Rừng núi Việt Bắc

Bút Nghiên

ButNghien.com
Rừng núi Việt Bắc

Cái tên Việt Bắc này trở nên thân thương đối với mỗi người Việt Nam ấy, xuất hiện chưa lâu: Từ đầu những năm 40 trong những năm tháng chuẩn bị Cách mạng tháng Tám.

Việt Bắc - Việt Minh - Khu Giải Phóng, những cái tên đã đi vào lịch sử, quyện chặt lấy nhau.

Thăm Việt Bắc là thăm cái nôi của Cách mạng Việt Nam.

Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
(Tố Hữu)

Việt Bắc là cái tên gọi để chỉ một số địa phương ở miền Bắc, gần biên giới giáp với Trung Quốc: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.

Nói đến Việt Bắc nhiều người thường nghĩ tới một vùng núi rừng âm u. Đặt chân lên vùng này, rời khỏi các đường cái lớn là bắt gặp ngay những rừng rậm, nhiều nhất là rừng nứa. Và nếu len lỏi đi theo những con đường mòn ngoắt ngoéo để vào bên trong, cũng lại gặp những vùng cây rậm rạp hai bên. Nhiều nơi rừng dày đến nỗi khi tìm thấy một bầu trời mắt như bị rừng bưng lại. Đâu cũng là rừng và rừng. Đã thế, những đường mòn ấy lại quanh co theo những núi, những khe, những đồi, những thung thung lũng, nhiều khi tưởng đã đi được những khoảng cách không gian dài nhưng hóa ra chỉ cách chỗ xuất phát ban đầu không được mấy chút. Vẻ bí hiểm của núi rừng Việt Bắc một phần cũng vì thế.

Một bài thơ của Xuân Diệu viết trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp đã gọi xứ sở này là "u tì quốc" (Sáng nay ra cửa u tì quốc...), tưởng đã lột tả được vẻ âm u và bí hiểm ấy của Việt Bắc theo lối hài hước, đối với thanh niên bỏ thành phố về đây theo kháng chiến.

Thật ra Việt Bắc không chỉ toàn núi và núi. Nếu tính từ bờ trái sông Lô đến bờ phải sông Thương (theo chiều đông tây của Việt Bắc), chỉ có ba dãy núi đáng kể mà sách địa lí thường gọi là 3 vòng cung: vòng cung sông Gâm, vòng cung Ngân Sơn và vòng cung Yên Lạc nằm theo hướng bắc – nam tạo thành những "nếp lồi" và "nếp lõm" của địa hình. "Nếp lồi" là những dãy núi cao, còn "nếp lõm" này tạo nên những thung lũng lớn, đó là những vùng núi thấp và đồi, có mạng lưới sông, suối dày đặc, giống như những "trận đồ bát quái". Đi trong lòng Việt Bắc, hết những rừng cây trùng điệp, ta lại bắt gặp những ngọn núi đá vôi có tuổi rất cổ, xen lẫn những thứ đá khác. Cảnh núi thật lôi cuốn: những vạch đá xám trắng bên cạnh lớp cỏ mượt mà phủ lên những mảng đá phiến, những hang động lấp lánh thạch nhũ; những hẻm vực hẹp và dài, trên cao nhìn xuống sâu hun hút, trông như những bức tranh thủy mặc ẩn ẩn hiện hiện những đường nét trong suốt hoặc mơ hồ.

Nói cho đúng, Việt Bắc cùng với toàn bộ địa hình phía Bắc nước ta nói chung vốn là những rìa của các khối cao nguyên lớn ở Nam Trung Quốc, nhưng có những sắc thái riêng về cảnh quan.

Việt Bắc thu hút sự chú ý của nhiều người nghiên cứu về thành phần tộc người phong phú của nó. Đây là nơi cư trú của những tộc người lâu đời, ngoài Việt ra: người Tày, người Nùng, người Dao, người Hmông (Mèo), người Sán Chay... Trong đó có những tộc người gắn bó với tộc người Việt từ xa xưa.

