Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124928" data-attributes="member: 17223"><p>Tại Lujon, những giờ đầu tiên của buổi sáng trôi qua trong không khí hoàn toàn bình thản. Tuy nhiên, đến 9 giờ, căn cứ thủy phi cơ trong vịnh Davao báo hiệu bị một thuỷ phi cơ thám sát của Nhật ném một quả bom. Tướng Brereton liền cho một không đoàn khu trục cất cánh. Một lát sau, mười bảy chiếc pháo đài bay B-17 cất cánh trong một phi vụ thường lệ. Chúng phải hạ cánh sau đó một giờ, rồi đổ đầy xăng chờ bay đi tấn công Đài Loan vào quá trưa, nếu cuộc xâm lăng Davao được xác định. Đến 10 giờ, các khu trục cơ bay về mà chẳng trông thấy gì và đáp xuống phi trường sau khi che chở cho mười bảy pháo đài bay hạ cánh. Trong thời gian đó, các phi cơ P-40 mới đến đang lấy xăng trước các hăng-ga phi trường Clark và các phi công đang than phiền điều kiện cư trú tệ hại. Họ bỏ đi ăn sáng trong khi chờ đợi cuộc tạp dịch bất tận này chấm dứt.</p><p></p><p></p><p>Đúng lúc đó, sương mù trên đảo Đài Loan tan dần và hai không đoàn phi cơ thuộc Hải quân Nhật được năm mươi bốn khu trục cơ Zéro hộ tống phóng lên bầu trời sáng sủa. Chúng chờ đợi chịu đựng các cuộc tấn công dữ dội ngay cả trước khi đến mục tiêu. Tuy vậy phi vụ của họ chẳng xảy ra chuyện gì. Các phi cơ thám thính Mỹ cất cánh từ sáng sớm quả thật đã trở về căn cứ từ lâu vì sương mù mà họ đã gặp ngoài khơi.</p><p></p><p></p><p>Vào lúc 11 giờ 30, đài rada phía bắc Lujon báo hiệu có một đoàn phi cơ quan trọng bay đến theo hướng Nam cách bờ biển năm mươi hải lý. Lệnh báo động được chuyển đến tất cả các phi trường. Nó chỉ đến phi trường Clark đúng giữa trưa, lúc các phi cơ P-40 vừa đổ đầy xăng lần lượt cất cánh từng chiếc một.</p><p></p><p></p><p>Đến 12 giờ, một đợt 27 oanh tạc cơ Nhật bay đến bên trên phi trường, trút hết bom và quay về mà chẳng phải lo ngại gì. Mục tiêu lớn lao quá: 17 pháo đài bay sắp hàng như vậy vịt, những chiếc cánh vĩ đại xếp chồng lên nhau từng cặp, phản chiếu ánh mặt trời chói lọi.</p><p></p><p></p><p>Những toán người dưới đất, kinh hoàng, trông thấy cả một tấm màn gần như liên tục gồm những điểm ság trút xuống, lớn dần như giọt lệ. Mọi người chạy tứ tán trong khi tiếng còi báo động sầu thảm cất lên. Rồi thì là tiếng bom nổ như sấm động, và vô số cột khói thoạt tiên đột ngột, rồi đường bệ bốc lên bao phủ cả bầu trời đầy mây trắng như sữa.</p><p></p><p></p><p>Đợt thứ nhất vừa biến đi, một trung chuyển khác, còn ghê rợn hơn vì không khí mờ mịt khói lửa, đã bắt các kẻ chạy trốn chậm chân dán người xuống mặt đất. Một đợt thứ hai tương tự đợt đầu tiên đến phiên trút bom xuống phi trường.</p><p></p><p>Sau một thời gian nghỉ ngơi 15 phút, quang cảnh lại tái diễn một lần thứ ba…</p><p></p><p>Khi sự hỗn loạn dịu dần, hàng khói đen cuồn cuộn bốc lên trên phi trường với những ánh lửa đỏ hồng loé lên ngang dọc: mười bảy pháo đài bay, hơn năm mươi sáu khu trục cơ và hai mươi phi cơ đủ các loại mà các bình chứa xăng tuôn ra hàng suối xăng biến phi trường thành một biển lửa mênh mông.