mươi bốn giờ mới lấy lại sức và một ngày lội nữa mới gặp lại các bạn đồng hành. Ông được tiếp đón bằng một tiếng hoan hô vang dội và ngạc nhiên thấy những người bản xứ đứng chung quanh các bạn, những người bản xứ này dường như biểu lộ ý tốt. Họ để lại cho các nạn nhân đắm tàu một chiếc xuồng độc mộc, và Kennedy giao cho họ một điệp văn khắc bằng dao trên một chiếc vỏ dừa để trong trường hợp đang lưới mà họ gặp được một chiến hạm Mỹ.</p><p></p><p></p><p>Đêm đến, vì hy vọng một cuộc gặp gỡ như thế rất mong manh, Kennedy cùng sĩ quan phụ tá ra đi trên chiếc xuồng để đến eo biển Ferguson một lần nữa. Chiếc xuồng quá nhẹ và các tay chèo thì vụng về. Sau hai giờ đường, xuồng bị chìm và một lần nữa hai sĩ quan phải quay trở về bằng cách lội ngược dòng hải lưu. Nỗi thống khổ còn tệ hơn lần trước. Hai chàng trai trẻ, kiệt sức và run lập cập vì bị sốt, đặt chân lên một tảng đá ngầm. Phải mất hai ngày nữa họ mới về đến hòn đảo của mình, và lần này họ quyết định đưa tất cả mọi người đến một đảo san hô ít hẻo lánh hơn. Chiếc bè nhỏ được tăng cường thêm một chút được hạ thuỷ cùng với các thương binh, và cuộc thiên di bắt đầu trong những điều kiện khổ nhọc nhất. Bình minh ngày 7 tháng 8, trong khi các kẻ bị đắm tàu kiệt sức bắt đầu tuyệt vọng, thì nhièu xuồng của dân bản xứ cặp vào bãi biển đao san hô mới của họ. Một người Mélanésien chìa cho họ một tờ giây. Trên đầu có ghi một địa chỉ hết sức mơ hồ:</p><p></p><p>”Gửi cho người có cấp bậc cao nhất còn sống sót của chiếc PT 109”</p><p></p><p>Nhưng văn bản tiếp theo đó thì vang dội như đoạn kết của một chuyện thần tiên:</p><p>“Những người mang điệp văn này có nhiệm vụ đưa anhd dến Wana Wana để tổ chức việc hồi hương cho thuỷ thủ đoàn của anh”.</p><p></p><p>Ký tên:</p><p>Trung uý Evans. Coast Watcher tại Kolombangara.</p><p></p><p></p><p>Vài ngày sau, trong khi trung uý John F.Kennedy cùng các thuộc viên chờ đợi tại Guadalcanal để được hồi hương, thì Evans và Josselyn xin các nhà chức trách cho họ từ chức Coast Watchers, trong cuộc cút bắt ghê rợn được thực hiện trên các đảo để tìm kiếm các binh sĩ Nhật cuối cùng, quân Mỹ đã oanh tạc các làng bản xứ và bắn cầu may vào rừng rậm, tàn sát tất cả những gì cử động. Hai người Úc không thể nào chịu đựng được sự hổ thẹn khi thấy những chiến sĩ nhỏ con đầy can trường đã giúp đỡ họ nhiều biết bao nhiêu trong suốt cuộc chiến, bị gục ngã gần như dưới mắt họ.</p><p></p><p></p><p>Cuộc đời trôi qua như thế, chiến tranh tiếp diễn như thế, qua những con đường lót bằng xương máu chiến sĩ vô danh, viền hai bên là những gương anh hùng không tên tuổi. Và giá như sự tình cờ đã không làm cho một vị trong các vị anh hùng của cuộc mạo hiểm ấy trở thành Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, thì có lẽ chẳng bao giờ có ai nghe nói đến nó nữa.