Quân nước pháp lấy bắc kỳ

ngan trang

New member
QUÂN NƯỚC PHÁP LẤY BẮC KỲ
1. NGƯỜI PHÁP TÌM ĐƯỜNG SANG TÀU. Từ khi nước Pháp lấy xong đất Nam kỳ rồi, suý phủ ở Sài Gòn sửa sang mọi việc, và cho người đi xem xét tình thế và sông núi ở Trung kỳ và Bắc kỳ để mở mang sự giao thông. Lại có ý muốn tìm đường thông sang nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm Bính dần (1866), Thiếu tướng De la Grandière sai Trung tá Doudart de Lagrée cùng với đại uý Francis Garnier (Ngạc nhi) và mấy người Pháp nữa theo sông Mékong đi tìm đường sang Tàu. Đến tháng 3 năm Mậu Thìn (1868), non hai năm trời, ông Doudart de Lagrée mới sang đến đất Vân Nam. Nhưng chẳng may ông ấy phải bệnh đau gan mà chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi qua nước Tàu, rồi xuống tàu thuỷ về Sài Gòn.
Đến năm Canh Ngọ (1870) là năm Tự Đức thứ 23, ở bên Tây, nước Pháp đánh nhau với nước Phổ; quân Pháp thua, Pháp hoàng là Nã-phá-luân đệ tam bị bắt. Dân nước Pháp bỏ đế quốc mà lập Dân chủ cộng hoà. Tuy ở bên Pháp có sự chiến tranh, nhưng ở bên Viễn đông này, quân Pháp vẫn giữ vững đất Nam kỳ. Vả Triều đình ở Huế còn bận dẹp giặc Khách ở Bắc kỳ, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi gì cả.
2. ĐỒ PHỔ NGHĨA (JEAN DUPUIS). Thủa ấy, có một người Pháp tên là Jean Dupuis, ta gọi là Đồ Phổ Nghĩa mấy năm trước đã đi du lịch ở các tỉnh bên Tàu, để tìm cách buôn bán, biết có sông Hồng Hà từ đất Vân Nam chảy qua Bắc kỳ ra bể, là một đường tiện lợi hơn, bèn nhận với quan nhà Thanh ở Vân Nam để chở đồ binh khí sang bán.
Đồ Phổ Nghĩa về cùng với một người Pháp nữa tên là Millot buôn bán ở Thượng Hải, trù tính việc chở binh khí sang Vân Nam, đoạn rồi về Pháp để mua hàng. Khi trở sang bên này, Đồ Phổ Nghĩa vào Sài Gòn xin Suý phủ giúp thanh thế cho để đi qua Bắc kỳ, Viên Thống đốc Nam kỳ lúc bấy giờ là lục quân Thiếu tướng d’ Arhaud, có hứa với Đồ Phổ Nghĩa cho chiếc tàu Bourayne đi theo.
Đồ Phổ Nghĩa sang Hương Cảng để cùng với Millot đem ba chiếc tàu con là Hồng Giang, Lao Kay và Sơn Tây chở đồ binh khí và hàng hoá vào Quảng Yên. Trong lúc ấy Hải quân trung tá Sénès đã đem tàu Bourayne ra Bắc kỳ, rồi lên Hải Dương, Hà Nội, Bắc Ninh đi xem các nơi.
Trung tá ở Bắc Ninh nghe tin bọn Đồ Phổ Nghĩa đã đến Quảng Yên, liền trở ra để cùng bàn với quan Khâm sai Lê Tuấn về việc thông thương ở sông Hồng Hà.
Ông Lê Tuấn không có lệnh Triều đình, không dám tự tiện, nói xin đợi vài mươi hôm để có mệnh nhà vua ra sẽ hay.
Đồ Phổ Nghĩa và Millot thấy đợi lâu, bèn cứ đem tàu lên đóng ở Hà Nội, rồi thuê thuyền chở đồ lên Vân Nam. Bấy giờ là cuối năm Nhân Thân (1872), là năm Tự Đức thứ 25. Thuyền của Đồ Phổ Nghĩa đi qua những đồn của quân ta, của giặc cờ vàng và giặc cờ đen đều vô sự cả. Khi lên đến Vân Nam, quan nhà Thanh cho chở đồ kháng vật xuống, đến tháng tư năm Quí Dậu (1873), thì Đồ Phổ Nghĩa và Millot lại trở về đến Hà Nội, đem một bọn lính cờ vàng về theo. millot lại trở về đến Hà Nội, đem một bọn lính cờ vàng về theo. millot thì vào Sài Gòn nói cho Suý phủ biết tình thế ở Bắc Kỳ, và nhân thể đem đồ kháng vật sang bán ở Hương Cảng. Còn Đồ Phổ Nghĩa thì ở lại Hà Nội, đóng ở phố Mới bây giờ, rồi cùng với mấy người Khách là Bành Lợi Ký, Quan Tá Đình mua gạo, mua muối chở lên Vân Nam.
