ngan trang
New member
- Xu
- 159
Robert Koch - người phát hiện ra vi khuẩn lao
Ngày 24/3/1882 là một mốc quan trọng trong lịch sử y học. Trong buổi họp tại Viện Sinh lý học Berlin, bác sĩ Robert Koch, 39 tuổi, dõng dạc khẳng định: "Bệnh lao do một loại trực khuẩn gây ra!". Thế là thủ phạm của một trong "tứ chứng nan y" từng gây kinh hoàng cho cả thế giới đã được tìm thấy.
Robert Koch sinh năm 1843 tại thị trấn nhỏ Klausthal, nằm dưới chân dãy núi Hartz thuộc miền trung nước Đức. Sau khi học xong trung học, Koch đến Gottingen - một thành phố cổ xưa, cách quê nhà hơn trăm cây số để học bác sĩ y khoa. Trong thời gian học tập, Koch may mắn được sự hướng dẫn của giáo sư Henlé, một nhà nghiên cứu mô học nổi tiếng lúc bấy giờ. Những công trình nghiên cứu của Henlé đã giúp anh sinh viên trẻ chú ý đến các bệnh truyền nhiễm.
Sau khi lập gia đình cùng Emmi, Koch đến làm việc tại Wollstein, một thành phố nhỏ cách Berlin chừng hai trăm cây số về phía đông. Tại đây, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 28 của Koch, Emmi đã tặng chồng một món quà thật đặc biệt, đó là chiếc kính hiển vi. Chính món quà này đã truyền thêm niềm say mê và hứng khởi cho Robert Koch nghiên cứu y học.
Kể từ đó, sau những giờ thăm bệnh, vị bác sĩ trẻ lại miệt mài bên những chuồng sắt nhỏ nuôi đầy chuột lang rồi cặm cụi quan sát qua kính hiển vi. Lúc này, ông đang chú tâm tìm hiểu một loại bệnh dịch đặc biệt đã làm chết hàng loạt trâu bò quanh vùng. Khi quan sát máu các gia súc chết, ông nhận thấy nó có màu đen. Cuối cùng, ông phát hiện ra tác nhân gây bệnh là một loại trực khuẩn với dạng biến đổi nha bào, đấy là bệnh than. Lúc đó Robert Koch vừa tròn 33 tuổi.
Tháng 7/1880, ông được đề cử làm cố vấn y học tại Hội đồng Hoàng gia ở Berlin. Tại khu thí nghiệm ở Viện Vệ sinh Berlin, Koch cùng hai cộng sự là Loeffler và Gaffky đã có đầy đủ phương tiện để nghiên cứu khoa học. Năm 1881, ông sáng tạo ra môi trường thạch loãng hòa lẫn với nước thịt hoặc máu bò để nuôi cấy vi khuẩn. Sau khi nghe Koch báo cáo về nó tại Hội nghị Y học quốc tế ở London, nhà khoa học Pasteur đã nhận xét: "Đây là một tiến bộ lớn". Cho đến thời điểm này, người ta vẫn chưa biết chút gì về bệnh lao mặc dù trước đó, trong những năm 1865-1869, một thầy thuốc người Pháp là Jean Antoine Villemin đã thực hiện thành công việc gây bệnh lao thực nghiệm từ người sang súc vật.
Sau bao năm tháng miệt mài nghiên cứu trên súc vật và cả trên người mắc bệnh lao, cuối cùng, Robert Koch đã phát hiện được nguyên nhân gây bệnh. Đó là một loại trực khuẩn (về sau mang tên ông) dài 1-4 micromet, có khả năng kháng cả acid và cồn.
Tháng 8/1883, cùng với Gaffky và nhiều trợ lý, Koch lên đường đến Ai Cập, nơi đang có một trận dịch tả hoành hành quanh cảng Alexandrie. Sau nhiều tháng tìm tòi, cuối cùng ông phát hiện được nguyên nhân gây dịch tả: một loại vi khuẩn có hình dấu phẩy. Ông cũng xác định được đường lây truyền bệnh là qua nước uống, thức ăn, quần áo ô nhiễm. Vụ dịch tả ở Ai Cập vừa được dập tắt, Koch lại cùng đoàn khoa học Đức đến thành phố Calcutta ở miền đông Ấn Độ, trên vịnh Bengale, nơi dịch tả vẫn còn âm ỉ giết chết bao người. Bằng những phương pháp phòng chống dịch hữu hiệu, Koch cùng các cộng sự đã ngăn chặn được dịch bùng phát và giảm tỷ lệ số người mang bệnh. Ít lâu sau, ông được cử làm Giáo sư Vi khuẩn học tại Đại học Berlin, rồi Viện trưởng Viện Vệ sinh học Berlin.
