Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124968" data-attributes="member: 17223"><p>Ngày 18 tháng 4 năm 1943, lúc 6 giờ sáng Đô đốc Yamamoto bước lên một oanh tạc cơ hai máy Mitsubishi với ba trong số các sĩ quan của ông. Đô đốc Ugaki, tham mưu trưởng của ông, bước lên chiếc thứ hai cùng loại. Cuộc viếng thăm đầu tiên của ông sẽ dành cho tướng Hyakudaté, tư lệnh Lộ quân 17, vừa rời khởi Rabaul để đến đặt bản doanh ở căn cứ tiền phương Buin tại Bougainville; nhưng ông đã dự liệu dừng chân trên hòn đảo nhro Ballale nơi đặt ban chỉ huy của hải đoàn mẫu hạm thứ hai. Các giới chức chỉ huy liên hệ đã báo trước bằng một công điện mã hoá ghi rõ giờ đến của các phi cơ.</p><p></p><p></p><p>Sau khi cất cánh từ Rabaul và được chín khu trục cơ hộ tống, các oanh tạc cơ bay vòng miệng núi lửa bao quanh vịnh và hướng thẳng đến Bougainville. Các điều kiện phi hành đều rất tôt đẹp và các đỉnh núi xanh có sương mù bao phủ trên chóp đã bắt đầu hiện rõ. Đến 7 giờ 15 phút, các oanh tạc cơ bắt đầu giảm cao độ để tiến gần đến bờ biển và bay trên rừng rậm ở cao độ 600 thước trong khi các khu trục cơ vẫn giữ cao độ cũ. Đúng 7 giờ 30, tức là còn cách Ballade 15 phút bay, một trong các khu trục cơ hộ tống vừa trông thấy một toán phi cơ P.38 bay trên đầu, nên muốn báo hiệu cho Đô đốc càng sớm càng hay. Hành động này được các phi công oanh tạc cơ giải thích như là một sự thông báo cần hạ thấp xuống hầu đê trống xạ trường cho các khu trục cơ, và cả hai chiếc oanh tạc cơ đều chúi xuống thấp về phía rừng già. Nỗ lực điều động máy bay của họ vô ích. Nhờ có tốc độ cực lớn khi đâm bổ xuống các phi cơ P.38 bỏ xa dần các khu trục cơ Nhật và lao vào các oanh tạc cơ xả súng bắn ác liệt. Chiếc phi cơ của Đô đốc là chiếc bị trúng đạn đầu tiên và rơi tan tành xuống rừng già sau khi bốc cháy. Chiếc oanh tạc cơ thứ hai lái vòng ra biển cũng bị rượt kịp và bị bắn rơi xuống biển. Các phi cơ tuần thám bờ biển hấp tấp bay đến phía chiếc oanh tạc cơ đã chìm mất một nửa và kéo ra được Đô đốc Ugaki vốn bị thương rất nặng. Nhờ chỉ dẫn của các khu trục cơ, xác chiếc phi cơ của Yamamoto được đánh dấu và một đoàn quân thám sát vạch được một lối đi cho đến đó. Hai phần ba phi cơ bị cháy ra tro, nhưng chiếc ghế của Đô đốc bị văng ra xa khi phi cơ chạm đất. Xác ông có vẻ gần như nguyên vẹn và ông còn nắm chặt đuôi kiếm trong tay. Bốn sĩ quan tuỳ tùng của ông chỉ còn lại các mảnh vụn không nhận diện được. Viên bác sĩ khám nghiệm xác Đô đốc khám phá thấy các vết đạn trong đó có một viên trúng và tạo ra cái chết tức thời.</p><p></p><p></p><p>Xác Yamamoto được đưa về Buin để hoả thiêu tại đấy. Tro tàn của người anh hùng Trân Châu Cảng được để trong một bình đựng di hài đặt trên một nấm mộ nhỏ kế cạnh bộ chỉ huy.</p><p></p><p>Tin tức về tai hoạ này không thể nào giữ bí mật được lâu. Nó tạo ra một nỗi kinh hoàng vô bờ bến tại Nhật Bản. Dân chúng vốn bị giấu kín về cuộc thảm bại tại Midway, vốn luôn luôn coi Yamamoto như một vị tư lệnh không thể nào bị thua trận. Chắc chắn là niềm tin ấy không có gì sai lầm cả bởi vì sự thất bại này đã lệ thuộc vào một sự tình cờ có thể nói là kỳ diệu của các điều do máy Magic khám phá.