Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124926" data-attributes="member: 17223"><p>Do đó, ông tướng có vóc dáng cao lớn, vẫn còn giữ vẻ trẻ trung lạ lùng, đã trải qua những năm trước chiến tranh trong một chức vụ, ngồi không ăn lương, vàng son như thế. Ông sống với bà vợ trẻ (Đó là cuộc hôn nhân thứ hai của ông-cuộc ly dị của ông đã gây tai tiếng rất nhiều tại Hoa Thịnh Đốn và tạo thêm động lực để đẩy ông đi Phi Luật Tân) và người con nhỏ trong một căn nhà sang trọng nằm trên tầng chót của khách sạn lớn nhất Maniille. Mọi sự chuyển dịch của ông là cả một sự phô trương kiểu Á Đông. Ông chỉ huy theo cách của Lyautey, với một quyền uy thay đổi, ôn hoà khi phải làm như thế vì một thứ lòng tốt rất quý phái vốn biết làm rung động và lôi cuốn những quả tim. Nhưng ông chỉ điều khiển độc có quân đội Phi Luật Tân.</p><p></p><p></p><p>Tháng 7 năm 1941, khi cuộc tấn công của Nhật vào Đông Dương rốt cuộc đã mở mắt người Mỹ, vấn đề tăng viện cho Phi Luật Tân được đặt ra với tất cả nhạy bén. Tướng Marshall đề nghị gửi cho Tướng Sutherland tăng viện về người và chiến cụ cũng như sự thiết lập một căn cứ không quân cho các pháo đài bay. Nhưng một không đoàn chiến đấu có tầm mức quan trọng đó phải được một tướng lĩnh không quân chỉ huy. Thật khó mà đặt ông ta dưới quyền một tướng lĩnh khác cùng cấp bậc, đó là trường hợp ông tướng trưởng phái bộ quân sự Mỹ. Cần phải tìm một tướng lĩnh khác có hơn một sao…</p><p></p><p>Một người gợi ý: “Tại sao không phải là Mac Arthur?”</p><p></p><p>Marshall không ưa ông quan chuyên chế địa phương có dáng điệu như một đại minh tinh màn bạc ấy, do đó đã nhăn mày. Trái lại, Roosevelt thì lại thấy ý kiến ấy là tuyệt diệu. Gia đình Mac Arthur luôn luôn theo đảng Cộng hoà. Chính Douglas cũng có ảnh hưởng không chối cãi được trong đảng. Nếu không làm cho con người quái quỉ ấy bận rộn việc gì, ông ta có thể trở thành một ứng cử viên gây khó chịu trong các cuộc bầu cử Tổng thống. Gọi ông trở lại quân đội là sắp xếp được hết mọi chuyện…</p><p></p><p></p><p>Chính vì vậy mà ngày 27 tháng 7 năm 1941, trong khi đang ăn trưa trên chiếc sân thượng tràn ngập hương hoa ngoại quốc của đại khách sạn Palace tại Manille, Douglas Mac Arthur được biết rằng ông bị mất tước vị “Field Marshall của quân đội Phi Luật Tân” để được gắn lon Trung tướng khiêm nhường hơn nhiều-cùng cấp bậc mà ông đã lên lên đến nơi, cũng tại nơi này hai mươi lăm năm trước (Qui tắc xưa cũ của quân đội Mỹ bó buộc việc phục hồi cấp bậc này chỉ có tính chất tạm thời). Quả thật là người ta đã ban thưởng cho ông một trong những chức vụ chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Hoa Kỳ: đó là chức vụ chỉ huy chiến trường Thái Bình Dương mới vừa được sáng lập.</p><p></p><p></p><p>Nhà quân sự lão thành đã nhận sự đãi ngộ ve vuốt này sau khi hạ bệ mà không chau mày. Thái độ đầu tiên của ông là từ chối. Nhưng, trong lúc ấy, nhờ một thông tin viên bí mật báo cho biết nội vụ, Tổng thống Quezon hấp tấp chạy đến. Ông ta nhón gót ôm hôn ông tướng và đeo vào vai ông, tìm cách xoay chuyển cái nhìn lạnh lùng của ông bằng cặp mắt van lơn.