Riêng và chung trong thơ tình hiện đại (1945-1975)
Theo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.
Ở nước ta, trong các tuyển tập thơ sau cách mạng đều có mặt những bài thơ tình. Những bài thơ ấy ngoài sự kết hợp nhuần nhuyễn nội dung và hình thức, hiện thực và lãng mạn, tình cảm và lý trí… còn có sự kết hợp hài hòa cái chung và cái riêng. Khảo sát mối quan hệ riêng chung bộ phận thơ tình 1945-1975 có thể rút ra được nhiều điều bổ ích. Qua việc khảo sát này, phần nào giúp chúng ta hiểu thêm nguyên nhân thành công của những bài thơ tình được đông đảo bạn đọc ưa thích, góp phần giúp chúng ta xác nhận thêm sự phát triển của nền thơ sau cách mạng và giúp chúng ta khẳng định vị trí, những đóng góp quan trọng của bộ phận thơ tình đối với sự nghiệp cách mạng mà lâu nay chưa được chú ý nghiên cứu, đánh giá đúng mức.
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, nhưng cũng là một dân tộc “vừa nhân hậu lại đa tình đa mang” (Lâm Thị Mỹ Dạ). Trải qua bao nhiêu thế kỷ, mặc cho sự cấm đoán của giai cấp thống trị phong kiến tiếng nói trái tim vẫn cất lên trong hàng nghìn bài ca dao với đủ mọi cung bậc: vui buồn, sung sướng, đau khổ, nhớ thương, hờn giận…
“Đôi ta xa nhau thiên hạ cũng đều buồn
Bốn phương trời chuyển động, tám ngọn nguồn rung rinh”
Đến giữa thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX, khi ý thức về cá nhân đã được nâng lên, trong văn học viết đề tài tình yêu mới được khởi sắc như những đóa hoa xuân. Nguyễn Du, Phạm Thái là hai thi sĩ rất có công mạnh dạn thể hiện đề tài này. Tiếp theo những nguồn mạch trong mát ấy, từ sau cách mạng 1945 bộ phận thơ tình trong nền văn học chân chính của chúng ta càng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, góp phần không nhỏ vào việc thể hiện tâm hồn con người Việt Nam vào những năm tháng đầy những biến cố lịch sử. Cái “tôi” của thơ tình sau cách mạng càng ngày càng vươn tới để hòa vào trong cái “ta” chung của mọi người, của giai cấp, của dân tộc, của thời đại.
Ở những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta rất khó tìm thấy những bài thơ tình. Các nhà thơ lãng mạn có tên tuổi đi kháng chiến đang rất lúng túng, “Cái phần công dân trong con người họ còn đứng tách riêng ra, tụt lại sau, nhìn ngắm, tìm tòi” (Chế Lan Viên). Cái riêng còn bị “gạt phăng”, còn bị xem là đối lập, cản trở cái chung. Những người cầm bút chưa phân biệt thật rạch ròi những tình cảm chính đáng với những “tính riêng” cá nhân ích kỷ. Năm 1948 Nguyễn Đình Thi có bài “Không nói”. Bài thơ kết thúc trong khung cảnh:
“Mưa rơi ướt mái đầu
Mỗi đứa một khăn gói
…
Nào đồng chí - bắt tay!
Em
Bóng nhỏ
Đường lầy…”
Chia tay, anh vẫn gọi người yêu là “đồng chí”. Tiếng “em” anh vẫn cố giấu kín trong lòng và chỉ khẽ gọi với theo khi bóng dáng người yêu dần khuất. Phải mấy năm sau, Vũ Cao mới không ngần ngại đặt “em” ngang với “đồng chí”: “Nhớ nhau, anh gọi: em - đồng chí” (Núi đôi). Để được một câu thơ ta đọc cứ ngỡ rất bình thường như thế, những người cầm bút phải tự vượt lên mình qua bao tìm tòi, băn khoăn, trăn trở. Hoàn cảnh khốc liệt của cuộc kháng chiến trong thời kỳ đầu dễ khiến người ta nén lòng mình lại. Cái riêng lúc này muốn hòa được vào cái chung, đòi hỏi cần phải có thời gian, đòi hỏi nhận thức phải được nâng lên, để có thể so sánh mà không còn sợ ai bắt bẻ: “Anh yêu em như yêu đất nước”… (“Nhớ” - Nguyễn Đình Thi).