</p><p></p><p></p><p>Tại Hoa Kỳ, tin loan báo cái chết bị thảm của vị Tổng tư lệnh quân Nhật gây ra cả một cơn vui sướng bùng nổ thật sự. Rốt cuộc rồi Đáng toàn năng cũng đã trừng phạt kẻ có trách nhiệm về cuộc xâm lăng xảo trá tại Trân Châu Cảng! Đối với các lãnh tụ cao cấp của Hải quân, tin ấy không gây ngạc nhiên, vì một lần nữa bộ máy Magic lại đã hướng dẫn uy lực của công lý.</p><p></p><p></p><p>Chiều ngày 17 tháng 4, Bộ trưởng Hải quân Frank Knox, đã được sở kiểm báo trình một điện văn đã được mở khoá, nhờ máy Magic, mặc khải tất cả chi tiết liên hệ đến chuyến thanh tra của vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp với giờ giấc hạ cánh và cất cánh. Sau khi tham khảo mau chóng với Đô đốc King, ông quyết định ra lệnh cho Halsey tổ chức một cuộc mai phục để loại trừ đối thủ nguy hiểm này. Buổi tối, một công điện tối mật được gửi đến cho đại uý Mitchell, không đoàn trưởng P.38 đặt căn cứ tại Henderson Field. Công điện ghi tất cả các tin tức về lộ trình và thành phần của đoàn phi cơ. Bình minh ngày 18, 16 chiếc P.38 cất cánh bay về phía Bougainville và đúng 7 giờ thì đến nơi. Phi đoàn bay vòng trên khu vực kế cận bờ biển bằng cách ẩn nấp trong mây ở cao độ rất lớn. Đúng 7 giờ 30, họ trông thấy các khu trục cơ hộ tống toàn phi cơ Nhật và mở cuộc tấn công. Chính đại uý Lanphier là người đuổi theo phi cơ của Yamamoto. Ông bắn một tràng dài vào động cơ bên phải từ phía sau và lập tức bay trốn khi thấy chiếc cánh phát hoả và tách ra khỏi phi cơ. Lần này bộ máy Magic tuyệt hảo đã vĩnh viễn khoá chặt số phận của nạn nhân.</p><p></p><p></p><p>Hành động không có vẻ mã thượng tí nào. Cuộc phục kích tại Bogainville phảng phất khó chịu mùi vị của các cuộc thanh toán giữa bọn bất lương. Nhưng vết thương Trân Châu Cảng còn tươi rói và các nỗi khổ đau tại Guadalcanal cũng chưa dịu hẳn được. Vả chăng người ta có còn dừng lại mãi đó đâu! Nhiều trận đánh trên các đảo và chung quanh đảo đã trở nên vô cùng khốc liệt. Chẳng có một đồn trại nào và rất ít hoặc không có tù binh. Từ lâu chiến tranh tiềm thuỷ đỉnh đã là “không hạn chế” và từ lâu, các khu trục hạm Mỹ đã làm lơ khi chạy ngang qua các hàng lớp binh sĩ Nhật vùng vẫy trong mặt biển ngập đầy dầu máy. Quân Mỹ được khuyến khích bởi chính quân Nhật, vì họ không bao giờ dừng chiến hạm lại để cứu vớt đồng bào của họ. Chắc chắn là họ đã tuân phục một cách vô thức nguyên tắc dửng dưng với cái chết vốn rất thông thường tại Viễn Đông: bớt đi một tên lính Nhật là có thêm một hột gạo cho những người khác, phải không nào… Nhưng mặc dầu không thú nhận lộ liễu, Bộ tư lệnh tối cao Nhật cũng không có gì là không bằng lòng khi thấy nguyên tắc ấy được áp dụng trong mọi trường hợp. Điều mà họ thiếu thốn không phải là người, mà là vật liệu chiến tranh. Mất thì giờ và đặt chiến hạm vào tình trạng nguy hiểm trong một vụ cấp cứu là hành động không đáng được nghĩ đến đối với một binh sĩ Nhật rồi. Người Mỹ cũng thường áp dụng nguyên tắc này, nhưng chỉ khi nào bị nhu cầu bắt buộc. Mỗi khi có thể, họ cứu vớt những thuỷ thủ bị đắm tàu. Ngoài tất cả các vấn đề tình cảm, họ đã ước tính rằng tinh thần binh sĩ sẽ có thể được giữ vững trong một khung cảnh có tình liên đới toàn diện. Hơn nữa, họ là những người đầu tiên hiểu được rằng mạng sống của một phi công đánh giá bằng cả một tiểu đoàn bộ binh. Do đó nhiều khi họ đã không ngần ngại tổ chức cả một cuộc hành quân thu hồi thật sư với các thủy phi cơ và tiềm thủy đỉnh. Công cuộc tiếp cứu các phi hành đoàn bị hạ trong rừng rậm đã trở thành một trong các sứ mạng chính yếu của các Coast Watchers.