</p><p></p><p>”Tất cả những gì chúng tôi có là của ông. Tất cả những gì mà chúng tôi được như bây giờ là nhờ ông!” Tổng thống Phi Luật Tân thì thầm.</p><p></p><p>Niềm hăng say cao cả, giọng nói chân thành, Mac Arthur đành nhượng bộ. Ông chấp nhận nhiệm vụ bạc bẽo là phòng thủ với gần như bàn tay trắng, xứ sở này, một xứ sở có một dân tộc được ông yêu thương và nơi đó ông được yêu thương.</p><p></p><p></p><p>Ngọn lao đã phóng đi. Ông bắt đầu làm việc với nhiệt tâm mãnh liệt vẫn luôn luôn thúc đẩy ông trong hành động. Trong vài tháng trời ông đã sẵn sàng đưa ra chiến trường một đạo quân thuần nhất, đã cho xây doanh trại đồn trú dành cho đoàn quân mà rốt cuộc người ta đã chấp thuận gửi cho ông, ông phái các xe ủi đất nới rộng phi đạo các phi trường Clark Field và Nichols Field tại Lujon, và phi trường Del Monte tại Mindanao. Ông cho thiết trí đại bác phòng không chung quanh các cứ điểm quan trọng và thiết trí hai đài rada vừa được ban cấp trên núi cao phía bắc và phía nam Lujon.</p><p></p><p></p><p>Ba tháng sau, ông có trong tay 60.000 binh sĩ Phi Luật Tân, 12.000 hướng đạo kinh nghiệm chiến đấu trong rừng rậm và 20.000 quân Mỹ do tướng Sutherland nhường lại để trở thành Tham mưu trưởng của ông. Vũ khí của họ còn bất ổn định, chiến xa cũ kỹ nhưng kỷ luật thì hoàn toàn và tinh thần thì rất cao.</p><p></p><p></p><p>Công cuộc phòng thủ đảo Lujon được phân chia cho hai đạo quân. Khu vực phía bắc đặt dưới quyền của một trong các môn đệ được ông yêu mến nhất của trường West Point, tướng Wainwright, người được ông đặt hoàn toàn tin tưởng. Chính ông sở cậy đạo quân này để chịu đựng vố đầu tiên trong trường hợp bị xâm lăng.</p><p></p><p></p><p>Ngày 4 tháng 11 1941, tướn Brereton, một phi công kỳ cựu thuộc thế hệ đầu tiên, đáp xuống phi trường Clark để nắm quyền chỉ huy không lực. Tháng 12, Brereton có trong tay 72 khu trục cơ, trong đó có 18 P-40 kiểu mới nhất và 35 pháo đài bay B-17. Kế hoạch phòng thủ của Mac Arthur tiêu liệu rằng các pháo đài bay này sẽ đến oanh tạc các phi trường của Nhật tại Đài Loan ngay khi chiến tranh bùng nổ. Chúng phải đặt căn cứ tại Del Monte trên hòn đảo lớn Mindanao, nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật.</p><p></p><p></p><p>Tối hôm trước ngày 8 tháng 12, một phần sự di chuyển này đã được thực hiện: 18 chiếc B-17 đến Del Monte, 17 chiếc còn lại ở Clark Field trong khi chờ đợi các công tác sắp xếp đã định trước.</p><p></p><p></p><p>Vì thận trọng, Mac Arthur cho phép Đô đốc Hart, tư lệnh Hạm đội Á châu gửi ba tuần dương hạm và sáu khu trục hạm của ông ta xuống biển Java và ở lại đó chờ đợi tình hình sáng sủa hơn. Ông chỉ giữ lại tại căn cứ Cavite hạm đội tàu ngầm và các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.</p><p></p><p></p><p>Mac Arthur tin chắc rằng đã làm tất cả những gì trong phạm vi thẩm quyền để chịu đựng trong hai tuần lễ vố tấn công xâm lăng trong tương lai-nghĩa là thời gian cần thiết để Hạm đội Thái Bình Dương đến tiếp cứu.