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124974, member: 17223"] Tướng Hykutaké lúc ấy hiểu rằng kháng cự là vô ích, và vì lẽ giờ đây quân sĩ của ông đã đồn trú vững chắc tại Kolombangara dưới sự che chở của không lực đặt căn cứ tại Vila, ông ra lệnh cho Sazaki di tản khỏi Munda. Đoàn quân trú phòng chỉ còn lại 6.000 rút lui từng toán nhỏ và vượt qua được eo biển mà không làm kinh động địch quân. Ngày 5 tháng 8, quân Mỹ tiến vào phi trường không gặp kháng cự. Chỉ hai ngày cũng đủ cho các đơn vị Seabees sửa sang lại phi trường, nhưng các ổ đại liên địch còn hoạt động trên các cao điểm kế cận và phải mất hai ngày chiến đấu mới bắt chúng im lặng được. Trong khi các binh sĩ bất khuất phòng vệ phi trường Munda chờ chết trong các hầm trú ẩn của họ, thì một biến cố đã xảy ra suýt làm dòng lịch sử thay đổi bằng cách làm thiếu mất một vị tổng thống tương lại của Hoa Kỳ. Một trong các khinh tốc đỉnh thuộc nhóm Kelly, chiếc PT 109, được chỉ huy bởi con trai một nhà triệuphú tên là John Fitzgerald Kennedy. Đấy là một lực sĩ từ bé đã quen thuộc với các môn thể thao dưới nước. Trong đêm 2 rạng ngày 3 tháng 8 năm 1943, chiếc PT 109 tuần tiễu trong eo biển Blackett với bốn chiếc khinh tốc đỉnh bạn để chặn một đoàn công voa nhỏ mà các nhân viên Coast Watchers báo hiệu đến gần. Đêm tối đen và các khinh tốc đỉnh phải chạy chậm để khỏi bị khám phá vì các luồng sóng sau tàu. Vào khoảng 1 giờ sáng, đột nhiên, Kolombangara như một khối đen sậm được chiếu sáng về bên phải. Đạn chiếu sáng, súng nổ rồi im lặng trở lại. Cuộc báo động này đã làm các hạm trưởng xao lãng trong một chốc lát việc lưu ý đến nhau và một cơn mưa rào nhiệt đới làm họ mất hút bóng dáng chiếc tàu bạn chạy kế cận. John Kennedy tiếp tục hải trình một cách hoàn toàn đơn độc. Mọi người trên chiếc PT 109 quan sát chân trời qua ống dòm để tìm lại chiếc tàu bạn gần nhất. Sau vài phút chờ đợi đầy lo âu, một trinh sát viên đêm báo hiệu có một bóng đen bên phải. Kennedy bẻ tay lái để áp lại gần nhưng thấy ngay đó không phải là một khinh tốc đỉnh mà là một chiến hạm lớn hơn nhiều đang xông đến hết tốc lực. “Chuẩn bị phóng thuỷ lôi! Chạy thẳng hết tốc lực” ông thét trong loa truyền âm và bẻ hết tay lái… Quá chậm! Một sự đụng chạm ghê rợn làm rung chuyển chiếc PT 109 lúc đó bị lật nghiêng trên mặt biển. Mũi một khu trục hạm Nhật đang cắt nó ra làm hai làm lửa bắn tung toé. Xăng bắt đầu cháy đàng sau. Thế là hết! Mọi người nằm sát bất động phía trước mũi tàu, bị sức chạm làm ngã lộn nhào, chờ đợi tiếng nổ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: chiếc khu trục hạm đã chạy qua và sự chuyển động các chong chóng quạt nước đã nhận phần sau của chiếc khinh tốc đỉnh xuống nước và nó bị chìm ngay tức khắc. Phần phía trước còn nổi và thuỷ thủ đoàn sau khi hoàn hồn liền kiếm vài miếng ván để làm một chiếc bè nhỏ. Kennedy lao xuống biển để vớt hai cơ khí viên đang còn nổi trên mặt biển mặc dầu bị phỏng nặng. Ông đưa họ bơi dọc theo xác tàu và cho thả bè xuống nước. Đã đến lúc phải di tản khỏi chiếc PT 109 vì nó đang chìm nhanh dưới sóng biển. Chiếc bè trên đó có những người bị thương trôi theo gió, do các người còn mạnh bơi dưới nước đầy đỉ. Khị họ đến được một hòn đảo san hô tí hon thì trời vừa sáng. Mọi người mệt nhoài nằm sóng sượt xuống đất và uống nước dừa để lại sức. Đến tối Kennedy phục hồi sức khoẻ và mặc dầu xương sống đau tàn nhẫn, ông quyết định lội về phía eo biển Ferguson mà ông tin là rất gần đó, hy vọng gặp một chiếc khinh tốc đỉnh đang đi tuần, vì ông biết rằng ai cũng nghĩ là ông đã chết và chẳng ai lại có ý tưởng đến tìm kiếm ông trên hòn đảo san hô hẻo