Năm 1896, ở tỉnh Cap thuộc miền nam châu Phi xuất hiện một vụ dịch hạch gia súc làm chết nhiều trâu bò. Theo đề nghị của nhà chức trách địa phương, Koch lại dẫn đầu một đoàn khoa học đến tận nơi nghiên cứu. Sau khi dập tắt vụ dịch, cả đoàn lại lên đường đến Bombay, một tỉnh ở miền tây Ấn Độ để giúp dập tắt nạn dịch hạch. Trở về Berlin được một thời gian, theo yêu cầu của chính phủ nhiều nước, Robert Koch lại lên đường tới Ý, đến Java rồi vùng quần đảo miền nam biển Đông để nghiên cứu về bệnh sốt rét.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, những chuyến đi dài ngày cộng với hoàn cảnh sống thay đổi của vùng khí hậu nóng ẩm đã làm sức khỏe Koch giảm sút nghiêm trọng. Ông thường xuyên phải chịu đựng những cơn đau ngực đột ngột. Tuy vậy, đến năm 1902, nhận lời mời của chính phủ Rhodésia, Robert Koch lại dẫn một đoàn khoa học đến miền đông châu Phi để tìm hiểu về bệnh ngủ. Sau gần 2 năm ở Kenya, lặn lội nơi bùn lầy nước đọng, tìm bắt muỗi để nghiên cứu, sức khỏe Koch ngày càng xấu nên ông buộc phải trở về Berlin.
Năm 1905, giới y khoa tôn vinh Robert Koch là "Nhà nghiên cứu lớn nhất thời đại" và trao tặng ông giải Nobel Y học. Còn chính phủ Đức tặng ông huân chương "Vì công lao đối với khoa học và nghệ thuật".
Trong những năm tháng cuối đời, dù đạt được đỉnh cao vinh quang trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học nhưng cuộc sống riêng của ông lại có nhiều ưu tư, phiền muộn. Sau khi ly dị với Emmi, ông lập gia đình với một nữ diễn viên kịch hát nhưng cũng không được hạnh phúc.
Ngày 27/5/1910, một cơn đau tim đột ngột đã vĩnh viễn buộc Koch rời xa khu thí nghiệm, nơi ông đã gắn bó suốt đời với niềm say mê và hạnh phúc thực sự. Thi hài ông được mai táng trang trọng trong lăng tại Viện Nghiên cứu Các bệnh truyền nhiễm ở thủ đô Berlin.
Robert Koch sinh năm 1843 tại thị trấn nhỏ Klausthal, nằm dưới chân dãy núi Hartz thuộc miền trung nước Đức. Sau khi học xong trung học, Koch đến Gottingen - một thành phố cổ xưa, cách quê nhà hơn trăm cây số để học bác sĩ y khoa. Trong thời gian học tập, Koch may mắn được sự hướng dẫn của giáo sư Henlé, một nhà nghiên cứu mô học nổi tiếng lúc bấy giờ. Những công trình nghiên cứu của Henlé đã giúp anh sinh viên trẻ chú ý đến các bệnh truyền nhiễm.
Sau khi lập gia đình cùng Emmi, Koch đến làm việc tại Wollstein, một thành phố nhỏ cách Berlin chừng hai trăm cây số về phía đông. Tại đây, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 28 của Koch, Emmi đã tặng chồng một món quà thật đặc biệt, đó là chiếc kính hiển vi. Chính món quà này đã truyền thêm niềm say mê và hứng khởi cho Robert Koch nghiên cứu y học.
Kể từ đó, sau những giờ thăm bệnh, vị bác sĩ trẻ lại miệt mài bên những chuồng sắt nhỏ nuôi đầy chuột lang rồi cặm cụi quan sát qua kính hiển vi. Lúc này, ông đang chú tâm tìm hiểu một loại bệnh dịch đặc biệt đã làm chết hàng loạt trâu bò quanh vùng. Khi quan sát máu các gia súc chết, ông nhận thấy nó có màu đen. Cuối cùng, ông phát hiện ra tác nhân gây bệnh là một loại trực khuẩn với dạng biến đổi nha bào, đấy là bệnh than. Lúc đó Robert Koch vừa tròn 33 tuổi.