Sau khi hòa bình lập lại, bước vào giai đoạn đấu tranh thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thơ tình đã rút ngắn được tình trạng chệch choạc về sự hòa hợp riêng chung ở giai đoạn trước. Vào những năm 1956-1957 chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều bài thơ tình. Đáng chú ý nhất có lẽ là bài “Đêm sao sáng” của Nguyễn Bính. Nét quí ở bài thơ này là sự hòa hợp riêng chung nhuần nhuyễn đến mức khó lòng phân biệt nó với những bài thơ tình thuần khiết viết về nỗi nhớ tình yêu, mà người đọc vẫn nhận ra bài thơ gắn rất chặt với công cuộc đấu tranh thống nhất:
“Sao đặc trời sao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em.”
Từ 1957 đến 1965 Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế hanh… lần lượt công bố những “chùm nhỏ thơ yêu”. Ngày trước Huy Cận ngắm người yêu ngủ và ru, lời ru nghe buồn não nuột “Hồn anh đã chín mấy mùa thương đau”. Giờ đây, nhà thơ lại vẫn ngắm người yêu ngủ và ru, lời ru không còn “ngậm ngùi” nữa mà ấm áp hơi thở của một người đang yêu, cảm thấy tình yêu của mình gắn với tình yêu của mọi người: “Hai ta đôi hát giữa nghìn đôi” (Bài thơ anh viết). Ngày trước, Chế Lan Viên chán nản đến mức muốn nhặt hết “hoa thơm muôn cánh rã” để “về đây, đem chắn nẻo xuân sang”. Giờ đây, anh dí dỏm tuyên bố:
“Mặc kệ lời Phật dạy
Miếng tình ta cứ ăn”
(Đi trong hương chùa Hương)
Ngày trước, Xuân Diệu yêu “vội vàng” bởi hoảng hốt trước thời gian trôi đi quá nhanh và tuổi già đến quá sớm. Giờ đây, nhà thơ vẫn yêu say đắm, nồng nàn nhưng không còn “vội vàng” nữa:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”
(Biển)
Đó là chưa kể “Chiêm bao”, “Rét nàng bân”, “Bài thơ tình Hàng Châu” của Tế Hanh; chưa kể những bài thơ “vượt tuyến” làm xôn xao cả nước của Giang Nam, Thanh Hải, của đồng bào Hơ-rê… như “Nhớ nhiều, ơ nhớ lắm”, “Quê hương”…
Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ tình nói riêng và thơ nói chung lại tiến thêm một bước mới. Lúc này hơn lúc nào hết trách nhiệm công dân và say mê cá nhân để hòa chung làm một. Cái riêng và cái chung kết hợp một cách máu thịt. Người cầm bút có thể nói hết cái “tôi” riêng. Viết về buổi tiễn đưa, nhà thơ không cần phải dấu những giọt nước mắt, viết về nỗi nhớ tình yêu nhà thơ khai thác hết mọi khía cạnh. Người viết không còn né tránh khi nói đến đau thương mất mát. Ở “Quê hương” dù sao Giang Nam vẫn còn dè dặt, đến “Bài thơ về hạnh phúc” Dương Hương Ly đã không e ngại khi viết “anh mất em như mất nửa cuộc đời”, “như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc”.
