Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124931" data-attributes="member: 17223"><p>Về phương diện tổng quát, hải lực Đồng minh như vậy có thể so sánh được với lực lượng hải quân Nhật có ý định mạo hiểm đi vào biển Java, nhưng có điểm khác nhau là chúng không được thuần nhất, chia rẽ vì ngôn ngữ khác nhau, không có chủ thuyết chiến thuật và không có phương tiện báo hiệu chung.</p><p></p><p></p><p>Hơn nữa, ở cấp chỉ huy tối cao, còn lâu mới có đồng quan điểm. Đã chứng kiến các cuộc oanh tạc xuống căn cứ Cavite và Corregidor, Hart không còn có ảo tưởng gì về việc thắng trận. Ông chỉ có một ý tưởng là giữ cho các tuần dương hạm của ông hoạt động phía Đông Java để giúp chúng chạy trốn kịp thời về Úc châu. Collins, bị ám ảnh bởi sự phòng thủ Tân Gia Ba, chỉ quan tâm đến những gì xảy ra tại phía Tây. Riêng phần Phó Đô đốc Hà Lan Ian Helfrich, Tư lệnh Hải quân Hà Lan, rất bực bội phải nhận sự lệ thuộc của người ta áp đặt lên ông. Ông ước tính một cách hữu lý rằng tốt hơn hết là đặt tất cả hải lực Đồng minh dưới quyền ông và sử dụng Bộ tham mưu của ông hơn là đặt ra một Bộ tham mưu mới vào phút chót. Trong tình cảnh trái nghịch nhau đó, Hart chấp nhận giải pháp đơn giản nhất: để cho các Tư lệnh hạm đội quyền có sáng kiến rộng rãi và chỉ can thiệp vào bằng cách ra lệnh cho Hải quân Mỹ mà thôi.</p><p></p><p></p><p>Chính ông là người được vinh dự nhờ một sứ mạng tấn công hữu hiệu đầu tiên đánh vào hạm đội tập trung của Nhật. Ngày 20 tháng giêng, được tin có một đoàn công voa lớn lao đang bỏ neo ngoài khơi Balikpapan, ông ra lệnh cho Đô đốc Glassford tiến đến tấn công. Chiếc Boise và chiếc Marblehead vừa đến Kupang, hải cảng chính của đảo Timor để được tiếp tế nhiên liệu sau kế hoạch hộ tống các đoàn công voa khởi hành từ Úc và trở về. Ngay khi được tiếp tế xong, Glassford nhổ neo cùng với hai tuần dương hạm và bốn khu trục hạm để đến trước mặt Balikpapan lúc 2 giờ sáng ngày hôm sau nữa.</p><p></p><p></p><p>Ngay khi khởi hành, rủi ro đã xảy ra, chiếc Boise, mà Glassford dùng làm chiến hạm chỉ huy và dẫn đầu, đụng phải đá ngầm trong eo biển Sape. Một vết thủng quan trọng làm nước tuôn vào được phát giác, Đô đốc phải kéo cờ lệnh trên tuần dương hạm Marblehead và cho chiếc Boise trở lai Úc châu. Giây lát sau, chính chiếc Marblehead dừng lại vì hỏng máy. Sau khi sửa chữa tạm thời, chiếc tuần dương hạm lại tiếp tục chạy nhưng vì nó chỉ có thể chạy với tốc lực 15 gút, Glassford đành để cho các khu trục hạm vượt qua tiến về phía Balikpapan và cho chúng điểm hẹn để che chở chúng khi rút lui.</p><p></p><p></p><p>Bốn chiến hạm nhỏ này, được đặt dưới quyền chỉ huy sáng chói của Đại tá Paul Talbot, đến Balikpapan lúc 3 giờ sáng và thấy một đám dương vận hạm tập trung lớn lao của Nhật in bóng đằng sau ánh lửa của các chiếc giếng dầu đang bốc cháy. Trong hơn một giờ, các khu trục hạm len lỏi vào giữa đoàn tàu vừa chạy vừa bắn và phóng tất cả các thuỷ lôi. Bị bất ngờ, vì cuộc tấn công đột ngột, quân Nhật phản ứng chậm chạp và khi các khu trục hạm tập họp để giải cứu, chúng không còn thể nào đuổi kịp kẻ tấn công. Tất cả chiến hạm Mỹ trở về Sourabaya mà không bị trở ngại gì.</p><p></p><p></p><p>Đấy là chiến thắng đầu tiên của các chiến hạm Đồng minh kể từ khi khởi đầu chiến tranh và quân Mỹ hân hoan ca khúc khải hoàn, tuy nhiên những gì lẽ ra phải là một cuộc tàn sát, trong thực tế chỉ như một vết kim châm. Gần như tất cả các thủy lôi của Mỹ đều tác động tệ hại, chạy ngang qua bên dưới tàu địch rồi nổ thật chậm hoặc là tịt ngòi luôn. Tổn thất của Nhật giới hạn trong số bốn chiếc tàu chở hàng và một tàu hộ tống nhỏ. Các cuộc đổ bộ có chậm đi đôi chút, nhưng không gián đoạn.