Tháng 7/1880, ông được đề cử làm cố vấn y học tại Hội đồng Hoàng gia ở Berlin. Tại khu thí nghiệm ở Viện Vệ sinh Berlin, Koch cùng hai cộng sự là Loeffler và Gaffky đã có đầy đủ phương tiện để nghiên cứu khoa học. Năm 1881, ông sáng tạo ra môi trường thạch loãng hòa lẫn với nước thịt hoặc máu bò để nuôi cấy vi khuẩn. Sau khi nghe Koch báo cáo về nó tại Hội nghị Y học quốc tế ở London, nhà khoa học Pasteur đã nhận xét: "Đây là một tiến bộ lớn". Cho đến thời điểm này, người ta vẫn chưa biết chút gì về bệnh lao mặc dù trước đó, trong những năm 1865-1869, một thầy thuốc người Pháp là Jean Antoine Villemin đã thực hiện thành công việc gây bệnh lao thực nghiệm từ người sang súc vật.
Sau bao năm tháng miệt mài nghiên cứu trên súc vật và cả trên người mắc bệnh lao, cuối cùng, Robert Koch đã phát hiện được nguyên nhân gây bệnh. Đó là một loại trực khuẩn (về sau mang tên ông) dài 1-4 micromet, có khả năng kháng cả acid và cồn.
Tháng 8/1883, cùng với Gaffky và nhiều trợ lý, Koch lên đường đến Ai Cập, nơi đang có một trận dịch tả hoành hành quanh cảng Alexandrie. Sau nhiều tháng tìm tòi, cuối cùng ông phát hiện được nguyên nhân gây dịch tả: một loại vi khuẩn có hình dấu phẩy. Ông cũng xác định được đường lây truyền bệnh là qua nước uống, thức ăn, quần áo ô nhiễm. Vụ dịch tả ở Ai Cập vừa được dập tắt, Koch lại cùng đoàn khoa học Đức đến thành phố Calcutta ở miền đông Ấn Độ, trên vịnh Bengale, nơi dịch tả vẫn còn âm ỉ giết chết bao người. Bằng những phương pháp phòng chống dịch hữu hiệu, Koch cùng các cộng sự đã ngăn chặn được dịch bùng phát và giảm tỷ lệ số người mang bệnh. Ít lâu sau, ông được cử làm Giáo sư Vi khuẩn học tại Đại học Berlin, rồi Viện trưởng Viện Vệ sinh học Berlin.
Năm 1896, ở tỉnh Cap thuộc miền nam châu Phi xuất hiện một vụ dịch hạch gia súc làm chết nhiều trâu bò. Theo đề nghị của nhà chức trách địa phương, Koch lại dẫn đầu một đoàn khoa học đến tận nơi nghiên cứu. Sau khi dập tắt vụ dịch, cả đoàn lại lên đường đến Bombay, một tỉnh ở miền tây Ấn Độ để giúp dập tắt nạn dịch hạch. Trở về Berlin được một thời gian, theo yêu cầu của chính phủ nhiều nước, Robert Koch lại lên đường tới Ý, đến Java rồi vùng quần đảo miền nam biển Đông để nghiên cứu về bệnh sốt rét.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, những chuyến đi dài ngày cộng với hoàn cảnh sống thay đổi của vùng khí hậu nóng ẩm đã làm sức khỏe Koch giảm sút nghiêm trọng. Ông thường xuyên phải chịu đựng những cơn đau ngực đột ngột. Tuy vậy, đến năm 1902, nhận lời mời của chính phủ Rhodésia, Robert Koch lại dẫn một đoàn khoa học đến miền đông châu Phi để tìm hiểu về bệnh ngủ. Sau gần 2 năm ở Kenya, lặn lội nơi bùn lầy nước đọng, tìm bắt muỗi để nghiên cứu, sức khỏe Koch ngày càng xấu nên ông buộc phải trở về Berlin.
Năm 1905, giới y khoa tôn vinh Robert Koch là "Nhà nghiên cứu lớn nhất thời đại" và trao tặng ông giải Nobel Y học. Còn chính phủ Đức tặng ông huân chương "Vì công lao đối với khoa học và nghệ thuật".
Trong những năm tháng cuối đời, dù đạt được đỉnh cao vinh quang trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học nhưng cuộc sống riêng của ông lại có nhiều ưu tư, phiền muộn. Sau khi ly dị với Emmi, ông lập gia đình với một nữ diễn viên kịch hát nhưng cũng không được hạnh phúc.
Ngày 27/5/1910, một cơn đau tim đột ngột đã vĩnh viễn buộc Koch rời xa khu thí nghiệm, nơi ông đã gắn bó suốt đời với niềm say mê và hạnh phúc thực sự. Thi hài ông được mai táng trang trọng trong lăng tại Viện Nghiên cứu Các bệnh truyền nhiễm ở thủ đô Berlin.
GS Trần Phương Hạnh, Sức Khoẻ & Đời Sống