Phải chăng, vì đã có một thời người ta khóc lóc quá nhiều trong các buổi tiễn đưa “những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt”, nên thơ ca sau cách mạng, khi cần diễn tả những xúc động trong các buổi tiễn đưa, người viết thường dấu đi những giọt nước mắt? Lần đầu tiên trong thơ ca cách mạng có nước mắt của người vợ tiễn đưa chồng:
“Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
không dấu nỗi tình yêu cô rực cháy,
không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh, nóng bỏng sáng ngời”
(Cuộc chia ly màu đỏ)
Ngay từ “chia ly” trước đây người ta cũng tránh dùng, Nguyễn Mỹ đã mạnh dạn dùng và dùng rất đúng chỗ nên đã có sức lay động sâu xa. Sự xuất hiện hàng loạt cây bút trẻ: Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ… đã mang đến cho thơ tình chặng đường này một sinh khí mới. Nam nữ thanh niên trân trọng chép vào sổ tay và đọc đến thuộc lòng “Hương thầm”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Khoảng trời yêu dấu”, “Hương cau”… Xuân Quỳnh là một trong những cây bút trẻ viết khá nhiều thơ tình được bạn đọc ưa thích. Thơ Xuân Quỳnh vừa dào dạt sôi nổi vừa sâu lắng thiết tha:
“Những ngày không gặp nhau
Sóng bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ.”
(Thuyền và sóng)
Phải thật hiểu giá trị của tình yêu chân chính, Xuân Quỳnh mới viết được những câu thơ táo bạo như thế. Người đọc không chỉ cảm nhận ở những câu thơ này cái mãnh liệt của tình yêu, hơn thế nữa đó là cái mãnh liệt của tình yêu con người đối với cuộc sống. Những câu thơ này không chỉ làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần mà còn có tác dụng nuôi dưỡng những tình cảm trong sáng. Riêng chung ở đây phải được nhìn dưới góc độ như thế. Nếu chỉ hiểu một cách đơn thuần, máy móc sẽ dễ dẫn đến những hành vi, những phán quyết thô bạo đối với những bài thơ vô tội này.
Sự hòa hợp riêng chung là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng của tác phẩm văn học. Nhìn lại những bài thơ tình thành công chúng ta nhận thấy rất rõ điều này. Vươn lên để đạt được sự hài hòa cao độ giữa cái chung và cái riêng phải chăng là một trong những hướng phấn đấu của thơ ca cách mạng hiện nay? Công bằng mà nói mặc dù đạt được một số thành tựu thơ tình của chúng ta so với nền thơ chung của thế giới đang còn có khoảng cách. Thơ tình của chúng ta còn thiếu cái chân thành đằm thắm, cái dịu dàng tài hoa của thơ tình Puskin; cái phức tạp, tinh tế nhiều tầng nhiều lớp của thơ tình Tagor; cái thông minh sắc sảo của thơ tình Gam-da-tốp. Một trong những nguyên nhân làm cho thơ tình chúng ta còn bị hạn chế là do quan niệm về cái chung và cái riêng của chúng ta tuy đã được nâng cao dần, tuy đã được mở rộng dần, nhưng vẫn còn gò bó. Nói chung, thơ tình chúng ta còn để trống nhiều địa hạt, nhiều cung bậc tình cảm. Dù sống trong cuộc sống mới, không phải lúc nào tình yêu cũng diễn ra một cách bằng phẳng, êm ả, nhẹ nhàng, tròn trịa. Thế nhưng, thơ tình chúng ta nhìn chung vẫn còn tròn trịa, êm ả, nhẹ nhàng. Tình yêu trong xã hội mới không phải không còn những cơn sóng gió, không phải không còn những sự phản hội, những tính toán ích kỷ, nhỏ nhen… Thơ tình chúng ta còn né tránh, không dám, hoặc không muốn đụng chạm đến những chuyện rắc rối trong tình yêu. Nhiều bài lắp ráp một cách gượng gạo cái chung và cái riêng đến trở thành công thức đơn điệu khuôn mẫu, sao chép.
Quá trình hòa hợp riêng chung trong những bài thơ tình không chỉ chịu sự chi phối của biến cố lịch sử, tình hình chính trị, kinh tế; cơ cấu giai cấp… mà còn chịu sự chi phối của nhận thức chủ quan, của tình cảm riêng tư. Thực tế sáng tác đã chứng minh rằng công của những phụ nữ từng làm trái tim các thi nhân rung động để viết nên những bài thơ tình rất lớn. Đọc tiểu sử của Puskin, Lécmôntốp, Aragông… chúng ta thấy rất rõ điều đó. Song khi tìm hiểu tác giả chúng ta lại rất ít đề cập đến những chuyện tình có thực ấy.