lánh ấy. Một cuộc bơi lâu dài trong cuộn sóng biển quả là một nỗi thống khổ thật sự. Ông lội suốt đêm. Đến sáng vẫn không thấy có một khinh tốc dỉnh nào. Sau một thời gian chờ đợi rất lâu trên một tảng đá ngầm có mũi nhọn sắc như dao, Kennedy quay trở lại đảo san hô của mình. Nhưng lần này dòng hải lưu chảy ngược chiều ông bơi. Sau khi lội suốt đêm mà gần như không tiến lên được, ông kiệt sức phải dừng lại trên đảo san hô đầu tiên nào đó được gặp. Phải mất hai mươi bốn giờ mới lấy lại sức và một ngày lội nữa mới gặp lại các bạn đồng hành. Ông được tiếp đón bằng một tiếng hoan hô vang dội và ngạc nhiên thấy những người bản xứ đứng chung quanh các bạn, những người bản xứ này dường như biểu lộ ý tốt. Họ để lại cho các nạn nhân đắm tàu một chiếc xuồng độc mộc, và Kennedy giao cho họ một điệp văn khắc bằng dao trên một chiếc vỏ dừa để trong trường hợp đang lưới mà họ gặp được một chiến hạm Mỹ. Đêm đến, vì hy vọng một cuộc gặp gỡ như thế rất mong manh, Kennedy cùng sĩ quan phụ tá ra đi trên chiếc xuồng để đến eo biển Ferguson một lần nữa. Chiếc xuồng quá nhẹ và các tay chèo thì vụng về. Sau hai giờ đường, xuồng bị chìm và một lần nữa hai sĩ quan phải quay trở về bằng cách lội ngược dòng hải lưu. Nỗi thống khổ còn tệ hơn lần trước. Hai chàng trai trẻ, kiệt sức và run lập cập vì bị sốt, đặt chân lên một tảng đá ngầm. Phải mất hai ngày nữa họ mới về đến hòn đảo của mình, và lần này họ quyết định đưa tất cả mọi người đến một đảo san hô ít hẻo lánh hơn. Chiếc bè nhỏ được tăng cường thêm một chút được hạ thuỷ cùng với các thương binh, và cuộc thiên di bắt đầu trong những điều kiện khổ nhọc nhất. Bình minh ngày 7 tháng 8, trong khi các kẻ bị đắm tàu kiệt sức bắt đầu tuyệt vọng, thì nhièu xuồng của dân bản xứ cặp vào bãi biển đao san hô mới của họ. Một người Mélanésien chìa cho họ một tờ giây. Trên đầu có ghi một địa chỉ hết sức mơ hồ: ”Gửi cho người có cấp bậc cao nhất còn sống sót của chiếc PT 109” Nhưng văn bản tiếp theo đó thì vang dội như đoạn kết của một chuyện thần tiên: “Những người mang điệp văn này có nhiệm vụ đưa anhd dến Wana Wana để tổ chức việc hồi hương cho thuỷ thủ đoàn của anh”. Ký tên: Trung uý Evans. Coast Watcher tại Kolombangara. Vài ngày sau, trong khi trung uý John F.Kennedy cùng các thuộc viên chờ đợi tại Guadalcanal để được hồi hương, thì Evans và Josselyn xin các nhà chức trách cho họ từ chức Coast Watchers, trong cuộc cút bắt ghê rợn được thực hiện trên các đảo để tìm kiếm các binh sĩ Nhật cuối cùng, quân Mỹ đã oanh tạc các làng bản xứ và bắn cầu may vào rừng rậm, tàn sát tất cả những gì cử động. Hai người Úc không thể nào chịu đựng được sự hổ thẹn khi thấy những chiến sĩ nhỏ con đầy can trường đã giúp đỡ họ nhiều biết bao nhiêu trong suốt cuộc chiến, bị gục ngã gần như dưới mắt họ. Cuộc đời trôi qua như thế, chiến tranh tiếp diễn như thế, qua những con đường lót bằng xương máu chiến sĩ vô danh, viền hai bên là những gương anh hùng không tên tuổi. Và giá như sự tình cờ đã không làm cho một vị trong các vị anh hùng của cuộc mạo hiểm ấy trở thành Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, thì có lẽ chẳng bao giờ có ai nghe nói đến nó nữa. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top