Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124932" data-attributes="member: 17223"><p>Vài ngày sau, cơ sở tình báo thuộc quyền thông báo cho Wavell một hải lực tập trung của Nhật đang được thành lập tại quần đảo Anambas. Tân Gia Ba đã bị vây hãm, đích đến của các chiến hạm này chỉ có thể là Sumatra vì nơi đây các mỏ dầu hoả phong phú tạo thành mục tiêu chính yếu của địch. Ông ra lệnh ngay cho Doorman tập họp tất cả các chiến hạm có mặt tại phía tây Java và cho Brereton tung ra tất cả các oanh tạc cơ có sẵn trên quần đảo Anambas. Không có một pháo đài bay nào ở trong tình trạng bay được, do đó chính các oanh tạc cơ của không lực RFA vừa mới đến Palembang được giao cho sứ mạng này.</p><p></p><p></p><p>9 giờ tối ngày 11 tháng 2, chừng 20 chiếc Blênhim và Hudson nối đuôi nhau ở đầu phi đạo. Khi vài chiếc đầu tiên vừa cất cánh, một cơn giông nhiệt đới ào đến và mau lẹ biến thành cuồng phong dữ dội. Ba phi cơ rơi vỡ tan ở cuối phi đạo, chiếc thứ tư cất cánh được nhưng phải quay về và đáp xuống ngay. Chỉ có 5 chiếc Hudson là bay đến được Anambas nhưng thời tiết quá xấu và hoả lực phòng không quá dữ dội đến nỗi các phi công phải ném bom đại và quay về Palembang.</p><p></p><p>Sáng hôm sau, tin tức cho hay là đoàn tàu địch đã nhổ neo hướng về phía Nam. Cuộc xâm chiếm Sumatra bắt đầu.</p><p></p><p></p><p>Trong những ngày 12 và 13 tháng 2, một thời tiết dễ sợ vẫn tiếp tục che chở đoàn công voa Nhật tránh khỏi không lực RFA. Mặc dầu bị tấn công vài lần, toàn thể đoàn tàu đã đến được eo biển phân cách Palembang và đảo Banka. Bộ binh Anh và Hà Lan bị hải pháo từ các chiến hạm địch mau lẹ gây tán loạn và các xuồng đổ bộ bắt đầu đổ quân lên bãi biển. Bình minh ngày 14, ba trăm sáu mươi binh sĩ nhảy dù Nhật được thả xuống vùng lân cận phi trường chính của Palembang trong khi đó các khu trục cơ Nhật bắn phá vào các phi cơ-may thay không có là bao nhiêu-còn đậu dưới mặt đất. Sau những trận đánh rất dữ dội kéo dài suốt ngày, Tư lệnh các đơn vị quân đội Hà Lan quyết định tập trung lực lượng tại phi trường chính. Nhưng các phi cơ Nhật được tiếp tế ngay tại phi trường này lại cất cánh lập tức và bắn xối xả liên tục vào các đơn vị bộ binh Đồng minh. Sáng ngày 15 tháng 2, không còn vấn đề phản công nữa nhưng chỉ còn vấn đề là làm sao rút lui thật nhanh để đến được Java qua Ostaven và eo biển Sonde.</p><p></p><p></p><p>Trong khi các trận đánh trên đang diễn ra, Đô đốc Doorman theo lệnh của Hart, đã cho phân tán mỏng các chiến hạm phía nam Bali để đặt chúng ra ngoài tầm oanh tạc cơ địch và giờ đây đang tập họp chúng để đến tấn công các đoàn công voa Nhật tại Sumatra. Nhưng các chiến hạm này lại ở cách xa mục tiêu đến 800 hải lý.</p><p></p><p></p><p>Mãi đến tối ngày 14 tháng 2, những chiếc De Ruyter, Java, Tromp và Exeter được hộ tống bởi tuần dương hạm hạng nhẹ của Úc Hobart, bốn khu trục hạm Hà Lan và sáu của Mỹ, mới đến được eo biển Sonde.