Người Tày (dân số gần 1,2 triệu) thuộc ngôn ngữ Tày - Thái, là cộng đồng tộc người thuần nhất và có ý thức tộc thuộc rất rõ. Từ thời Hùng Vương, đã có sự liên minh giữa người Việt cổ và người Tày cổ, sự liên minh này đạt tới trình độ cao với quốc gia Âu Lạc.Và trong lịch sử Việt Nam hiện đại người Tày tham gia các cuộc đấu tranh cách mạng rất tích cực dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng sản. Trong đoàn giải phóng quân kéo về thủ đô Hà Nội những ngày Cách mạng tháng Tám, số đông là những chiến sĩ người Tày cũng như người Việt. Người Tày có nghề làm ruộng nước lâu đời bên cạnh những nghề gắn với rừng núi: săn bắn, chăn nuôi, thu lượm lâm sản... họ sống thành từng bản, từ 20 đến 60 -70 nhà ở ven chân núi, ven sông suối, trên các cánh đồng nhỏ. Phổ biến nhất là nhà sàn dựng bằng gỗ tốt, có ván bưng quanh và sàn gỗ hoặc sàn nứa. Gần đây người Tày dựng nhà gạch ngày càng nhiều. Trang phục truyền thống (nam cũng như nữ) chủ yếu là áo quần màu chàm. Quần lá tọa, áo năm thân. Nghệ thuật dân gian khá phát triển, từ văn học truyền miệng đến những làn điệu hát lượn. Rất nhiều nơi, người Tày nói khá thành thạo tiếng Việt bên cạnh tiếng mẹ đẻ của mình; trong các tộc người thiểu sổ ở Việt Nam, người Tày tiến sát gần với trình độ phát triển của người Việt hơn cả. Họ là cư dân chủ yếu của các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Thái (gọi tắt là Cao Bắc Lạng).

Người Nùng cũng là một thành phần tộc người cơ bản của Việt Bắc (hơn 70 vạn, cư trú tập trung ở Cao Bằng, Lạng Sơn và vài tỉnh khác). Nhìn chung, họ cũng đạt tới trình độ phát triển giống người Tày, nhưng vì cư trú chủ yếu ở những khu vực chuyển tiếp giữa vùng thấp và vùng cao nên ruộng nước ít hơn, nương rẫy nhiều hơn. Họ cũng ở thành từng bản (5 - 7 đến vài chục nhà) nhà sàn, nhà đất hoặc nhà nửa sàn nửa đất. Họ sống xen ghép với người Tày, vẫn giữ bản sắc riêng của mình. Trước kia, họ dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm Nùng để ghi chép thơ ca và truyện cổ dân gian. Hát sli đối đáp giữa nam nữ rất thịnh hành. Người Nùng cũng tham gia cách mạng rất tích cực và đã ghi nhiều tên tuổi trong lịch sử cách mạng hiện đại, nổi bật nhất là Kim Đồng, người thiếu niên liên lạc đầu tiên của Việt Minh đã hy sinh vì đạn thù.

Người Hmông (Mèo) sống rải rác trên những triền núi cao ở phía Bắc Việt Nam. ở Việt Bắc, có thể gặp họ ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Giang, với những làng từ vài nhà đến vài chục nhà (làng Hmông gọi là giao) trên những sườn núi hay thung lũng ở độ cao 800 - l.500m, địa hình hiểm trở (ở Hà Giang, lên vùng người Hmông phải qua Cổng Trời). Người Hmông di cư từ vùng Tây Nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Quí Châu) xuống phía Bắc Việt Nam từ nhiều thế kỷ này. Họ sống bằng nương rẫy theo lối du canh du cư. Ngoài ngô lúa làm lương thực, họ trồng nhiều vừng, đậu, cây ăn quả, cây làm thuốc. Vùng Hmông cũng là vùng trồng thuốc phiện. Họ ở nhà đất, thường là ba gian hai chái (giữa đặt bàn thờ, hai bên là bếp và buồng ngủ). Nghệ thuật dân gian Hmông khá phong phú, dân ca không chỉ hát bằng lời mà có thể giãi bày bằng khèn, đàn môi, kèn lá.

Người Dao (trước đây quen gọi là Mán) có nguồn gốc chung với người Hmông, nhưng sau chia thành hai cộng đồng tộc người riêng rẽ. Họ có mặt ở vùng núi phía Bắc Việt Nam khá sớm (từ thế kỷ XIII), chia thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm lại có tên gọi riêng thường bắt nguồn từ y phục phụ nữ mỗi nhóm (quần chẹt, quần trắng, thanh y, áo dài, tiền...). Có thể nói đó là tộc người có nhiều đặc sắc nhất trong trang phục phụ nữ. Họ sống trên những vùng cao, làm nương rẫy. Làng dựng gần các con nước hoặc nơi có thể dẫn nước về nhà (bằng đường ống bương).