</p><p></p><p>Lực lượng xung kích của Mac Arthur chỉ còn lại một đống sườn sắt bốc khói.</p><p></p><p>Vài giờ sau, một phi đoàn nhỏ oanh tạc cơ Nhật lại tiêu diệt vài chiếc P-35 trên phi trường tiếp cứu Aparri, phía bắc Lujon, và các tàu vận tải đầu tiên đổ bộ binh sĩ lên các bãi biển kế cận mà không bị một chống đối nào. Cuộc chinh phục Phi Luật Tân bắt đầu.</p><p></p><p></p><p>Tại làm sao mà không ai có ý tưởng tổ chức các cuộc tuần tiễu liên tục và nhất là các pháo đài bay cất cánh ngay để oanh tạc các phi trường ở Đài Loan? Tại làm sao mà tướng Brereton lại có thể phạm vào điều bất cẩn là đem trở về phi trường Clark, vốn nằm trong tầm hoạt động của oanh tạc cơ Nhật, 17 pháo đài bay đã cất cánh trong một phi vụ bay điều chỉnh? Tại sao ông không cho áp dụng trước vài giờ kế hoạch oanh tạc Đài Loan dự định sẽ thực hiện vào buổi chiều? Biết bao nhiêu câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời.</p><p></p><p></p><p>Hai tướng Sutherland và Brereton đổ lỗi cho nhau về sự thiếu sót này. Dường như hai ông đã xung đột dữ dội, nhưng tướng Mac Arthur vốn không thể không biết tình trạng ấy, đã phải chấm dứt tàn nhẫn sự xung đột giữa hai người. Kết quả rất đáng công.</p><p></p><p></p><p>Mac Arthur vẫn luôn từ chối không soi sáng các bí mật ấy. Ông đã làm câm họng các tin đồn đại về vấn đề này bằng cách cho công bố vài tháng sau một thông cáo trong đó ông hoàn toàn che chở vị tư lệnh không quân của ông. Lúc ấy, gương chiến đấu chói sáng của các đơn vị quân đội Phi Luật Tân và nhiệt tâm khiến ông vẫn ở lại tại bộ chỉ huy của pháo đài Corregidor dưới các cuộc oanh tạc tàn khố của Nhật đã biến ông thành anh hùng dân tộc, mà dưới mắt công chúng Hoa Kỳ, biểu tượng cho sức đề kháng của dân tộc Mỹ; do đó không còn vấn đề trách cứ ông về những sai lầm đã qua lẫn vấn đề hạ bệ ông nữa.</p><p></p><p></p><p>Mac Arthur lại còn là người duy nhất trong tất cả các tướng lĩnh Đồng minh phải chịu đựng vố tấn công bất thần đầu tiên ngày 7 tháng 12, được hưởng một thời hạn đủ để phản ứng chống trả. Thế mà, mặc dầu ông đã chứng tỏ hoàn toàn thụ động, ông là người duy nhất không bị cách chứ tư lệnh. Sau này ta sẽ thấy chẳng những ông không bị khiển trách gì, mà các biến cố bi thảm đầu năm 1942 lại khiến ông được bơm lên chức vụ Tư lệnh đạo quân quan trọng nhất của Mỹ tại Thái Bình Dương.</p><p></p><p></p><p>Sau khi làm chủ được bầu trời và mặt biển tại Phi Luật Tân một cách dễ dàng giống như tại Mã Lai, quân Nhật có thể yên chí hoàn tất nhiệm vụ của mình. Ngày 10 tháng 12, trong lúc các dương vận hạm chở quân đổ bộ vốn phải rút lui vì sương mù hôm trước, tiếp tục con đường tiến về vinh Lingayen-trên bờ biển tây bắc Lujon-chính các phi cơ đã từng oanh tạc các phi trường lại nhào đến căn cứ hải quân và thành phố Cavite nằm trong vùng vịnh Manille. May thay, hải cảng trống trơn, vì hạm đội nhỏ bé của Đô đốc Hart đã đến tiếp hợp với các hạm đội của Hà Lan và của Úc trong vùng biển Java. Tại Phi Luật Tân chỉ còn lại chừng mười tàu ngầm đang rình các tàu đổ bộ tận ngoài khơi và một vài khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.