Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124930" data-attributes="member: 17223"><p>Trong tình cảnh mạnh ai nấy lo sau các cuộc bại trận liên tiếp cả ở Mã Lai lẫn ở Phi Luật Tân, các ban tham mưu cũng không được tha cho. Sir Brooke Popham bị thay thế bởi Trung tướng lục quân Percival vốn đã phải vất vả mới đến được nhiệm sở là đảo Tân Gia Ba bị bao vây. Đô đốc Hart của Mỹ, người chỉ huy hạm đội các tuần dương hạm (vẫn được gọi một cách kiêu kỳ là Hạm đội Á châu) được đưa đến biển Java từ tháng 11 năm 1941, đã rời Corregidor trên một tàu ngầm ngày 25 tháng 12 để đến Batavia. Khi đến nơi, ông ngạc nhiên được biết rằng người ta đã bơm ông lên chức Tổng Tư lệnh các lực lượng Hải quân Đồng minh tại biển Java. Ông lại trở thành phụ tá Hải quân cho tướng Wavell của Anh, Tư lệnh quân Anh tại Ấn, cho đến lúc đó, một quyết định tại toà Bạch Ốc giữa Churchill và Rosevelt đã nâng ông này lên chức vụ ít ai thèm muốn lo Tổng Tư lệnh ABDA-ký hiệu bí mật này vốn là chữ viết tắt chỉ định toàn diện các lực lượng Mỹ, Anh, Hà Lan và Úc rải rác trong các quần đảo tại Đông Nam Á.</p><p></p><p></p><p>Sự chỉ định Tư lệnh ABDA đã là đầu đề của các cuộc thảo luận gay go trong phạm vi Bộ tham mưu liên quân (Joint Chiefs Staff) bắt đầu được hoạt động tại Hoa Thịnh Đốn. Churchill, cố tranh đấu để cho tôt Mỹ lấy quyết định “Germany first”, đã không còn mấy hy vọng cưu vãn Tân Gia Ba t khi thiệt mất chiếc Prince of Wales và chiếc Rupeles. Số phận của các thuộc địa Hà Lan tại Ấn thì chỉ làm ông lưu tâm có một nửa, và ông không nghĩ bắt một trong các tướng lĩnh của ông gánh vác thêm trách nhiệm về một tai hoạ mới. Phần Roosevelt thì chẳng có sẵn ai dưới tay. Đã có lúc ông nghĩ đến Mac Arthur, nhưng ông này lại cương quyết không chịu rời Corregidor, nơi ông đang chỉ huy công cuộc chống cự của quân đội Phi Luật Tân đang bị bao vây trên bán đảo Bataan.</p><p></p><p></p><p>Thấy cuộc thảo luận sắp đi đến chỗ bế tắc, Tổng thống Mỹ liền đưa ra tên Wavell như là một nhà quân sự có thể đem lại sự đồng tý nhất trí. Được vuốt ve vì sự đề cao vị cứu tinh của Ai Cập, rốt cuộc Churchill đã bằng lòng.</p><p></p><p></p><p>Hoàn toàn biết rõ tình hình thực tế, Wavell thấy liều thuốc vừa được cấp cho thật là đắng. “Người ta đã trao vào tay tôi không phải là một đứa con hoang mà là những đứa con song sinh!” ông tâm sự với một trong những người thân tín. Trong tư cách là Tư lệnh quân lực tại Ấn, ông thường đến Tân Gia Ba và từ lâu đã biết rõ tính cách tuyệt vọng của các trận đánh trì hoãn của quân Anh trên bán đảo Mã Lai.