Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124940" data-attributes="member: 17223"><p>Đoạn thứ hai của cuộc hành trình lại càng khổ nhọc hơn đoạn đầu nhiều. Từ nửa đêm gió nổi lên thổi hàng loạt với cơn mưa như thác đổ. Tất cả hành khách đều kiệt sức, ướt loi ngoi, ngã quị vì những cơn say sóng rùng rợn. Không có vấn đề chạy chậm lại vì phải tuyệt đối đến được bờ biển Mindanao trước khi trời sáng.</p><p></p><p></p><p>Nhờ phép lạ, động cơ của hai chiếc khinh tốc đỉnh anh dũng chịu đựng sự thử thách và đến chiếc vịnh nhỏ vừa kịp, tại đây một tiểu đội tiền sát Mỹ đang chờ đón. Ngày 13 tháng 3 năm 1942 lúc 10 giờ sáng, mọi người tập họp dưới hăng ga phi trường Cogayan, phía bắc đảo. Điều thiếu thốn duy nhất là ba chiếc pháo đài bay được tiên liệu đến rước ông tướng và đoàn tuỳ tùng. Viên chỉ huy trưởng phi trường cho biết một chiếc bị rơi vỡ tan khi mới đến, hai chiếc khác ở trong tình trạng phải cho bay không trở về Úc. Ông ta hy vọng có hai chiếc mới sẽ đến vào hôm sau.</p><p></p><p></p><p>Thời gian chờ đợi kéo dài ba ngày. Viên Đại tá Mỹ lâm vào tình trạng nguy khốn kịch liệt bởi vì phi cơ Nhật mà ông ta không có gì để chống cự, lảng vảng rình mò khắp nơi và nếu chúng đánh hơi được chuyện gì đang xảy ra, chúng có thể thực hiện dễ dàng một mẻ lưới ngon lành nhất trong suốt cuộc chiến tranh.</p><p></p><p></p><p>Phần ông tướng thì lại vui vẻ. Ông đã chịu đựng rất cừ cuộc thử thách trên mặt biển. Đó là một con người ưa mạo hiểm và là một con người của các hoạt động đã làm thay hình đổi dạng. Trước những nguy cơ, ông biểu lộ một thái độ khinh thường quen thuộc. Một hôm, Tổng thống Quezon, bạn ông, ép ông phải vào hầm nấp khi bom địch rơi như mưa, ông vừa cười vừa trả lời: “Ông đừng có lo! Có nhiều trường hợp một ông tướng chết lại tốt hơn là một ông tướng sống!”.</p><p></p><p></p><p>Sau cùng, quá nửa đêm ngày 17 tháng 3, hai chiếc pháo đài bay chở nặng, cất cánh rời khỏi Mindanao đi Port Darwin. Cuộc hành tình bình yên và đến 9 giờ sáng phi cơ đáp xuống phi trường Batchelor Field. Phi trường quá lộ liễu đối với các cuộc tấn công của Nhật đến nỗi một phi cơ khác gần như cất cánh ngay lập tức với ông tướng và đoàn tuỳ tùng để có thể giúp ông mượn đường hoả xa xưa cũ, cách đó 1000 cây số về phía nam, đưa đến Adelaide. Khi sang phi cơ, Mac Arthur hỏi viên phi công Mỹ về tình tình tại Úc:</p><p></p><p>-Có bao nhiêu quân sĩ ở đây để phản công?</p><p></p><p>Người sĩ quan trẻ chưa bao giờ được nghe nói gì đến vấn đề này, trả lời ấp úng:</p><p></p><p>-Thưa Trung tướng, tất cả những gì tôi được biết là chúng ta chỉ có một nhóm người nhỏ tại Úc mà thôi…</p><p></p><p>Sau khi phi cơ cất cánh, Mac Arthur quay sang vừa cười vừa nói với Sutherland:</p><p></p><p>-Bọn trẻ giống nhau cả, họ chẳng biết chuyện gì xảy ra…</p><p></p><p>Phi cơ đáp xuống ngay giữa sa mạc cạnh một nhà ga xe lửa sau ba giờ bay. Hai toa xe lửa có trần chạm trổ được móc vào một đầu máy bằng đồng đỏ đang khạc ra từng quả cầu hơi nước trắng. Mac Arthur và đoàn tuỳ tùng ở trong các toa chật hẹp nhưng tiện nghi mà ghế bọc da sáng loáng và các màn cửa thêu dường như xưa cũ từ thời nữ hoàng Victoria. Đối với các hành khách nhọc mệt này thì đây là cả một góc thiên đường, là sự di dưỡng sau cơn ác mộng bom đạn, là sự nghỉ ngơi sau nhiều đêm tức trắng.