</p><p></p><p></p><p>Trong khi các biến cố trên đang diễn ra, quân đôi xâm lăng của Nhật ở Hoa Nam tràn vào thuộc địa nhỏ hẹp của Anh tại Cửu Long đối diện đảo Hồng Kông, và vô hiệu hoá mau lẹ hải cảng và căn cứ hải quân. Các đoàn quân Anh bị số đông địch tràn ngập, vội rút lên các đỉnh núi cao trên đảo để đánh trì hoãn như ở Mã Lai. Nhưng cuộc chiến đấu anh dũng của họ cũng không trì hoãn được một ngày nào sức tiến quân vũ bão của Nhật. Kể từ 20 tháng 12 năm 1941, không còn gì có thể ngăn Hạm đội liên hợp tiếp tục các cuộc chinh phục về phía nam. Sáu mẫu hạm của Đô đốc Nagumo đã trở về Kuré, nơi đây sau khi ăn mừng vì xứng đáng với chiến thắng tại Trân Châu Cảng, chúng lại điền khuyết phi công và phi cơ. Yamamoto phái chúng đến đảo Palau (quần đảo Carolines), nơi có một căn cứ hải quân quan trọng. Sự bố trí ban đầu của hạm đội được sửa đổi lại nhằm mục đích tấn công dứt điểm, lần này nhắm vào hàng rào ngăn chặn Mã Lai, nghĩa là dãy đảo (Sumatra, Yaya, Bali, Soembava, Florès và Timor-là những đảo quan trọng nhất) trải dài theo chiều ngang dọc theo kinh độ 10 nam giữa bán đảo Mã Lai và tân Guinée. Ngoài tính cách là thành lũi cuối cùng trước Úc châu, các đảo này, vốn được người Hà Lan khai khẩn tốt đẹp, tạo thành một trong các thuộc địa giàu có nhất thế giới. Cũng chính vì để chiếm hữu các mỏ dầu, các đồn điền cao su, và các mỏ đồng và vì, bị thúc đẩy bởi lệnh phong toả sự cung cấp nguyên liệu do Tổng thống Roosevelt ban hành, mà Nhật Bản khai mào chiến tranh. Do đó cuộc chiếm đóng thật mau các đảo ấy là mục tiêu số một của kế hoạch phía Nam.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124928, member: 17223"] Tại Lujon, những giờ đầu tiên của buổi sáng trôi qua trong không khí hoàn toàn bình thản. Tuy nhiên, đến 9 giờ, căn cứ thủy phi cơ trong vịnh Davao báo hiệu bị một thuỷ phi cơ thám sát của Nhật ném một quả bom. Tướng Brereton liền cho một không đoàn khu trục cất cánh. Một lát sau, mười bảy chiếc pháo đài bay B-17 cất cánh trong một phi vụ thường lệ. Chúng phải hạ cánh sau đó một giờ, rồi đổ đầy xăng chờ bay đi tấn công Đài Loan vào quá trưa, nếu cuộc xâm lăng Davao được xác định. Đến 10 giờ, các khu trục cơ bay về mà chẳng trông thấy gì và đáp xuống phi trường sau khi che chở cho mười bảy pháo đài bay hạ cánh. Trong thời gian đó, các phi cơ P-40 mới đến đang lấy xăng trước các hăng-ga phi trường Clark và các phi công đang than phiền điều kiện cư trú tệ hại. Họ bỏ đi ăn sáng trong khi chờ đợi cuộc tạp dịch bất tận này chấm dứt. Đúng lúc đó, sương mù trên đảo Đài Loan tan dần và hai không đoàn phi cơ thuộc Hải quân Nhật được năm mươi bốn khu trục cơ Zéro hộ tống phóng lên bầu trời sáng sủa. Chúng chờ đợi chịu đựng các cuộc tấn công dữ dội ngay cả trước khi đến mục tiêu. Tuy vậy phi vụ của họ chẳng xảy ra chuyện gì. Các phi cơ thám thính Mỹ cất cánh từ sáng sớm quả thật đã trở về căn cứ từ lâu vì sương mù mà họ đã gặp ngoài khơi. Vào lúc 11 giờ 30, đài rada phía bắc Lujon báo hiệu có một