</p><p></p><p></p><p>Tuy vậy cuộc tấn công tại Balikpapan đem lại một kết quả may mắn: nó làm cho mũi tiến quân của Nhật quyết định lấy một điểm tựa khác tại Bandermasin, phía bị trì hoãn lại ít lâu, thật vậy Bộ tư lệnh Nhật tây Bornéo, trước khi khởi cuộc tấn công.</p><p></p><p></p><p>Tháng giêng yên tĩnh trôi qua không bị cuộc báo động mới mẻ nào và, ngày 2 tháng 2, Hart muốn tái diễn cuộc tấn công với sự hậu thuẫn của Hải quân Hà Lan, vào Balikpapan mà lần trước đã gần đạt được thành công hoàn toàn. Một lực lượng hải quân đột kích được thành lập đặt dưới quyền chỉ huy Phó Đô đốc Doorman với những chiếc De Ruyter, Tromp, Marblehead và Houston, ba khu trục hạm Hà Lan và bốn của Mỹ. Hải Lực nhổ neo tại Sourabaya trong đêm, nhưng đến sáng ngày 3 tháng 2, trong lúc lực lượng xung kích đang chạy theo hàng dọc cách phía bắc Bali 50 hải lý, thì một đoàn 80 oanh tạc cơ Nhật đột ngột hiện ra khỏi các đám mây và ném bom xuống đoàn chiến hạm Đồng minh. Ba tuần dương hạm bị trúng bom và Doorman phải cho lệnh quay lui để trở về Tjilatjap, trên bờ biển phía nam Java, hải cảng duy nhất nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật. Khi đến Tjilatjap, bảng kết toán những thiệt hại nặng nề: tuần dương hạm Marblehead bị hư nặng đến nỗi phải gửi về Mỹ, chiếc Houston bị sập tháp pháo phía sau và bộ phận điều khiển hướng bắn chống phi cơ bị hỏng. Chỉ có chiếc cuối cùng này là có thể được sửa chữa tại chỗ, tuy nhiên chiếc Houston vẫn cứ đuợc giữ lại vì sáu khẩu 203 ly còn bắn được.</p><p></p><p></p><p>Đấy không phải là tai biến độc nhất trong ngày, một thương thuyền chở súng phòng không của Mỹ trên đường đi đến Palembang bị đánh chìm ngoài khơi Sumatra và một tiểu đoàn chuyên viên tác xạ phòng không bị mất tích trong một tai nạn xe lửa kinh hồn gần Batavia.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124931, member: 17223"] Về phương diện tổng quát, hải lực Đồng minh như vậy có thể so sánh được với lực lượng hải quân Nhật có ý định mạo hiểm đi vào biển Java, nhưng có điểm khác nhau là chúng không được thuần nhất, chia rẽ vì ngôn ngữ khác nhau, không có chủ thuyết chiến thuật và không có phương tiện báo hiệu chung. Hơn nữa, ở cấp chỉ huy tối cao, còn lâu mới có đồng quan điểm. Đã chứng kiến các cuộc oanh tạc xuống căn cứ Cavite và Corregidor, Hart không còn có ảo tưởng gì về việc thắng trận. Ông chỉ có một ý tưởng là giữ cho các tuần dương hạm của ông hoạt động phía Đông Java để giúp chúng chạy trốn kịp thời về Úc châu. Collins, bị ám ảnh bởi sự phòng thủ Tân Gia Ba, chỉ quan tâm đến những gì xảy ra tại phía Tây. Riêng phần Phó Đô đốc Hà Lan Ian Helfrich, Tư lệnh Hải quân Hà Lan, rất bực bội phải nhận sự lệ thuộc của người ta áp đặt lên ông. Ông ước tính một cách hữu lý rằng tốt hơn hết là đặt tất cả hải lực Đồng minh dưới quyền ông và sử dụng Bộ tham mưu của ông hơn là đặt ra một Bộ tham mưu mới vào phút chót. Trong tình cảnh trái nghịch nhau đó, Hart chấp nhận giải pháp đơn giản nhất: để cho các Tư lệnh hạm đội quyền có sáng kiến rộng rãi và chỉ can thiệp vào bằng cách ra lệnh cho Hải quân Mỹ mà thôi. Chính ông là người được vinh dự nhờ một sứ mạng tấn công hữu hiệu đầu tiên đánh vào hạm đội tập trung của Nhật. Ngày 20 tháng giêng, được tin có một đoàn công voa lớn lao đang bỏ neo ngoài khơi Balikpapan, ông ra lệnh cho Đô đốc Glassford tiến đến tấn công. Chiếc Boise và chiếc Marblehead vừa đến Kupang, hải cảng chính của đảo Timor để được tiếp tế nhiên liệu sau kế hoạch hộ tống các đoàn công voa khởi hành từ Úc và trở về. Ngay khi