</p><p></p><p></p><p>Yamamoto không sớm hiểu được sự tái lượng gia đột ngột ấy về mạng sống con người vốn đã từng kéo theo ưu thế của không lực mặc dầu ông là người đầu tiên tạo ra nó. Sự bỏ rơi các phi công ưu tú của các mẫu hạm mặc cho số phận hẩm hiu của họ, trong lúc mà một tổ chức kết hợp có thể cứu vớt hàng trăm người, đã là một trong các nguyên nhân đưa đến sự suy tàn của hạm đội liên hợp. Đúng lúc Yamamoto ngã gục dưới làn đạn của Lanphier, không phải ông ta đã thiếu chiến hạm và phi cơ, mà chính là thiếu các phi công ưu tú. Và ông đã chẳng làm gì để chặn đứng một cơn trích huyết mới.</p><p></p><p></p><p>Sự thờ ơ này lại càng đáng ngạc nhiên hơn khi mà các công binh xưởng của hải quân Nhật đang đổ ra các cố gắng lớn lao để hoàn thành các mẫu hạm Taiho, Unruyu và Chitose, và để biến thành một hàng không mẫu hạm không lổ, chiếc Shinano, thiết giáp hạm vĩ đại thứ ba đồng loại với chiếc Yamato, đang được đóng tại Yokosuka. Làm sao ông có thể hy vọng cấp cho chiến hạm ấy phi cơ và phi công, trong khi ông hy sinh họ bất kể tại các căn cứ đặt trên các đảo mà lại không có một nỗ lực song hành nào được thực hiện để thay thế họ?</p><p></p><p></p><p>Người ta không thể không nghĩ rằng, tay cao cờ bất trị ấy đã tung không lực của ông ra để hoặc là sạch nợ hoặc là ăn gấp đôi, vì biết rằng trong trường hợp thất bại, xứ sở ông vĩnh viễn bị bại trận.</p><p></p><p></p><p>Giá trị của giả thuyết này dường như đã được xác nhận bởi mối suy tư của vị tư lệnh cuối cùng của hạm đội liên hợp, người được quân Mỹ thẩm vấn sau chiến tranh về kế hoạch của vị tiền nhiệm, đã chỉ trả lời:</p><p></p><p>-Yamamoto đã gặp may. Ông chết rất đúng lúc.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124968, member: 17223"] Ngày 18 tháng 4 năm 1943, lúc 6 giờ sáng Đô đốc Yamamoto bước lên một oanh tạc cơ hai máy Mitsubishi với ba trong số các sĩ quan của ông. Đô đốc Ugaki, tham mưu trưởng của ông, bước lên chiếc thứ hai cùng loại. Cuộc viếng thăm đầu tiên của ông sẽ dành cho tướng Hyakudaté, tư lệnh Lộ quân 17, vừa rời khởi Rabaul để đến đặt bản doanh ở căn cứ tiền phương Buin tại Bougainville; nhưng ông đã dự liệu dừng chân trên hòn đảo nhro Ballale nơi đặt ban chỉ huy của hải đoàn mẫu hạm thứ hai. Các giới chức chỉ huy liên hệ đã báo trước bằng một công điện mã hoá ghi rõ giờ đến của các phi cơ. Sau khi cất cánh từ Rabaul và được chín khu trục cơ hộ tống, các oanh tạc cơ bay vòng miệng núi lửa bao quanh vịnh và hướng thẳng đến Bougainville. Các điều kiện phi hành đều rất tôt đẹp và các đỉnh núi xanh có sương mù bao phủ trên chóp đã bắt đầu hiện rõ. Đến 7 giờ 15 phút, các oanh tạc cơ bắt đầu giảm cao độ để tiến gần đến bờ biển và bay trên rừng rậm ở cao độ 600 thước trong khi các khu trục cơ vẫn giữ cao độ cũ. Đúng 7 giờ 30, tức là còn cách Ballade 15 phút bay, một trong các khu trục cơ hộ tống vừa trông thấy một toán phi cơ P.38 bay trên đầu, nên muốn báo hiệu cho Đô đốc càng sớm càng hay. Hành động này được các phi công oanh tạc cơ giải thích như là một sự thông báo cần hạ thấp xuống hầu đê trống xạ trường cho các khu trục cơ, và cả hai chiếc oanh tạc cơ đều chúi xuống thấp về phía rừng già. Nỗ lực điều động máy bay của họ vô ích. Nhờ có tốc độ cực lớn khi đâm bổ xuống các