đoàn phi cơ quan trọng bay đến theo hướng Nam cách bờ biển năm mươi hải lý. Lệnh báo động được chuyển đến tất cả các phi trường. Nó chỉ đến phi trường Clark đúng giữa trưa, lúc các phi cơ P-40 vừa đổ đầy xăng lần lượt cất cánh từng chiếc một. Đến 12 giờ, một đợt 27 oanh tạc cơ Nhật bay đến bên trên phi trường, trút hết bom và quay về mà chẳng phải lo ngại gì. Mục tiêu lớn lao quá: 17 pháo đài bay sắp hàng như vậy vịt, những chiếc cánh vĩ đại xếp chồng lên nhau từng cặp, phản chiếu ánh mặt trời chói lọi. Những toán người dưới đất, kinh hoàng, trông thấy cả một tấm màn gần như liên tục gồm những điểm ság trút xuống, lớn dần như giọt lệ. Mọi người chạy tứ tán trong khi tiếng còi báo động sầu thảm cất lên. Rồi thì là tiếng bom nổ như sấm động, và vô số cột khói thoạt tiên đột ngột, rồi đường bệ bốc lên bao phủ cả bầu trời đầy mây trắng như sữa. Đợt thứ nhất vừa biến đi, một trung chuyển khác, còn ghê rợn hơn vì không khí mờ mịt khói lửa, đã bắt các kẻ chạy trốn chậm chân dán người xuống mặt đất. Một đợt thứ hai tương tự đợt đầu tiên đến phiên trút bom xuống phi trường. Sau một thời gian nghỉ ngơi 15 phút, quang cảnh lại tái diễn một lần thứ ba… Khi sự hỗn loạn dịu dần, hàng khói đen cuồn cuộn bốc lên trên phi trường với những ánh lửa đỏ hồng loé lên ngang dọc: mười bảy pháo đài bay, hơn năm mươi sáu khu trục cơ và hai mươi phi cơ đủ các loại mà các bình chứa xăng tuôn ra hàng suối xăng biến phi trường thành một biển lửa mênh mông. Lực lượng xung kích của Mac Arthur chỉ còn lại một đống sườn sắt bốc khói. Vài giờ sau, một phi đoàn nhỏ oanh tạc cơ Nhật lại tiêu diệt vài chiếc P-35 trên phi trường tiếp cứu Aparri, phía bắc Lujon, và các tàu vận tải đầu tiên đổ bộ binh sĩ lên các bãi biển kế cận mà không bị một chống đối nào. Cuộc chinh phục Phi Luật Tân bắt đầu. Tại làm sao mà không ai có ý tưởng tổ chức các cuộc tuần tiễu liên tục và nhất là các pháo đài bay cất cánh ngay để oanh tạc các phi trường ở Đài Loan? Tại làm sao mà tướng Brereton lại có thể phạm vào điều bất cẩn là đem trở về phi trường Clark, vốn nằm trong tầm hoạt động của oanh tạc cơ Nhật, 17 pháo đài bay đã cất cánh trong một phi vụ bay điều chỉnh? Tại sao ông không cho áp dụng trước vài giờ kế hoạch oanh tạc Đài Loan dự định sẽ thực hiện vào buổi chiều? Biết bao nhiêu câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời. Hai tướng Sutherland và Brereton đổ lỗi cho nhau về sự thiếu sót này. Dường như hai ông đã xung đột dữ dội, nhưng tướng Mac Arthur vốn không thể không biết tình trạng ấy, đã phải chấm dứt tàn nhẫn sự xung đột giữa hai người. Kết quả rất đáng công. Mac Arthur vẫn luôn từ chối không soi sáng các bí mật ấy. Ông đã làm câm họng các tin đồn đại về vấn đề này bằng cách cho công bố vài tháng sau một thông cáo trong đó ông hoàn toàn che chở vị tư lệnh không quân của ông. Lúc ấy, gương chiến đấu chói sáng của các đơn vị quân đội Phi Luật Tân và nhiệt tâm khiến ông vẫn ở lại tại bộ chỉ huy của pháo đài Corregidor dưới các cuộc oanh tạc tàn khố của Nhật đã biến ông thành anh