được tiếp tế xong, Glassford nhổ neo cùng với hai tuần dương hạm và bốn khu trục hạm để đến trước mặt Balikpapan lúc 2 giờ sáng ngày hôm sau nữa. Ngay khi khởi hành, rủi ro đã xảy ra, chiếc Boise, mà Glassford dùng làm chiến hạm chỉ huy và dẫn đầu, đụng phải đá ngầm trong eo biển Sape. Một vết thủng quan trọng làm nước tuôn vào được phát giác, Đô đốc phải kéo cờ lệnh trên tuần dương hạm Marblehead và cho chiếc Boise trở lai Úc châu. Giây lát sau, chính chiếc Marblehead dừng lại vì hỏng máy. Sau khi sửa chữa tạm thời, chiếc tuần dương hạm lại tiếp tục chạy nhưng vì nó chỉ có thể chạy với tốc lực 15 gút, Glassford đành để cho các khu trục hạm vượt qua tiến về phía Balikpapan và cho chúng điểm hẹn để che chở chúng khi rút lui. Bốn chiến hạm nhỏ này, được đặt dưới quyền chỉ huy sáng chói của Đại tá Paul Talbot, đến Balikpapan lúc 3 giờ sáng và thấy một đám dương vận hạm tập trung lớn lao của Nhật in bóng đằng sau ánh lửa của các chiếc giếng dầu đang bốc cháy. Trong hơn một giờ, các khu trục hạm len lỏi vào giữa đoàn tàu vừa chạy vừa bắn và phóng tất cả các thuỷ lôi. Bị bất ngờ, vì cuộc tấn công đột ngột, quân Nhật phản ứng chậm chạp và khi các khu trục hạm tập họp để giải cứu, chúng không còn thể nào đuổi kịp kẻ tấn công. Tất cả chiến hạm Mỹ trở về Sourabaya mà không bị trở ngại gì. Đấy là chiến thắng đầu tiên của các chiến hạm Đồng minh kể từ khi khởi đầu chiến tranh và quân Mỹ hân hoan ca khúc khải hoàn, tuy nhiên những gì lẽ ra phải là một cuộc tàn sát, trong thực tế chỉ như một vết kim châm. Gần như tất cả các thủy lôi của Mỹ đều tác động tệ hại, chạy ngang qua bên dưới tàu địch rồi nổ thật chậm hoặc là tịt ngòi luôn. Tổn thất của Nhật giới hạn trong số bốn chiếc tàu chở hàng và một tàu hộ tống nhỏ. Các cuộc đổ bộ có chậm đi đôi chút, nhưng không gián đoạn. Tuy vậy cuộc tấn công tại Balikpapan đem lại một kết quả may mắn: nó làm cho mũi tiến quân của Nhật quyết định lấy một điểm tựa khác tại Bandermasin, phía bị trì hoãn lại ít lâu, thật vậy Bộ tư lệnh Nhật tây Bornéo, trước khi khởi cuộc tấn công. Tháng giêng yên tĩnh trôi qua không bị cuộc báo động mới mẻ nào và, ngày 2 tháng 2, Hart muốn tái diễn cuộc tấn công với sự hậu thuẫn của Hải quân Hà Lan, vào Balikpapan mà lần trước đã gần đạt được thành công hoàn toàn. Một lực lượng hải quân đột kích được thành lập đặt dưới quyền chỉ huy Phó Đô đốc Doorman với những chiếc De Ruyter, Tromp, Marblehead và Houston, ba khu trục hạm Hà Lan và bốn của Mỹ. Hải Lực nhổ neo tại Sourabaya trong đêm, nhưng đến sáng ngày 3 tháng 2, trong lúc lực lượng xung kích đang chạy theo hàng dọc cách phía bắc Bali 50 hải lý, thì một đoàn 80 oanh tạc cơ Nhật đột ngột hiện ra khỏi các đám mây và ném bom xuống đoàn chiến hạm Đồng minh. Ba tuần dương hạm bị trúng bom và Doorman phải cho lệnh quay lui để trở về Tjilatjap, trên bờ biển phía nam Java, hải cảng duy nhất nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật. Khi đến Tjilatjap, bảng kết toán những thiệt hại nặng nề: tuần dương hạm Marblehead bị hư nặng đến nỗi phải gửi về Mỹ, chiếc Houston bị sập tháp pháo phía sau và bộ phận điều khiển hướng bắn chống phi cơ bị hỏng. Chỉ có chiếc cuối cùng này là có thể được sửa chữa tại chỗ, tuy nhiên chiếc Houston vẫn cứ đuợc giữ lại vì sáu khẩu 203 ly còn bắn được. Đấy không phải là tai biến độc nhất trong ngày, một thương thuyền chở súng phòng không của Mỹ trên đường đi đến Palembang bị đánh chìm ngoài khơi Sumatra và một tiểu đoàn chuyên viên tác xạ phòng không bị mất tích trong một tai nạn xe lửa kinh hồn gần Batavia. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top