Khách du lịch trong nước hay nước ngoài đến Việt Bắc cốt thăm khu di tích cách mạng: hang Pắc Bó, đình Tân Trào, an toàn khu thời kháng chiến chống Pháp... và không phải không có cảnh đẹp để thăm (cũng xin nói là các khu đi tích lịch sử thường lại là những thắng cảnh). Nếu có dịp đến thăm hồ Ba Bể, sẽ thấy Việt Bắc chứa trong lòng cả một thắng cảnh ít nơi bì được. Từ Hà Nội đi qua Thái Nguyên, lên Chợ Rã, từ đó, tới hồ Ba Bể bằng đường sông hay đường bộ, nhưng đường sông thú hơn. Con sông Năng chảy dưới chân núi đá vôi, giữa những bờ vách đứng xuyên qua núi Lũng Nham, nơi nó gọi là động Pông (dài 300m, cao 30 - 40m). Thuyền luồn trong động Pông chập chờn bóng tối và ánh sáng, những thạch nhũ có hình thù kỳ lạ hiện lên trước cửa động. Đi khỏi cửa đông khoảng 4 km, thuyền vào hồ Ba Bể, một cái hồ kiến tạo lớn nhất miền Bắc Việt Nam, giữa vùng đá phiến và đá vôi. Hồ dài hơn 8 km, rộng 3km và sâu 20 - 80m, ở đoạn giữa hơi co lại. Giữa hồ có hai đảo nhỏ, một đảo giống như một con ngựa đóng cương đang lội nước (vì thế cũng gọi là đảo An Mã). Cảnh hồ yên lặng đến mức một tiếng động nhỏ cũng trở thành khác thường. Tiếc rằng đường đi còn bất tiện và cách trở, nếu không hồ Ba Bể đã là nơi dập dìu đi về của bao người ưa thích cảnh đẹp tự nhiên.

Thác Bản Giốc (Cao Bằng) cũng là một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Bắc, có người còn gọi là kỳ quan thiên nhiên (Hoàng Đạo Thúy). Thác nằm trên sông Quy Thuận. Con sông nhỏ chảy đến đây bỗng sụt xuống 34m tạo thành một thác cao và rộng. Thác phía tây đổ thẳng xuống thành ba dòng, một dòng tỏa những hạt nước nom như một tấm the mỏng, hai dòng kia nước đổ ào ào. Chân thác có hang. Thác phía đông đổ xuống ba bậc, trải ra rất rộng. Từ xa nhìn tới, màu nước bạc lẫn vào màu cây xanh, màu hồ lục thẫm, màu núi tím, tạo thành một bức tranh lồng lộng giữa trời. Thác Bản Giốc từng đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh đặc sắc.

Nhưng dù phong cảnh đẹp đến đâu lên Việt Bắc trước hết là bước vào những khung cảnh thấm đầy không khí lịch sử, không khí cách mạng.

Ta có thể đi thẳng lên Cao Bằng, nơi có hang Pắc Bó được coi là cội nguồn của Cách mạng tháng Tám, có thể lên Cao Bằng theo lối lên Lạng Sơn rồi từ đó ngược lên địa đầu phía Bắc đất nước. Mà đi theo đường này cũng có cái hay của nó. Chuyến du lịch sẽ là một vòng, đi từ Hà Nội lên Lạng Sơn, men theo vách đá, rồi theo sông Thương, rồi đi vào thung lũng Chi Lăng, nơi Lê Đại Hành phá quân Tống (năm 981), nơi quân Lê Lợi đánh tan giặc Minh chém đầu Liễu Thăng (năm 1427). Sau qua Quỉ Môn Quan và đến thị xã Lạng Sơn nằm bên bờ trái sông Kỳ Cùng. Cái xứ Lạng xa xôi ấy đã đi vào lời ru:

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em...

Dừng lại đây xem chợ Kỳ Lừa, một chợ to đủ các mặt hàng lâm sản (mộc nhĩ, nấm hương, các vị thuốc...), xem chùa Tam Thanh đặt trong một hang lớn, thạch nhũ dẹp. Trên đỉnh núi Tam Thanh, xưa kia có tảng đá nàng Tô Thị ngóng chồng tay bồng con.

Rồi lại đi theo đường số 4 lên Cao Bằng. Đường này đi vào lịch sử kháng chiến chống Pháp với những trận đánh lớn ở Thái Khê, Đông Khê, Thất Khê (cách Lạng Sơn 65km) là cứ điểm lớn nhất của Pháp trong chiến dịch biên giới năm 1950, Pháp phải bỏ chạy trước uy hiếp ào ạt của quân ta. Đông Khê (cách Lạng Sơn 88km) là nơi quân ta đột phá trong chiến dịch biên giới năm 1950. Đông Khê mất, cả năm ngàn lính địch ở Cao Bằng phải bỏ chạy. Và đi thêm 44km nữa, đến Cao Bằng nơi tận cùng đất nước về phía Bắc mà những người vợ lính thời xưa phải thốt lên: Cao Bằng xa lắm anh ơi và những người lính phải dặn dò:

Em về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.