</p><p></p><p></p><p>Ngày 9 tháng 1 năm 1942, khi ông đến Batavia nhậm chức, 85.000 người thoát vây tại Mã Lai, gần như đã rút hết về đảo Tân Gia Ba nhỏ bé, sẵn sàng chống lại quân địch trong một cuộc chống cự khốc liệt. Không thể nào còn có vấn đề bắt một đơn vị nào quay trở lại để phòng ngự hàng rào ngăn chặn Mã Lai nữa. Riêng phần các đơn vị mà Luân Đôn đã trích ra từ lực lượng đóng tại Ai Cập trong thời kỳ còn hy vọng cứu vãn bán đảo, thì cũng đã bị chặn lại tại Colombo vì mối đe doạ của Nhật tại Miến Điện. Do đó ông chỉ còn có các đạo quân trú phòng yếu ớt của Hà Lan trên đảo Sumatra và Java (chừng 25.000 người) và vài tiểu đoàn Anh hoặc Ấn đã thoát ra được khỏi Bornéo. Một nhúm quân nhân đó rõ rệt là không thể nào đẩy lui được một cuộc tấn công của Nhật Bản. Giải pháp duy nhất đối với ông là trì hoãn cuộc tấn công này lâu chừng nào hay chừng đó để cho quân Mỹ từ Úc có thể đến tăng viện được. Để đạt được mục tiêu trì hoãn này, ông có trong tay các lực lượng hải quân và không quân, mặc dầu ít hơn và phân tán hơn, nhưng cũng rất đáng kể.</p><p></p><p></p><p>Tại Batavia, ông thấy một quang cảnh rối loạn không thể tưởng tượng. Cuộc tản cư của thường dân và lính đào ngũ từ Mã Lai, Tân Gia Ba, Bornéo và Célèbes đã bắt đầu. Hải cảng chật ních tàu bè mà nơi đến thì lại ở trong tay địch. Nhà chức trách Hà Lan làm việc không xuể. Mỗi người đều lo thủ thân và từ chối tuân lệnh với lý do “chờ chỉ thị của chính phủ mình”. Do vậy, công việc đầu tiên của ông là tái lập trật tự và tổ chức một Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh.</p><p></p><p></p><p>Giao quyền chỉ huy các lực lượng bộ chiến cho tướng Hà Lan Ian Der Poorten, ông đặt không lực dưới quyền chỉ huy của tướng Mỹ Brereton. Sự chọn lựa này cũng chẳng thích hợp gì. Brereton là một chuyên viên ngành oanh tạc chiến lược chưa bao giờ chỉ huy-ở nơi nào khác ngoai trừ Manille-các đại đơn vị không quân. Hơn nữa, các pháo đài bay của ông đến Java mà không có nhân viên dưới đất, không có phụ tùng thay thế gần như hoàn toàn vô dụng. Mối ưu tư lớn lao nhất của ông là đưa chúng ra khỏi tình trạng tệ hại này càng sớm càng hay. Wavell mau lẹ ý thức được rằng Brereton chẳng có ích lợi gì cho ông cả. Ông liền quyết định cho rút về các phi trường tại Palem-bang phía nam Sumatra, các phi đoàn săn giặc và oanh tạc tại Tân Gia Ba vì bị phô bày quá lộ liễu ở đấy, và giao cho một Phó Thống chế không quân Hoàng gia RFA. Sau đó ông nới rộng quyền chỉ huy này đến các không lực Hà Lan và các phi đoàn săn giặc Mỹ bắt đầu được phái từ Úc đến.</p><p></p><p></p><p>Riêng phần hải lực Đồng minh thì một mệnh lệnh của Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh đã giao cho Đô đốc Hart, lực lượng này đủ mạnh để ngăn chặn quân Nhật mở cuộc tấn công cấp thời. Hạm đội của Đô đốc Hà Lan Ian Doorman gồm có ba tuần dương hạm hạng nhẹ, chiếc De Ruyter, chiếc Java và chiếc Tromp, hạm đội của Đô đốc Mỹ Glassford có một tuần dương hạm nặng, chiếc Houston, hai tuần dương hạm nhẹ Boise và Marblehead, và hạm đội của Phó Đô đốc Anh Collins (cựu Hạm đội China fleet) còn gồm tuần dương hạm nặng Exeter, tuần dương hạm nhẹ Perth và một đám các chiến hạm nhỏ già nua của Anh hay của Úc. Cùng với bảy chiến hạm chính yếu ấy còn có thêm bảy khu trục hạm Hà Lan, chín Mỹ, bốn Anh, cũng như một hạm đội tàu ngầm 38 đơn vị (13 Hà Lan, 25 Mỹ).