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124926, member: 17223"] Do đó, ông tướng có vóc dáng cao lớn, vẫn còn giữ vẻ trẻ trung lạ lùng, đã trải qua những năm trước chiến tranh trong một chức vụ, ngồi không ăn lương, vàng son như thế. Ông sống với bà vợ trẻ (Đó là cuộc hôn nhân thứ hai của ông-cuộc ly dị của ông đã gây tai tiếng rất nhiều tại Hoa Thịnh Đốn và tạo thêm động lực để đẩy ông đi Phi Luật Tân) và người con nhỏ trong một căn nhà sang trọng nằm trên tầng chót của khách sạn lớn nhất Maniille. Mọi sự chuyển dịch của ông là cả một sự phô trương kiểu Á Đông. Ông chỉ huy theo cách của Lyautey, với một quyền uy thay đổi, ôn hoà khi phải làm như thế vì một thứ lòng tốt rất quý phái vốn biết làm rung động và lôi cuốn những quả tim. Nhưng ông chỉ điều khiển độc có quân đội Phi Luật Tân. Tháng 7 năm 1941, khi cuộc tấn công của Nhật vào Đông Dương rốt cuộc đã mở mắt người Mỹ, vấn đề tăng viện cho Phi Luật Tân được đặt ra với tất cả nhạy bén. Tướng Marshall đề nghị gửi cho Tướng Sutherland tăng viện về người và chiến cụ cũng như sự thiết lập một căn cứ không quân cho các pháo đài bay. Nhưng một không đoàn chiến đấu có tầm mức quan trọng đó phải được một tướng lĩnh không quân chỉ huy. Thật khó mà đặt ông ta dưới quyền một tướng lĩnh khác cùng cấp bậc, đó là trường hợp ông tướng trưởng phái bộ quân sự Mỹ. Cần phải tìm một tướng lĩnh khác có hơn một sao… Một người gợi ý: “Tại sao không phải là Mac Arthur?” Marshall không ưa ông quan chuyên chế địa phương có dáng điệu như một đại minh tinh màn bạc ấy, do đó đã nhăn mày. Trái lại, Roosevelt thì lại thấy ý kiến ấy là tuyệt diệu. Gia đình Mac Arthur luôn luôn theo đảng Cộng hoà. Chính Douglas cũng có ảnh hưởng không chối cãi được trong đảng. Nếu không làm cho con người quái quỉ ấy bận rộn việc gì, ông ta có thể trở thành một ứng cử viên gây khó chịu trong các cuộc bầu cử Tổng thống. Gọi ông trở lại quân đội là sắp xếp được hết mọi chuyện… Chính vì vậy mà ngày 27 tháng 7 năm 1941, trong khi đang ăn trưa trên chiếc sân thượng tràn ngập hương hoa ngoại quốc của đại khách sạn Palace tại Manille, Douglas Mac Arthur được biết rằng ông bị mất tước vị “Field Marshall của quân đội Phi Luật Tân” để được gắn lon Trung tướng khiêm nhường hơn nhiều-cùng cấp bậc mà ông đã lên lên đến nơi, cũng tại nơi này hai mươi lăm năm trước (Qui tắc xưa cũ của quân đội Mỹ bó buộc việc phục hồi cấp bậc này chỉ có tính chất tạm thời). Quả thật là người ta đã ban thưởng cho ông một trong những chức vụ chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Hoa Kỳ: đó là chức vụ chỉ huy chiến trường Thái Bình Dương mới vừa được sáng lập. Nhà quân sự lão thành đã nhận sự đãi ngộ ve vuốt này sau khi hạ bệ mà không chau mày. Thái độ đầu tiên của ông là từ chối. Nhưng, trong lúc ấy, nhờ một thông tin viên bí mật báo cho biết nội vụ, Tổng thống Quezon hấp tấp chạy đến. Ông