</p><p></p><p></p><p>Hôm sau, trong chuyến hành trình diệu vợi qua sa mạc, ông tướng xua đuổi các ưu tư bằng cách kể cho cậu bé Arthur, đầy kinh ngạc, nghe các cuộc phiêu lưu của những người Úc tiền phong: các cuộc tấn công xe ngựa bởi những tay “convicts” nổi loạn, các chiến tích rùng rợn của tên cướp Ben Joyce, mối đe doạ của đàn kangourous xuất hiện đột ngột bằng cách nhảy như một đám mây châu chấu…</p><p></p><p></p><p>Tại Adelaide phải miễn cưỡng rời bỏ các toa xe nhỏ nhồi xóc của xứ thần tiên để bước lên các toa xe sang trọng do chính phủ Úc đặc biệt phái đến đón. Đối với cậu con, nếu không phải là đối với người cha, cuộc phiêu lưu điên cuồng đã chấm dứt.</p><p></p><p></p><p>Sự thức tỉnh thật tàn bạo. Khi đến Melbourne, Mac Arthur sửng sốt biết rằng viên phi công trẻ tại Darwin đã nói đúng sư thật. Trên khắp nước Úc chỉ có độ chừng 25.000 quân Mỹ, gần như hầu hết là pháo thủ phòng vệ duyên hải, pháo thủ phòng không hay chuyên viên công binh. Không có đơn vị không quân nào, nhưng có 200 phi cơ phân tán trên khắp một lục địa cũng rộng bằng lãnh thổ Hoa Kỳ. Còn hơn thế nữa! Ngoài một lữ đoàn bộ binh vừa đến Perth, tất cả các sư đoàn bộ binh của Úc còn đang ở tại Trung Đông hay Ấn Độ. Không những không có vấn đề đạo quân viễn chinh để tái chiếm Phi Luật Tân, mà cũng chẳng còn gì để phòng vệ một lãnh thổ mông mênh cô quạnh như thế trên địa cầu mà phần cực bắc bị bao bọc bởi các quần đảo gần như hoàn toàn nằm trong tay Nhật.</p><p></p><p></p><p>Tất cả những tin tức ấy rơi trên người ông như những hột mưa đá trong cơn giông tố. Mặt ông tái xanh. Lần đầu tiên trong đời ông suýt bị xỉu. Ông thì thầm qua làn môi mím chặt: “Xin Thượng đế giúp đỡ!” và khắp chặt mình trong toa xe lửa.</p><p></p><p></p><p>May thay, một niềm khích lệ lớn lao chờ đợi ông ở cuối cuộc hành trình bất tận. Người đón tiếp ông đứng đen nghẹt sân ga, và khi ông bước xuống, tiếng hoan hô vang trời. Nhiệt tình đầm ấm đó cũng chờ đợi ông nơi Thủ tươớn Curtin, ông ta không giấu giếm là do sự khẩn nài cấp bách của mình, Tổng thống Roosevelt mới chỉ định ông. Vài giờ sau, ông phải bất ngờ đọc một diễn văn khác tại Quốc hội. Ông vẫn mặc bộ quân phục kaki bạc màu và chiếc nón kết khổng lồ viền lá sồi kim tuyến mà những cơn mưa lũ nhiệt đói đã làm méo mó phần nào. Mặc cho vẻ tiều tuỵ biểu lộ sự mệt mỏi ghê gớm, những lời ông nói ra đã làm rung động quả tim người lắng nghe ông. Ông nói với tất cả những người lạ mặt ấy rằng ông cảm thấy như đang ở nhà mình cùng với họ, rằng tất cả mọi người đều được kết nối chặt chẽ với nhau bằng dây liên lạc huyết thống, bởi cùng chung lý tưởng cùng yêu mến tự do và rằng ông đến đây để chiến thắng hay để cùng chết với họ.