</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124930, member: 17223"] Trong tình cảnh mạnh ai nấy lo sau các cuộc bại trận liên tiếp cả ở Mã Lai lẫn ở Phi Luật Tân, các ban tham mưu cũng không được tha cho. Sir Brooke Popham bị thay thế bởi Trung tướng lục quân Percival vốn đã phải vất vả mới đến được nhiệm sở là đảo Tân Gia Ba bị bao vây. Đô đốc Hart của Mỹ, người chỉ huy hạm đội các tuần dương hạm (vẫn được gọi một cách kiêu kỳ là Hạm đội Á châu) được đưa đến biển Java từ tháng 11 năm 1941, đã rời Corregidor trên một tàu ngầm ngày 25 tháng 12 để đến Batavia. Khi đến nơi, ông ngạc nhiên được biết rằng người ta đã bơm ông lên chức Tổng Tư lệnh các lực lượng Hải quân Đồng minh tại biển Java. Ông lại trở thành phụ tá Hải quân cho tướng Wavell của Anh, Tư lệnh quân Anh tại Ấn, cho đến lúc đó, một quyết định tại toà Bạch Ốc giữa Churchill và Rosevelt đã nâng ông này lên chức vụ ít ai thèm muốn lo Tổng Tư lệnh ABDA-ký hiệu bí mật này vốn là chữ viết tắt chỉ định toàn diện các lực lượng Mỹ, Anh, Hà Lan và Úc rải rác trong các quần đảo tại Đông Nam Á. Sự chỉ định Tư lệnh ABDA đã là đầu đề của các cuộc thảo luận gay go trong phạm vi Bộ tham mưu liên quân (Joint Chiefs Staff) bắt đầu được hoạt động tại Hoa Thịnh Đốn. Churchill, cố tranh đấu để cho tôt Mỹ lấy quyết định “Germany first”, đã không còn mấy hy vọng cưu vãn Tân Gia Ba t khi thiệt mất chiếc Prince of Wales và chiếc Rupeles. Số phận của các thuộc địa Hà Lan tại Ấn thì chỉ làm ông lưu tâm có một nửa, và ông không nghĩ bắt một trong các tướng lĩnh của ông gánh vác thêm trách nhiệm về một tai hoạ mới. Phần Roosevelt thì chẳng có sẵn ai dưới tay. Đã có lúc ông nghĩ đến Mac Arthur, nhưng ông này lại cương quyết không chịu rời Corregidor, nơi ông đang chỉ huy công cuộc chống cự của quân đội Phi Luật Tân đang bị bao vây trên bán đảo Bataan. Thấy cuộc thảo luận sắp đi đến chỗ bế tắc, Tổng thống Mỹ liền đưa ra tên Wavell như là một nhà quân sự có thể đem lại sự đồng tý nhất trí. Được vuốt ve vì sự đề cao vị cứu tinh của Ai Cập, rốt cuộc Churchill đã bằng lòng. Hoàn toàn biết rõ tình hình thực tế, Wavell thấy liều thuốc vừa được cấp cho thật là đắng. “Người ta đã trao vào tay tôi không phải là một đứa con hoang mà là những đứa con song sinh!” ông tâm sự với một trong những người thân tín. Trong tư cách là Tư lệnh quân lực tại Ấn, ông thường đến Tân Gia Ba và từ lâu đã biết rõ tính cách tuyệt vọng của các trận đánh trì hoãn của quân Anh trên bán đảo Mã Lai. Ngày 9 tháng 1 năm 1942, khi ông đến Batavia nhậm chức, 85.000 người thoát vây tại Mã Lai, gần như đã rút hết về đảo Tân Gia Ba nhỏ bé, sẵn sàng chống lại quân địch trong một cuộc chống cự khốc liệt. Không thể nào còn có vấn đề bắt một đơn vị nào quay trở lại để phòng ngự hàng rào ngăn chặn Mã Lai nữa. Riêng phần các đơn vị mà Luân Đôn đã trích ra từ lực lượng đóng tại Ai Cập trong thời kỳ còn