Ngày nay Cao Bằng không còn là miền đất xa hun hút thế nữa. Đến đây, bạn bè sẽ thấy một thị xã biên giới biến đổi như thế nào. Vẫn là những đường phố nhỏ nằm ở một thung lũng lòng chảo ấy, nhưng đã có ánh điện, đã có hoạt động công nghiệp rộn ràng. Cao Bằng chủ yếu là vùng công nghiệp khai khoáng: mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ sắt Bảo Lạc... gần thị xã Cao Bằng là kinh đô nhà Mạc trong gần một thế kỷ (cuối thế kỷ XVI - cuối thế kỷ XVII), rồi là Cao Bình. Hiện vẫn còn vết tích thành quách, vườn hoa và hồ sen. Mảnh đất lịch sử được nhiều người đến thăm nhất là Păc Bó, cách thị xã Cao Bằng 60km. Đây là một vùng núi sát biên giới Việt Trung nơi Bác Hồ ở đầu tiên khi từ nước ngoài về. Păc Bó là tên thôn còn nơi Bác Hồ ở là hang Cốc Bó (Cốc: đầu nguồn, Bó: suối). Trong hang còn nét chữ Bác ghi: ngày 8 tháng 2 năm 1941. Ở đây Bác tạc một cột thạch nhũ thành tượng Các Mác; ngoài hang có một phiến đá Bác dùng để làm việc. Gần đó có ngọn núi nhỏ Na Tảng được Bác đặt tên là núi Các Mác và dòng suối Giàng được đặt tên là suối Lê Nin. Cách hang khoảng 1km có lán Khuổi Nậm nơi họp hội nghị trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ VIII (năm 1941), một hội nghị lịch sử quyết định tập trung mọi hoạt động của Đảng vào cách mạng giải phóng dân tộc, quyết định thành lập mặt trận Việt Minh với lá cờ đỏ sao vàng về sau trở thành cờ nước. Ở làng Nà Mạ trên đường đi tới Păc Bó, có ngôi mộ Kim Đồng. Toàn bộ khu này trở thành khu di tích lịch sử, rộng khoảng 1.000 hec-ta.

Từ Cao Bằng bạn theo đường số 8 về thành phố Thái Nguyên qua thị xã Bắc Cạn. Bắc Cạn và Thái Nguyên là hai tỉnh nhập một gọi là tỉnh Bắc Thái.

Thị xã Bắc Cạn là một thị xã nhỏ, rất nhỏ. Nhưng đây từng là mục tiêu tấn công quan trọng nhất của quân Pháp hồi đầu kháng chiến, vì chúng cho đây là thủ đô của Việt Minh. Đó là cuộc hành quân "Léa" bắt đầu bằng cuộc nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn sáng sớm ngày 7 tháng 10 năm 1947 mà bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đặt hết hy vọng vào. Quân Pháp chiếm được thị xã và lùng sục chung quanh thị xã để bắt "bộ chỉ huy" của Việt Minh. Có lúc chúng rêu rao đã bắt được Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự thật cuộc hành quân "Léa" không đạt được mục tiêu gì quan trọng và cuối cùng, trước những đòn giáng trả của quân và dân Việt Bắc chúng phải rút khỏi thị xã Bắc Cạn. Tất cả những vết tích kháng chiến ấy bây giờ không còn lại bao nhiêu, nhưng mỗi lần đi qua đây người ta không khỏi liên tưởng đến những ngày chiến thắng ban đầu của cuộc kháng chiến ấy.

Từ Bắc Cạn đi vào thành phố Thái Nguyên, một thành phố xinh xắn nằm ở cửa ngõ Việt Bắc, trên những ngọn đồi vùng trung du, cạnh sông Cầu. ở đây có khu gang thép Thái Nguyên xây dựng từ những năm 60. Cũng phải nói rằng do những tính toán không đúng về kỹ thuật và nguyên liệu, khu gang thép này không đáp ứng được những hy vọng ban đầu và đang ở trong tình trạng sản xuất khó khăn, nhưng dù sao đó cũng là trung tâm gang thép đầu tiên của Việt Nam với những cố gắng học tập và làm việc đáng kể của cán bộ kỹ thuật, quản lý và công nhân luyện kim. Ít ra đó cũng là một trường học xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trường học phải trả giá khá đắt.