phi cơ P.38 bỏ xa dần các khu trục cơ Nhật và lao vào các oanh tạc cơ xả súng bắn ác liệt. Chiếc phi cơ của Đô đốc là chiếc bị trúng đạn đầu tiên và rơi tan tành xuống rừng già sau khi bốc cháy. Chiếc oanh tạc cơ thứ hai lái vòng ra biển cũng bị rượt kịp và bị bắn rơi xuống biển. Các phi cơ tuần thám bờ biển hấp tấp bay đến phía chiếc oanh tạc cơ đã chìm mất một nửa và kéo ra được Đô đốc Ugaki vốn bị thương rất nặng. Nhờ chỉ dẫn của các khu trục cơ, xác chiếc phi cơ của Yamamoto được đánh dấu và một đoàn quân thám sát vạch được một lối đi cho đến đó. Hai phần ba phi cơ bị cháy ra tro, nhưng chiếc ghế của Đô đốc bị văng ra xa khi phi cơ chạm đất. Xác ông có vẻ gần như nguyên vẹn và ông còn nắm chặt đuôi kiếm trong tay. Bốn sĩ quan tuỳ tùng của ông chỉ còn lại các mảnh vụn không nhận diện được. Viên bác sĩ khám nghiệm xác Đô đốc khám phá thấy các vết đạn trong đó có một viên trúng và tạo ra cái chết tức thời. Xác Yamamoto được đưa về Buin để hoả thiêu tại đấy. Tro tàn của người anh hùng Trân Châu Cảng được để trong một bình đựng di hài đặt trên một nấm mộ nhỏ kế cạnh bộ chỉ huy. Tin tức về tai hoạ này không thể nào giữ bí mật được lâu. Nó tạo ra một nỗi kinh hoàng vô bờ bến tại Nhật Bản. Dân chúng vốn bị giấu kín về cuộc thảm bại tại Midway, vốn luôn luôn coi Yamamoto như một vị tư lệnh không thể nào bị thua trận. Chắc chắn là niềm tin ấy không có gì sai lầm cả bởi vì sự thất bại này đã lệ thuộc vào một sự tình cờ có thể nói là kỳ diệu của các điều do máy Magic khám phá. Tại Hoa Kỳ, tin loan báo cái chết bị thảm của vị Tổng tư lệnh quân Nhật gây ra cả một cơn vui sướng bùng nổ thật sự. Rốt cuộc rồi Đáng toàn năng cũng đã trừng phạt kẻ có trách nhiệm về cuộc xâm lăng xảo trá tại Trân Châu Cảng! Đối với các lãnh tụ cao cấp của Hải quân, tin ấy không gây ngạc nhiên, vì một lần nữa bộ máy Magic lại đã hướng dẫn uy lực của công lý. Chiều ngày 17 tháng 4, Bộ trưởng Hải quân Frank Knox, đã được sở kiểm báo trình một điện văn đã được mở khoá, nhờ máy Magic, mặc khải tất cả chi tiết liên hệ đến chuyến thanh tra của vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp với giờ giấc hạ cánh và cất cánh. Sau khi tham khảo mau chóng với Đô đốc King, ông quyết định ra lệnh cho Halsey tổ chức một cuộc mai phục để loại trừ đối thủ nguy hiểm này. Buổi tối, một công điện tối mật được gửi đến cho đại uý Mitchell, không đoàn trưởng P.38 đặt căn cứ tại Henderson Field. Công điện ghi tất cả các tin tức về lộ trình và thành phần của đoàn phi cơ. Bình minh ngày 18, 16 chiếc P.38 cất cánh bay về phía Bougainville và đúng 7 giờ thì đến nơi. Phi đoàn bay vòng trên khu vực kế cận bờ biển bằng cách ẩn nấp trong mây ở cao độ rất lớn. Đúng 7 giờ 30, họ trông thấy các khu trục cơ hộ tống toàn phi cơ Nhật và mở cuộc tấn công. Chính đại uý Lanphier là người đuổi theo phi cơ của Yamamoto. Ông bắn một tràng dài vào động cơ bên phải từ phía sau và lập tức bay trốn khi thấy chiếc cánh phát hoả và tách ra khỏi phi cơ. Lần này bộ máy Magic tuyệt hảo đã vĩnh viễn khoá chặt số phận của nạn nhân. Hành động không có vẻ mã thượng tí nào. Cuộc phục kích tại Bogainville phảng phất khó chịu mùi vị của các cuộc thanh toán giữa bọn bất lương. Nhưng vết thương Trân Châu Cảng còn tươi rói và các nỗi khổ đau tại Guadalcanal cũng chưa dịu hẳn được. Vả chăng người ta có còn dừng