hy vọng cứu vãn bán đảo, thì cũng đã bị chặn lại tại Colombo vì mối đe doạ của Nhật tại Miến Điện. Do đó ông chỉ còn có các đạo quân trú phòng yếu ớt của Hà Lan trên đảo Sumatra và Java (chừng 25.000 người) và vài tiểu đoàn Anh hoặc Ấn đã thoát ra được khỏi Bornéo. Một nhúm quân nhân đó rõ rệt là không thể nào đẩy lui được một cuộc tấn công của Nhật Bản. Giải pháp duy nhất đối với ông là trì hoãn cuộc tấn công này lâu chừng nào hay chừng đó để cho quân Mỹ từ Úc có thể đến tăng viện được. Để đạt được mục tiêu trì hoãn này, ông có trong tay các lực lượng hải quân và không quân, mặc dầu ít hơn và phân tán hơn, nhưng cũng rất đáng kể. Tại Batavia, ông thấy một quang cảnh rối loạn không thể tưởng tượng. Cuộc tản cư của thường dân và lính đào ngũ từ Mã Lai, Tân Gia Ba, Bornéo và Célèbes đã bắt đầu. Hải cảng chật ních tàu bè mà nơi đến thì lại ở trong tay địch. Nhà chức trách Hà Lan làm việc không xuể. Mỗi người đều lo thủ thân và từ chối tuân lệnh với lý do “chờ chỉ thị của chính phủ mình”. Do vậy, công việc đầu tiên của ông là tái lập trật tự và tổ chức một Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh. Giao quyền chỉ huy các lực lượng bộ chiến cho tướng Hà Lan Ian Der Poorten, ông đặt không lực dưới quyền chỉ huy của tướng Mỹ Brereton. Sự chọn lựa này cũng chẳng thích hợp gì. Brereton là một chuyên viên ngành oanh tạc chiến lược chưa bao giờ chỉ huy-ở nơi nào khác ngoai trừ Manille-các đại đơn vị không quân. Hơn nữa, các pháo đài bay của ông đến Java mà không có nhân viên dưới đất, không có phụ tùng thay thế gần như hoàn toàn vô dụng. Mối ưu tư lớn lao nhất của ông là đưa chúng ra khỏi tình trạng tệ hại này càng sớm càng hay. Wavell mau lẹ ý thức được rằng Brereton chẳng có ích lợi gì cho ông cả. Ông liền quyết định cho rút về các phi trường tại Palem-bang phía nam Sumatra, các phi đoàn săn giặc và oanh tạc tại Tân Gia Ba vì bị phô bày quá lộ liễu ở đấy, và giao cho một Phó Thống chế không quân Hoàng gia RFA. Sau đó ông nới rộng quyền chỉ huy này đến các không lực Hà Lan và các phi đoàn săn giặc Mỹ bắt đầu được phái từ Úc đến. Riêng phần hải lực Đồng minh thì một mệnh lệnh của Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh đã giao cho Đô đốc Hart, lực lượng này đủ mạnh để ngăn chặn quân Nhật mở cuộc tấn công cấp thời. Hạm đội của Đô đốc Hà Lan Ian Doorman gồm có ba tuần dương hạm hạng nhẹ, chiếc De Ruyter, chiếc Java và chiếc Tromp, hạm đội của Đô đốc Mỹ Glassford có một tuần dương hạm nặng, chiếc Houston, hai tuần dương hạm nhẹ Boise và Marblehead, và hạm đội của Phó Đô đốc Anh Collins (cựu Hạm đội China fleet) còn gồm tuần dương hạm nặng Exeter, tuần dương hạm nhẹ Perth và một đám các chiến hạm nhỏ già nua của Anh hay của Úc. Cùng với bảy chiến hạm chính yếu ấy còn có thêm bảy khu trục hạm Hà Lan, chín Mỹ, bốn Anh, cũng như một hạm đội tàu ngầm 38 đơn vị (13 Hà Lan, 25 Mỹ). [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top