</p><p></p><p></p><p>Mỗi người đều cảm thấy ông nói đúng và cái ông tướng có bộ dáng như một đại tài tử trở lại sân khấu này đã có một đức tính chủ yếu đối với họ: Ông có quả tim hoàn toàn kết chặt với phía thiện lương.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124940, member: 17223"] Đoạn thứ hai của cuộc hành trình lại càng khổ nhọc hơn đoạn đầu nhiều. Từ nửa đêm gió nổi lên thổi hàng loạt với cơn mưa như thác đổ. Tất cả hành khách đều kiệt sức, ướt loi ngoi, ngã quị vì những cơn say sóng rùng rợn. Không có vấn đề chạy chậm lại vì phải tuyệt đối đến được bờ biển Mindanao trước khi trời sáng. Nhờ phép lạ, động cơ của hai chiếc khinh tốc đỉnh anh dũng chịu đựng sự thử thách và đến chiếc vịnh nhỏ vừa kịp, tại đây một tiểu đội tiền sát Mỹ đang chờ đón. Ngày 13 tháng 3 năm 1942 lúc 10 giờ sáng, mọi người tập họp dưới hăng ga phi trường Cogayan, phía bắc đảo. Điều thiếu thốn duy nhất là ba chiếc pháo đài bay được tiên liệu đến rước ông tướng và đoàn tuỳ tùng. Viên chỉ huy trưởng phi trường cho biết một chiếc bị rơi vỡ tan khi mới đến, hai chiếc khác ở trong tình trạng phải cho bay không trở về Úc. Ông ta hy vọng có hai chiếc mới sẽ đến vào hôm sau. Thời gian chờ đợi kéo dài ba ngày. Viên Đại tá Mỹ lâm vào tình trạng nguy khốn kịch liệt bởi vì phi cơ Nhật mà ông ta không có gì để chống cự, lảng vảng rình mò khắp nơi và nếu chúng đánh hơi được chuyện gì đang xảy ra, chúng có thể thực hiện dễ dàng một mẻ lưới ngon lành nhất trong suốt cuộc chiến tranh. Phần ông tướng thì lại vui vẻ. Ông đã chịu đựng rất cừ cuộc thử thách trên mặt biển. Đó là một con người ưa mạo hiểm và là một con người của các hoạt động đã làm thay hình đổi dạng. Trước những nguy cơ, ông biểu lộ một thái độ khinh thường quen thuộc. Một hôm, Tổng thống Quezon, bạn ông, ép ông phải vào hầm nấp khi bom địch rơi như mưa, ông vừa cười vừa trả lời: “Ông đừng có lo! Có nhiều trường hợp một ông tướng chết lại tốt hơn là một ông tướng sống!”. Sau cùng, quá nửa đêm ngày 17 tháng 3, hai chiếc pháo đài bay chở nặng, cất cánh rời khỏi Mindanao đi Port Darwin. Cuộc hành tình bình yên và đến 9 giờ sáng phi cơ đáp xuống phi trường Batchelor Field. Phi trường quá lộ liễu đối với các cuộc tấn công của Nhật đến nỗi một phi cơ khác gần như cất cánh ngay lập tức với ông tướng và đoàn tuỳ tùng để có thể giúp ông mượn đường hoả xa xưa cũ, cách đó 1000 cây số về phía nam, đưa đến Adelaide. Khi sang phi cơ, Mac Arthur hỏi viên phi công Mỹ về tình tình tại Úc: -Có bao nhiêu quân sĩ ở đây để phản công? Người sĩ quan trẻ chưa bao giờ được nghe nói gì đến vấn đề này, trả lời ấp úng: -Thưa Trung tướng, tất cả những gì tôi được biết là chúng ta chỉ có một nhóm người nhỏ tại Úc mà thôi… Sau khi phi cơ cất cánh, Mac Arthur quay sang vừa cười vừa nói với Sutherland: -Bọn trẻ giống nhau cả, họ chẳng biết chuyện gì xảy ra… Phi cơ đáp xuống ngay giữa sa mạc cạnh một nhà ga xe lửa sau ba giờ bay. Hai toa xe lửa có trần chạm trổ được móc vào một đầu máy bằng đồng đỏ đang khạc ra từng quả cầu hơi nước trắng. Mac Arthur và đoàn tuỳ tùng ở trong các toa chật hẹp nhưng tiện nghi mà ghế bọc da sáng loáng và các màn cửa thêu