Dừng chân ở Thái Nguyên để hôm sau lại lên đường. Hai hướng cần đi tiếp trên đất Việt Bắc: hướng đông tới Bắc Sơn hướng tây - bắc tới Tân Trào.

Bắc Sơn được biết tới như một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở đây hồi tháng 10 năm 1940 với sự ra đời của đội du kích Bắc Sơn (sau đó trở thành ba trung đội Cứu quốc quân). Cuộc khởi nghĩa không thành công nhưng đã gây được tiếng vang lớn. Bài hát Bắc Sơn của Văn Cao cũng như ở vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng càng làm cho cái tên Bắc Sơn trở thành một điểm sáng trong di sản tinh thần của đất nước. Nhưng Bắc Sơn không chỉ là một dấu tích lịch sử hiện đại. Nó còn là một dấu tích lịch sử xa xưa được các nhà khảo cổ đặt tên là văn hóa Bắc Sơn. Khối núi đá vôi Bắc Sơn hiện lên sừng sững như một trường thành chạy dài ven hữu ngạn sông Thương. Đây là nơi cư dân nguyên thủy từng ở trong các hang động đá vôi thời đồ đá mới. Trong tầng văn hóa ở đây (dày đến 1,3m) đã tìm thấy nhiều đi tích có giá trị khảo cổ lớn: những rìu đá tứ giác, những rìu đá có kích thước nhỏ, mài nhẵn, lưỡi sắc, những chiếc đục nhỏ, dài, những vòng đá lớn và đẹp. Người cổ Bắc Sơn đã đạt tới một kỹ thuật chế tạo đồ đá rất cao kể cả cưa đá, khoan đá... và cũng đạt tới kỹ thuật đồ gốm khá độc đáo.

Tân Trào là một khu di tích lịch sử đặc biệt, gắn liền với Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Tân Trào nằm trên đường Thái Nguyên - Tuyên Quang. Đến huyện lỵ Sơn Dương rẽ theo sông Đáy lên phía bắc, bạn gặp một thung lũng nhỏ ở chân đèo Re, đó là Tân Trào tên gọi ấy được đặt trong thời kỳ lập khu giải phóng ở Việt Bắc cho một làng cũ của người Tày: làng Kim Long. Từ đây có nhiều ngả đường tỏa bốn phía, có mái đình cổ kính, có cây đa cổ thụ, một cảnh miền núi mang nhiều dáng nét của vùng quê đồng bằng.

Tân Trào được chọn làm "thủ đô" của khu giải phóng. Trong những ngày tiền khởi nghĩa, Bác Hồ từ Cao Bằng về ở đây, trong một lán nhỏ cạnh núi Hồng. Những ngày ấy, thời cơ khởi nghĩa dần dần chín muồi, Bác ốm nặng tưởng không qua khỏi, vẫn dặn dò những lời hùng khí: "Thời cơ thuận lợi đã đến dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập". Tại Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945, hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp, quyết định tổng khởi nghĩa và ngày 16 tháng 8, trong ngôi đình cột gỗ, lợp gồi, Quốc dân đại hội họp, đại biểu từ các miền kéo về bầu Ủy Ban giải phóng dân tộc toàn quốc (tức chính phủ cách mạng lâm thời) do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Một cảnh tượng đại hội được Nguyễn Lương Bằng xúc động ghi lại, âm hưởng vang tới tận bây giờ "Hôm ấy có đoàn đại biểu nhân dân Tân Trào đến mừng đại hội. Trong đoàn đại biểu ấy, đáng thương nhất là các em bé thiểu số gầy gò, vàng vọt... chúng nó ở truồng tồng ngồng, theo người lớn đến chào Quốc dân đại hội, Bác Hồ đến gần các cháu, chỉ vào chúng và nói với các đại biểu trong đại hội:

"Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm ăn no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này".

Sau ngôi đình, gần làng, có cây đa Tân Trào, nơi tập trung các chiến sĩ Giải phóng quân để kéo về giải phóng thị xã Thái Nguyên, rồi sau đó về Hà Nội. Những ai đã ở Việt Bắc tám năm chống Pháp (1946 - 1954) thì sau này dù về Hà Nội hay Huế hay Sài Gòn vẫn không bao giờ quên được Việt Bắc:

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng dọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
(Tố Hữu - Việt Bắc)

(Theo Nguyễn Khắc Viện)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top