Bấy giờ luật nước ta cấm không cho chở muối sang Tàu, mà việc thông thương ở sông Hồng Hà cũng chưa định rõ thế nào, nhưng Đồ Phổ Nghĩa tự xưng là có lệnh quan Tàu cho, thì không cần phải theo luật nước Nam, vì nước Nam là một nước phải thần phục nước Tàu.
Đồ Phổ Nghĩa không hiểu rõ sự giao thiệp nước Tàu và nước ta ngày trước. Đối với Tàu thì bề ngoài nước ta tuy xưng cống thần, nhưng kỳ thực vẫn là độc lập. Khi có việc gì, phải có sứ hai nước sang thương nghị rồi mới thi hành. Mà có khi sứ nước Tàu sang bàn điều gì, nước ta không thuận cũng thôi, chứ không có phép tự tiện mà làm được. Chỉ trừ nước Tàu ỷ thế mạnh mà bắt nạt, như đời nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh, thì lại có ông Trần Hưng Đạo, ông Lê Thái Tổ và ông Nguyễn Quang Trung tỏ cho người Tàu biết rằng nước Nam vốn không phải đất thuộc địa của Tàu.
Tuy vậy, quan ta phải nể Đồ Phổ Nghĩa là người nước Pháp, sợ có việc gì, thì thành ra bất hoà với Suý phủ ở Sài Gòn, cho nên cứ dùng lời nói ngọt để can ông ấy đừng làm điều trái với luật nước. Nhưng ông ấy cứ một niềm tự ý mình mà làm. Quan ta nhờ cả giám mục Puginier ở Kẻ Sở lên can cũng không được.
Sau quan ta có bắt mấy tên khách Bành Lợi Ký và Quan Tá Đình về sự đem thuyền chở muối và gạo lên Vân Nam, thì Đồ Phổ Nghĩa đem người đi bắt quan phòng thành Hà Nội và quan huyện Thọ Xương, đem xuống thuyền giam lại. Quan ta cũng ngơ ngác không biết ra thế nào. Một bên thì cố tình sinh sự, một bên thì mệnh nhà vua ra không được lôi thôi điều gì.
Bấy giờ Triều đình sai quan Hữu tham tri bộ Binh là Phan Đình Bình làm khâm phái ra giao cho ông Nguyễn Tri Phương phải thu xếp cho yên chuyện ấy. Ông Nguyễn Tri Phương mới sai quan bố chính là Vũ Đường định ngày mời Đồ Phổ Nghĩa đến Hội quán Quảng Đông, để hội nghị. Khi hai bên đến hội đồng, quan ta nói rằng sự giao thiệp với nước Nam đã có tờ hoà ước năm Nhâm Tuất (1862), và sự đem muối và gạo lên bán ở Vân nam là trái với tờ hoà ước ấy, và lại trái với luật bản quốc. Đồ Phổ Nghĩa cãi rằng ông ấy có lệnh quan Tàu cho là đủ, không cần phải xin phép gì nữa, rồi đứng dậy ra về.
Triều đình ở Huế thấy việc lôi thôi mãi, sợ để lâu thành ra nhiễu sự, mới sai ông Lê Tuấn, ông Nguyễn Văn Tường và ông Nguyễn Tăng Doãn vào sứ Sài Gòn, để thương nghị về việc ba tỉnh phía tây đất Nam kỳ và nhân thể nhờ Suý phủ phân xử việc Đồ Phổ Nghĩa cho xong.
3. ĐẠI UÝ FRANCIS GARNIER (NGẠC NHI) RA HÀ NỘI. Viên Thống đốc Nam kỳ bấy giờ là Hải quân Thiếu tướng Dupré vốn đã lưu ý về việc Bắc kỳ. Trước đã viết thư về cho Thượng thư Thuộc địa bộ ở Paris nói rằng: “Đất Bắc kỳ là đất tiếp giáp với những tỉnh tây nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy thì sự cai trị của ta ở Viễn đông này mới được chắc chắn”.
Nhưng bên Pháp bấy giờ mới đánh nhau với nước Phổ vừa xong, không muốn gây chuyện khác, bèn điện sang cho Thiếu tướng rằng: “Không được sinh sự ở Bắc kỳ.” Đến khi Millot về Sài Gòn kể công việc ở Bắc kỳ, Thiếu tướng lại điện về Paris nói rằng: “Việc Đồ Phổ Nghĩa ở Bắc kỳ đã thành công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc kỳ và giữ lấy con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành công chắc lắm.” Ngay hôm ấy, Thiếu tướng lại viết thêm một cái thư về nói rõ mọi lẽ, và quyết rằng xin chính phủ để cho Thiếu tướng được tự tiện, hễ có việc gì thì Thiếu tướng xin chịu lỗi [1].