</p><p></p><p></p><p>Đoàn tàu vượt qua eo biển trong đêm tối mịt, khiến chiếc phóng ngư lôi hạm của Hà Lan Van Ghent, bị mưa lũ che khuất, đã đụng phải đá ngầm bị thiệt hại nặng nề. Bình minh hôm sau, đoàn tàu ra ngoài khơi đảo Banka, chạy vòng phía Bắc đảo này để đánh bọc hậu đoàn dương vận hạm Nhật đang buông neo trước Palembang.</p><p></p><p></p><p>Đến 8 giờ sáng ngày 15, do một khoảng trời sáng, đoàn tàu Đồng minh bị một phi cơ Nhật trông thấy. Một giờ sau, đợt phi cơ oanh tạc đầu tiên bay đến. Bay cao khỏi tầm đạn DCA của các chiến hạm, nhưng các oanh tạc cơ này cũng vẫn thả bom rất chính xác và hạm đội của Doorman đành bỏ cuộc tấn công. Nhờ các vận chuyển liên tục, các tuần dương hạm tránh được các đòn trực tiếp và chỉ phải chịu đựng vài quả bom nổ gần; nhưng cuộc báo động nóng bỏng biết bao! Vào khoảng 6 giờ chiều, Doorman tập họp được hạm đội trở lại và chạy trở về eo biển. Hôm sau, hạm đội trở về buông neo tại Tjilatjap. Chiếc tuần dương hạm cũ kỹ Hobart và các chiến hạm tuần tiễu nhỏ của Anh có vẻ bị đe doạ quá nên được phép chạy về Colombo.</p><p></p><p></p><p>Chứng cứ cho thấy rằng, không được không quân che chở, hạm đội Đồng minh chỉ có thể hành quân ban đêm bằng cách áp dụng chiến thuật “Hit and run” (đánh và chạy).</p><p>Ngày 15 tháng 2 còn được đánh dấu bởi nhiều thảm hoạ khác. Tại Tân Gia Ba, quân Nhật chiếm được các hồ chứa nước ngọt. Dự trữ xăng cũng như đạn pháo binh đều cạn. Các tướng lĩnh chỉ huy ba điểm tựa, đang còn đánh nhau với địch, báo cho Percival rõ rằng mọi cuộc phản công đều bất khả và quân đội thiếu nước không thể nào chiến đấu hơn 24 giờ nữa. Toan tính rút lui về thành phố và tổ chức chiến đấu từ nhà này qua nhà kia đã có lúc được liệu đến nhưng số lượng người tị nạn Âu châu về bản xứ đông đến nỗi một quyết định như vậy chắc chắn sẽ kéo theo một cuộc tàn sát không thể tưởng tượng được, Percival báo cáo cho Wavell rõ tình trạng bi thảm hiện tại của ông. Điều này là cả một đòn búa bổ kinh hồn đối với Wavell. Ông vẫn còn hy vọng Tân Gia Ba đứng vững vài tuần và ý tưởng về một đạo quân Anh với quân số quan trọng nhường ấy lại phải đầu hàng làm ông không thể chịu đựng nổi. Ông trả lời Percival bằng cách nhắc lại rằng mỗi giờ phút đứng vững có tầm quan trọng sống còn và phải chiến đấu “chừng nào có thể gây được thiệt hại cho địch quân”. Khi nhận được điện văn này những quân nhân đáng thương phòng vệ Tân Gia Ba phải nấp kín trong hâầm bị cơn khát và sốt hành hạ, rõ ràng là không còn khả năng gì gây tổn thất cho địch. Đến một giờ trưa, Percival gửi một đại diện đến gặp tướng Yamashita, ông này đòi hỏi phải đích thân tư lệnh quân Anh đến gặp. Điều kiện đầu hàng thật khắc nghiệt. Chừng 80.000 quân Anh phải đầu hàng với tất cả quân cụ và các thường dân phải được đoàn ngũ hoá để tái lập công sở và các tư gia bị bom đạn phá huỷ. Môộ vài cuộc hành quyết công khai và cuộc tàn sát các người bị thương đang nằm chật ních trong các bệnh viện đánh dấu bước khởi đầu của một chế độ chiếm đóng tàn nhẫn nhất trong chiến tranh.