lại mãi đó đâu! Nhiều trận đánh trên các đảo và chung quanh đảo đã trở nên vô cùng khốc liệt. Chẳng có một đồn trại nào và rất ít hoặc không có tù binh. Từ lâu chiến tranh tiềm thuỷ đỉnh đã là “không hạn chế” và từ lâu, các khu trục hạm Mỹ đã làm lơ khi chạy ngang qua các hàng lớp binh sĩ Nhật vùng vẫy trong mặt biển ngập đầy dầu máy. Quân Mỹ được khuyến khích bởi chính quân Nhật, vì họ không bao giờ dừng chiến hạm lại để cứu vớt đồng bào của họ. Chắc chắn là họ đã tuân phục một cách vô thức nguyên tắc dửng dưng với cái chết vốn rất thông thường tại Viễn Đông: bớt đi một tên lính Nhật là có thêm một hột gạo cho những người khác, phải không nào… Nhưng mặc dầu không thú nhận lộ liễu, Bộ tư lệnh tối cao Nhật cũng không có gì là không bằng lòng khi thấy nguyên tắc ấy được áp dụng trong mọi trường hợp. Điều mà họ thiếu thốn không phải là người, mà là vật liệu chiến tranh. Mất thì giờ và đặt chiến hạm vào tình trạng nguy hiểm trong một vụ cấp cứu là hành động không đáng được nghĩ đến đối với một binh sĩ Nhật rồi. Người Mỹ cũng thường áp dụng nguyên tắc này, nhưng chỉ khi nào bị nhu cầu bắt buộc. Mỗi khi có thể, họ cứu vớt những thuỷ thủ bị đắm tàu. Ngoài tất cả các vấn đề tình cảm, họ đã ước tính rằng tinh thần binh sĩ sẽ có thể được giữ vững trong một khung cảnh có tình liên đới toàn diện. Hơn nữa, họ là những người đầu tiên hiểu được rằng mạng sống của một phi công đánh giá bằng cả một tiểu đoàn bộ binh. Do đó nhiều khi họ đã không ngần ngại tổ chức cả một cuộc hành quân thu hồi thật sư với các thủy phi cơ và tiềm thủy đỉnh. Công cuộc tiếp cứu các phi hành đoàn bị hạ trong rừng rậm đã trở thành một trong các sứ mạng chính yếu của các Coast Watchers. Yamamoto không sớm hiểu được sự tái lượng gia đột ngột ấy về mạng sống con người vốn đã từng kéo theo ưu thế của không lực mặc dầu ông là người đầu tiên tạo ra nó. Sự bỏ rơi các phi công ưu tú của các mẫu hạm mặc cho số phận hẩm hiu của họ, trong lúc mà một tổ chức kết hợp có thể cứu vớt hàng trăm người, đã là một trong các nguyên nhân đưa đến sự suy tàn của hạm đội liên hợp. Đúng lúc Yamamoto ngã gục dưới làn đạn của Lanphier, không phải ông ta đã thiếu chiến hạm và phi cơ, mà chính là thiếu các phi công ưu tú. Và ông đã chẳng làm gì để chặn đứng một cơn trích huyết mới. Sự thờ ơ này lại càng đáng ngạc nhiên hơn khi mà các công binh xưởng của hải quân Nhật đang đổ ra các cố gắng lớn lao để hoàn thành các mẫu hạm Taiho, Unruyu và Chitose, và để biến thành một hàng không mẫu hạm không lổ, chiếc Shinano, thiết giáp hạm vĩ đại thứ ba đồng loại với chiếc Yamato, đang được đóng tại Yokosuka. Làm sao ông có thể hy vọng cấp cho chiến hạm ấy phi cơ và phi công, trong khi ông hy sinh họ bất kể tại các căn cứ đặt trên các đảo mà lại không có một nỗ lực song hành nào được thực hiện để thay thế họ? Người ta không thể không nghĩ rằng, tay cao cờ bất trị ấy đã tung không lực của ông ra để hoặc là sạch nợ hoặc là ăn gấp đôi, vì biết rằng trong trường hợp thất bại, xứ sở ông vĩnh viễn bị bại trận. Giá trị của giả thuyết này dường như đã được xác nhận bởi mối suy tư của vị tư lệnh cuối cùng của hạm đội liên hợp, người được quân Mỹ thẩm vấn sau chiến tranh về kế hoạch của vị tiền nhiệm, đã chỉ trả lời: -Yamamoto đã gặp may. Ông chết rất đúng lúc. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top