Đã đến lúc chúng ta không chỉ phủ nhận việc đề cao quá mức, việc tuyệt đối hóa, xem thơ tình là đề tài duy nhất của thơ ca mà chúng ta còn cần phải uốn nắn kịp thời những định kiến hẹp hòi, sai lệch đối với nó.
Thơ tình quyết không chỉ là của riêng của bất cứ xã hội nào, giai cấp nào, thời đại nào mà là của chung nhân loại. Xã hội xã hội chủ nghĩa cũng nên và cần thiết có thơ tình của mình. Chúng ta cần quan tâm hơn nữa đời sống tình cảm của nam nữ thanh niên hiện nay! Sao chúng ta chưa làm tuyển tập chính thức về thơ tình? Sao các nhà thơ chúng ta chưa có một tập thơ nào viết riêng về đề tài tình yêu? Lẽ nào bây giờ vẫn chưa đến lúc? Giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất, Ximônốp vẫn cho xuất bản tập thơ tình “Bên em và xa em”. Nhân dân Xô-viết nhận ra rằng: một tình yêu với nhiều sóng gió nội tâm, những dằn vặt những nhớ mong hy vọng lại rất cần cho họ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trên sách báo Trung ương cũng như địa phương biên tập đã có chú ý gia thêm “một chút thơ tình” song thơ tình chúng ta rõ ràng chưa đáp ứng được nhu cầu công chúng. Tình yêu luôn mới ở mỗi con người, mỗi lứa tuổi, mỗi thời đại, lẽ nào vì người xưa làm nhiều bài thơ tình tuyệt vời rồi thế hệ chúng ta không nên làm thơ tình nữa như một số người quan niệm? Hãy để thơ tình nảy nở một cách tự nhiên, đừng nên quá khắt khe với nó. Chống sự xâm nhập của văn hoá nô dịch, đồi trụy bằng những biện pháp chính quyền không thôi chưa đủ. Cần phải có món ăn tinh thần, thỏa mãn với những đòi hỏi chính đáng của công chúng. Vun trồng được một vườn thơ tình xã hội chủ nghĩa có nhiều “hương sắc” sẽ góp phần làm cho đời sống tâm hồn chúng ta càng thêm phong phú. Sẽ góp phần làm cho cuộc đời chúng ta thêm ý vị, sẽ góp phần gạt bỏ dần thói dung tục, thô lỗ, ích kỷ… trong tình yêu của một số thanh niên hiện nay.
Trong “Người thoáng hiện” Tagor kể chuyện một tu sĩ khổ hạnh cố hành xác mình để mong sớm được lên thiên đường. Anh ta hành xác đến nỗi thần thánh đều kinh ngạc. Không ngờ, những năm cuối của cuộc hành xác bỗng một cô hái củi đến và tìm cách hầu hạ anh ta. Khi cuộc hành xác hoàn thành, vị chúa tể của những người bất tử báo cho anh ta biết rằng đã đến ngày chuẩn bị lên thiên đường. Người tu sĩ trả lời: đã lâu tôi không còn muốn lên thiên đường nữa. Qua câu chuyện này, thi sĩ Ấn Độ muốn khẳng định sức mạnh của tình yêu. Với con người, tình yêu là thiên đường nơi trần thế. “Không có gì của con người mà xa lạ với tôi”! Tình yêu là cái vô cùng thân thiết gần gũi của con người lẽ nào lại vắng bóng trong thi ca? Sự có mặt của gần 20 bài thơ tình trong tổng số 186 bài thơ được chọn ở tuyển thơ Việt Nam 1945-1975 của NXB Tác phẩm mới; phần nào chứng minh điều đó.
Tagor viết “Tôi đi tìm con nai vàng. Các bạn cứ cười đi, nhưng tôi không vì thế mà kém đeo đuổi nó… Tôi chạy qua đồi, qua thung, tôi lang bạt trong những xứ lạ, tìm con nai vàng” (Người làm vườn tình ái).
Con nai vàng - là đề tài tình yêu mà Tagor đeo đuổi. Thơ ca cách mạng chúng ta chẳng dại gì để sổng mất con nai vàng ấy!
Vinh 1982, Huế 1984
M.V.H
(7/6-84)
Tạp Chí Sông Hương