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124932, member: 17223"] Vài ngày sau, cơ sở tình báo thuộc quyền thông báo cho Wavell một hải lực tập trung của Nhật đang được thành lập tại quần đảo Anambas. Tân Gia Ba đã bị vây hãm, đích đến của các chiến hạm này chỉ có thể là Sumatra vì nơi đây các mỏ dầu hoả phong phú tạo thành mục tiêu chính yếu của địch. Ông ra lệnh ngay cho Doorman tập họp tất cả các chiến hạm có mặt tại phía tây Java và cho Brereton tung ra tất cả các oanh tạc cơ có sẵn trên quần đảo Anambas. Không có một pháo đài bay nào ở trong tình trạng bay được, do đó chính các oanh tạc cơ của không lực RFA vừa mới đến Palembang được giao cho sứ mạng này. 9 giờ tối ngày 11 tháng 2, chừng 20 chiếc Blênhim và Hudson nối đuôi nhau ở đầu phi đạo. Khi vài chiếc đầu tiên vừa cất cánh, một cơn giông nhiệt đới ào đến và mau lẹ biến thành cuồng phong dữ dội. Ba phi cơ rơi vỡ tan ở cuối phi đạo, chiếc thứ tư cất cánh được nhưng phải quay về và đáp xuống ngay. Chỉ có 5 chiếc Hudson là bay đến được Anambas nhưng thời tiết quá xấu và hoả lực phòng không quá dữ dội đến nỗi các phi công phải ném bom đại và quay về Palembang. Sáng hôm sau, tin tức cho hay là đoàn tàu địch đã nhổ neo hướng về phía Nam. Cuộc xâm chiếm Sumatra bắt đầu. Trong những ngày 12 và 13 tháng 2, một thời tiết dễ sợ vẫn tiếp tục che chở đoàn công voa Nhật tránh khỏi không lực RFA. Mặc dầu bị tấn công vài lần, toàn thể đoàn tàu đã đến được eo biển phân cách Palembang và đảo Banka. Bộ binh Anh và Hà Lan bị hải pháo từ các chiến hạm địch mau lẹ gây tán loạn và các xuồng đổ bộ bắt đầu đổ quân lên bãi biển. Bình minh ngày 14, ba trăm sáu mươi binh sĩ nhảy dù Nhật được thả xuống vùng lân cận phi trường chính của Palembang trong khi đó các khu trục cơ Nhật bắn phá vào các phi cơ-may thay không có là bao nhiêu-còn đậu dưới mặt đất. Sau những trận đánh rất dữ dội kéo dài suốt ngày, Tư lệnh các đơn vị quân đội Hà Lan quyết định tập trung lực lượng tại phi trường chính. Nhưng các phi cơ Nhật được tiếp tế ngay tại phi trường này lại cất cánh lập tức và bắn xối xả liên tục vào các đơn vị bộ binh Đồng minh. Sáng ngày 15 tháng 2, không còn vấn đề phản công nữa nhưng chỉ còn vấn đề là làm sao rút lui thật nhanh để đến được Java qua Ostaven và eo biển Sonde. Trong khi các trận đánh trên đang diễn ra, Đô đốc Doorman theo lệnh của Hart, đã cho phân tán mỏng các chiến hạm phía nam Bali để đặt chúng ra ngoài tầm oanh tạc cơ địch và giờ đây đang tập họp chúng để đến tấn công các đoàn công voa Nhật tại Sumatra. Nhưng các chiến hạm này lại ở cách xa mục tiêu đến 800 hải lý. Mãi đến tối ngày 14 tháng 2, những chiếc De Ruyter, Java, Tromp và Exeter được hộ tống bởi tuần dương hạm hạng nhẹ của Úc Hobart, bốn khu trục hạm Hà Lan và sáu của Mỹ, mới đến được eo biển Sonde. Đoàn tàu vượt qua eo biển trong đêm tối mịt, khiến chiếc phóng ngư lôi hạm