ta nhón gót ôm hôn ông tướng và đeo vào vai ông, tìm cách xoay chuyển cái nhìn lạnh lùng của ông bằng cặp mắt van lơn. ”Tất cả những gì chúng tôi có là của ông. Tất cả những gì mà chúng tôi được như bây giờ là nhờ ông!” Tổng thống Phi Luật Tân thì thầm. Niềm hăng say cao cả, giọng nói chân thành, Mac Arthur đành nhượng bộ. Ông chấp nhận nhiệm vụ bạc bẽo là phòng thủ với gần như bàn tay trắng, xứ sở này, một xứ sở có một dân tộc được ông yêu thương và nơi đó ông được yêu thương. Ngọn lao đã phóng đi. Ông bắt đầu làm việc với nhiệt tâm mãnh liệt vẫn luôn luôn thúc đẩy ông trong hành động. Trong vài tháng trời ông đã sẵn sàng đưa ra chiến trường một đạo quân thuần nhất, đã cho xây doanh trại đồn trú dành cho đoàn quân mà rốt cuộc người ta đã chấp thuận gửi cho ông, ông phái các xe ủi đất nới rộng phi đạo các phi trường Clark Field và Nichols Field tại Lujon, và phi trường Del Monte tại Mindanao. Ông cho thiết trí đại bác phòng không chung quanh các cứ điểm quan trọng và thiết trí hai đài rada vừa được ban cấp trên núi cao phía bắc và phía nam Lujon. Ba tháng sau, ông có trong tay 60.000 binh sĩ Phi Luật Tân, 12.000 hướng đạo kinh nghiệm chiến đấu trong rừng rậm và 20.000 quân Mỹ do tướng Sutherland nhường lại để trở thành Tham mưu trưởng của ông. Vũ khí của họ còn bất ổn định, chiến xa cũ kỹ nhưng kỷ luật thì hoàn toàn và tinh thần thì rất cao. Công cuộc phòng thủ đảo Lujon được phân chia cho hai đạo quân. Khu vực phía bắc đặt dưới quyền của một trong các môn đệ được ông yêu mến nhất của trường West Point, tướng Wainwright, người được ông đặt hoàn toàn tin tưởng. Chính ông sở cậy đạo quân này để chịu đựng vố đầu tiên trong trường hợp bị xâm lăng. Ngày 4 tháng 11 1941, tướn Brereton, một phi công kỳ cựu thuộc thế hệ đầu tiên, đáp xuống phi trường Clark để nắm quyền chỉ huy không lực. Tháng 12, Brereton có trong tay 72 khu trục cơ, trong đó có 18 P-40 kiểu mới nhất và 35 pháo đài bay B-17. Kế hoạch phòng thủ của Mac Arthur tiêu liệu rằng các pháo đài bay này sẽ đến oanh tạc các phi trường của Nhật tại Đài Loan ngay khi chiến tranh bùng nổ. Chúng phải đặt căn cứ tại Del Monte trên hòn đảo lớn Mindanao, nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật. Tối hôm trước ngày 8 tháng 12, một phần sự di chuyển này đã được thực hiện: 18 chiếc B-17 đến Del Monte, 17 chiếc còn lại ở Clark Field trong khi chờ đợi các công tác sắp xếp đã định trước. Vì thận trọng, Mac Arthur cho phép Đô đốc Hart, tư lệnh Hạm đội Á châu gửi ba tuần dương hạm và sáu khu trục hạm của ông ta xuống biển Java và ở lại đó chờ đợi tình hình sáng sủa hơn. Ông chỉ giữ lại tại căn cứ Cavite hạm đội tàu ngầm và các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi. Mac Arthur tin chắc rằng đã làm tất cả những gì trong phạm vi thẩm quyền để chịu đựng trong hai tuần lễ vố tấn công xâm lăng trong tương lai-nghĩa là thời gian cần thiết để Hạm đội Thái Bình Dương đến tiếp cứu. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top