hùng dân tộc, mà dưới mắt công chúng Hoa Kỳ, biểu tượng cho sức đề kháng của dân tộc Mỹ; do đó không còn vấn đề trách cứ ông về những sai lầm đã qua lẫn vấn đề hạ bệ ông nữa. Mac Arthur lại còn là người duy nhất trong tất cả các tướng lĩnh Đồng minh phải chịu đựng vố tấn công bất thần đầu tiên ngày 7 tháng 12, được hưởng một thời hạn đủ để phản ứng chống trả. Thế mà, mặc dầu ông đã chứng tỏ hoàn toàn thụ động, ông là người duy nhất không bị cách chứ tư lệnh. Sau này ta sẽ thấy chẳng những ông không bị khiển trách gì, mà các biến cố bi thảm đầu năm 1942 lại khiến ông được bơm lên chức vụ Tư lệnh đạo quân quan trọng nhất của Mỹ tại Thái Bình Dương. Sau khi làm chủ được bầu trời và mặt biển tại Phi Luật Tân một cách dễ dàng giống như tại Mã Lai, quân Nhật có thể yên chí hoàn tất nhiệm vụ của mình. Ngày 10 tháng 12, trong lúc các dương vận hạm chở quân đổ bộ vốn phải rút lui vì sương mù hôm trước, tiếp tục con đường tiến về vinh Lingayen-trên bờ biển tây bắc Lujon-chính các phi cơ đã từng oanh tạc các phi trường lại nhào đến căn cứ hải quân và thành phố Cavite nằm trong vùng vịnh Manille. May thay, hải cảng trống trơn, vì hạm đội nhỏ bé của Đô đốc Hart đã đến tiếp hợp với các hạm đội của Hà Lan và của Úc trong vùng biển Java. Tại Phi Luật Tân chỉ còn lại chừng mười tàu ngầm đang rình các tàu đổ bộ tận ngoài khơi và một vài khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi. Trong khi các biến cố trên đang diễn ra, quân đôi xâm lăng của Nhật ở Hoa Nam tràn vào thuộc địa nhỏ hẹp của Anh tại Cửu Long đối diện đảo Hồng Kông, và vô hiệu hoá mau lẹ hải cảng và căn cứ hải quân. Các đoàn quân Anh bị số đông địch tràn ngập, vội rút lên các đỉnh núi cao trên đảo để đánh trì hoãn như ở Mã Lai. Nhưng cuộc chiến đấu anh dũng của họ cũng không trì hoãn được một ngày nào sức tiến quân vũ bão của Nhật. Kể từ 20 tháng 12 năm 1941, không còn gì có thể ngăn Hạm đội liên hợp tiếp tục các cuộc chinh phục về phía nam. Sáu mẫu hạm của Đô đốc Nagumo đã trở về Kuré, nơi đây sau khi ăn mừng vì xứng đáng với chiến thắng tại Trân Châu Cảng, chúng lại điền khuyết phi công và phi cơ. Yamamoto phái chúng đến đảo Palau (quần đảo Carolines), nơi có một căn cứ hải quân quan trọng. Sự bố trí ban đầu của hạm đội được sửa đổi lại nhằm mục đích tấn công dứt điểm, lần này nhắm vào hàng rào ngăn chặn Mã Lai, nghĩa là dãy đảo (Sumatra, Yaya, Bali, Soembava, Florès và Timor-là những đảo quan trọng nhất) trải dài theo chiều ngang dọc theo kinh độ 10 nam giữa bán đảo Mã Lai và tân Guinée. Ngoài tính cách là thành lũi cuối cùng trước Úc châu, các đảo này, vốn được người Hà Lan khai khẩn tốt đẹp, tạo thành một trong các thuộc địa giàu có nhất thế giới. Cũng chính vì để chiếm hữu các mỏ dầu, các đồn điền cao su, và các mỏ đồng và vì, bị thúc đẩy bởi lệnh phong toả sự cung cấp nguyên liệu do Tổng thống Roosevelt ban hành, mà Nhật Bản khai mào chiến tranh. Do đó cuộc chiếm đóng thật mau các đảo ấy là mục tiêu số một của kế hoạch phía Nam. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top