của Hà Lan Van Ghent, bị mưa lũ che khuất, đã đụng phải đá ngầm bị thiệt hại nặng nề. Bình minh hôm sau, đoàn tàu ra ngoài khơi đảo Banka, chạy vòng phía Bắc đảo này để đánh bọc hậu đoàn dương vận hạm Nhật đang buông neo trước Palembang. Đến 8 giờ sáng ngày 15, do một khoảng trời sáng, đoàn tàu Đồng minh bị một phi cơ Nhật trông thấy. Một giờ sau, đợt phi cơ oanh tạc đầu tiên bay đến. Bay cao khỏi tầm đạn DCA của các chiến hạm, nhưng các oanh tạc cơ này cũng vẫn thả bom rất chính xác và hạm đội của Doorman đành bỏ cuộc tấn công. Nhờ các vận chuyển liên tục, các tuần dương hạm tránh được các đòn trực tiếp và chỉ phải chịu đựng vài quả bom nổ gần; nhưng cuộc báo động nóng bỏng biết bao! Vào khoảng 6 giờ chiều, Doorman tập họp được hạm đội trở lại và chạy trở về eo biển. Hôm sau, hạm đội trở về buông neo tại Tjilatjap. Chiếc tuần dương hạm cũ kỹ Hobart và các chiến hạm tuần tiễu nhỏ của Anh có vẻ bị đe doạ quá nên được phép chạy về Colombo. Chứng cứ cho thấy rằng, không được không quân che chở, hạm đội Đồng minh chỉ có thể hành quân ban đêm bằng cách áp dụng chiến thuật “Hit and run” (đánh và chạy). Ngày 15 tháng 2 còn được đánh dấu bởi nhiều thảm hoạ khác. Tại Tân Gia Ba, quân Nhật chiếm được các hồ chứa nước ngọt. Dự trữ xăng cũng như đạn pháo binh đều cạn. Các tướng lĩnh chỉ huy ba điểm tựa, đang còn đánh nhau với địch, báo cho Percival rõ rằng mọi cuộc phản công đều bất khả và quân đội thiếu nước không thể nào chiến đấu hơn 24 giờ nữa. Toan tính rút lui về thành phố và tổ chức chiến đấu từ nhà này qua nhà kia đã có lúc được liệu đến nhưng số lượng người tị nạn Âu châu về bản xứ đông đến nỗi một quyết định như vậy chắc chắn sẽ kéo theo một cuộc tàn sát không thể tưởng tượng được, Percival báo cáo cho Wavell rõ tình trạng bi thảm hiện tại của ông. Điều này là cả một đòn búa bổ kinh hồn đối với Wavell. Ông vẫn còn hy vọng Tân Gia Ba đứng vững vài tuần và ý tưởng về một đạo quân Anh với quân số quan trọng nhường ấy lại phải đầu hàng làm ông không thể chịu đựng nổi. Ông trả lời Percival bằng cách nhắc lại rằng mỗi giờ phút đứng vững có tầm quan trọng sống còn và phải chiến đấu “chừng nào có thể gây được thiệt hại cho địch quân”. Khi nhận được điện văn này những quân nhân đáng thương phòng vệ Tân Gia Ba phải nấp kín trong hâầm bị cơn khát và sốt hành hạ, rõ ràng là không còn khả năng gì gây tổn thất cho địch. Đến một giờ trưa, Percival gửi một đại diện đến gặp tướng Yamashita, ông này đòi hỏi phải đích thân tư lệnh quân Anh đến gặp. Điều kiện đầu hàng thật khắc nghiệt. Chừng 80.000 quân Anh phải đầu hàng với tất cả quân cụ và các thường dân phải được đoàn ngũ hoá để tái lập công sở và các tư gia bị bom đạn phá huỷ. Môộ vài cuộc hành quyết công khai và cuộc tàn sát các người bị thương đang nằm chật ních trong các bệnh viện đánh dấu bước khởi đầu của một chế độ chiếm đóng tàn nhẫn nhất trong chiến tranh. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top