dường như xưa cũ từ thời nữ hoàng Victoria. Đối với các hành khách nhọc mệt này thì đây là cả một góc thiên đường, là sự di dưỡng sau cơn ác mộng bom đạn, là sự nghỉ ngơi sau nhiều đêm tức trắng. Hôm sau, trong chuyến hành trình diệu vợi qua sa mạc, ông tướng xua đuổi các ưu tư bằng cách kể cho cậu bé Arthur, đầy kinh ngạc, nghe các cuộc phiêu lưu của những người Úc tiền phong: các cuộc tấn công xe ngựa bởi những tay “convicts” nổi loạn, các chiến tích rùng rợn của tên cướp Ben Joyce, mối đe doạ của đàn kangourous xuất hiện đột ngột bằng cách nhảy như một đám mây châu chấu… Tại Adelaide phải miễn cưỡng rời bỏ các toa xe nhỏ nhồi xóc của xứ thần tiên để bước lên các toa xe sang trọng do chính phủ Úc đặc biệt phái đến đón. Đối với cậu con, nếu không phải là đối với người cha, cuộc phiêu lưu điên cuồng đã chấm dứt. Sự thức tỉnh thật tàn bạo. Khi đến Melbourne, Mac Arthur sửng sốt biết rằng viên phi công trẻ tại Darwin đã nói đúng sư thật. Trên khắp nước Úc chỉ có độ chừng 25.000 quân Mỹ, gần như hầu hết là pháo thủ phòng vệ duyên hải, pháo thủ phòng không hay chuyên viên công binh. Không có đơn vị không quân nào, nhưng có 200 phi cơ phân tán trên khắp một lục địa cũng rộng bằng lãnh thổ Hoa Kỳ. Còn hơn thế nữa! Ngoài một lữ đoàn bộ binh vừa đến Perth, tất cả các sư đoàn bộ binh của Úc còn đang ở tại Trung Đông hay Ấn Độ. Không những không có vấn đề đạo quân viễn chinh để tái chiếm Phi Luật Tân, mà cũng chẳng còn gì để phòng vệ một lãnh thổ mông mênh cô quạnh như thế trên địa cầu mà phần cực bắc bị bao bọc bởi các quần đảo gần như hoàn toàn nằm trong tay Nhật. Tất cả những tin tức ấy rơi trên người ông như những hột mưa đá trong cơn giông tố. Mặt ông tái xanh. Lần đầu tiên trong đời ông suýt bị xỉu. Ông thì thầm qua làn môi mím chặt: “Xin Thượng đế giúp đỡ!” và khắp chặt mình trong toa xe lửa. May thay, một niềm khích lệ lớn lao chờ đợi ông ở cuối cuộc hành trình bất tận. Người đón tiếp ông đứng đen nghẹt sân ga, và khi ông bước xuống, tiếng hoan hô vang trời. Nhiệt tình đầm ấm đó cũng chờ đợi ông nơi Thủ tươớn Curtin, ông ta không giấu giếm là do sự khẩn nài cấp bách của mình, Tổng thống Roosevelt mới chỉ định ông. Vài giờ sau, ông phải bất ngờ đọc một diễn văn khác tại Quốc hội. Ông vẫn mặc bộ quân phục kaki bạc màu và chiếc nón kết khổng lồ viền lá sồi kim tuyến mà những cơn mưa lũ nhiệt đói đã làm méo mó phần nào. Mặc cho vẻ tiều tuỵ biểu lộ sự mệt mỏi ghê gớm, những lời ông nói ra đã làm rung động quả tim người lắng nghe ông. Ông nói với tất cả những người lạ mặt ấy rằng ông cảm thấy như đang ở nhà mình cùng với họ, rằng tất cả mọi người đều được kết nối chặt chẽ với nhau bằng dây liên lạc huyết thống, bởi cùng chung lý tưởng cùng yêu mến tự do và rằng ông đến đây để chiến thắng hay để cùng chết với họ. Mỗi người đều cảm thấy ông nói đúng và cái ông tướng có bộ dáng như một đại tài tử trở lại sân khấu này đã có một đức tính chủ yếu đối với họ: Ông có quả tim hoàn toàn kết chặt với phía thiện lương. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top