Đang lúc ấy thì Triều đình ở Huế sai bọn ông Lê Tuấn vào xin Thiếu tướng ra điều đình việc Đồ Phổ Nghĩa ở Bắc Kỳ.
Cứ như ú của Thiếu tướng Dupré điện về cho chính phủ Pháp, thì Thiếu tướng chỉ mong có cái cơ hội gì để đem quân ra Bắc kỳ. Nay thấu Triều đình ta vào nhờ Suý phủ ở Sài gòn phân xử việc Đồ Phổ Nghĩa, thật là gặp được cái dịp mình đang mong, Thiếu tướng liền gọi quan Hải quân đại uý Francis Garnier ở Thượng Hải về, rồi sai ra Hà Nội, nói rằng ra phân xử việc Đồ Phổ Nghĩa.
Đại uý Francis Garnier đem mấy chiếc tàu con và 170 người lính ra đến cửa Thuận, nghỉ lại mấy hôm để đợi quan khâm sai cùng ra Bắc kỳ. Đến tháng 10 năm Quí Dậu (1873), thì các quan ra đến Hà Nội.
Bấy giờ ai cũng tưởng là đại uý Francis Garnier ra chuyến này thì mọi việc xong cả, cho nên đi đến đâu quan ta cũng tiếp đãi rất trọng hậu. Nhưng xem những thư từ của đại uý lúc bấy giờ, thì cốt ra có chủ ý khác. Khi ở Sài Gòn sắp đi, đại uý viết thư về cho người anh ở bên Pháp nói rằng: “Lệnh của Suý phủ cho, là được tự tiện. Việc gì Hải quân Thiếu tướng cũng uỷ thác cho tôi cả. Vậy vì nước Pháp mà tôi phải cố sức.” Đến khi ra đến Hải Dương, đại uý vào ở Kẻ Sặt, rồi viết thư sai người đem cho Đồ Phổ Nghĩa, báo tin cho ông ấy biết cái chủ đích của mình, và lại nói rằng trăm sự đại uý trông cậy vào ông ấy chỉ bảo cho, bởi vì ông ấy đã quen biết mọi việc ở Bắc kỳ.
Đồ Phổ Nghĩa tiếp được thư, liền đem chiếc tàu Manhao đi đón đại uý. Lên đến Hà Nội, địa uý đem mấy người đi thẳng vào thành ra mắt ông Nguyễn Tri Phương, và đòi đem quân đóng ở trong thành. Quan ta nói mãi, Đại uý mới thuận ra đóng ở Trường Thi. Đoạn tồi đại uý viết thư mời giám mục Puginier ở Kẻ Sở lên Hà Nội, để nhờ ông làm thông ngôn. Đại uý lại làm từ hiểu dụ, cho dân biết, nói rằng: “bản chức ra Bắc kỳ cốt để dẹp cho yên giặc giã, và để mở mang sự buôn bán”.

[1] Sách “L’Empire d’ Annam” của capitaine Ch. Gosselin.
 
QUÂN NƯỚC PHÁP LẤY BẮC KỲ
Lần thứ hai

1. ĐẠI TÁ HENRI RIVIÈRE RA HÀ NỘI. Cuối năm Tân Tị (1881), nhân có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được. Viên thống đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng binh lực mà dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882) một mặt thống đốc sai Hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa binh thuyền ra Hà Nội; một mặt viết thư cho Huế, đại lược nói rằng: đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người Pháp có giấy thông hành của quan An Nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn trở. Ở Huế thì quan Việt Nam thất lễ với quan Khâm sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của người nước Pháp.
Được ít lâu, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm quân ra đến Hải Phòng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thuỷ.
2. HẠ THÀNH HÀ NỘI LẦN THỨ HAI. Quan Tổng đốc Hà Nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đãi tử tế, nhưng trong bụng vẫn lo cho nên mới sai sửa dọn thành trì để phòng bị. Đại tá Henri Rivière vào thành thấy vậy có ý không bằng lòng, bèn quyết ý đánh thành.
Sáng 5 giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882) quan Tổng đốc tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan võ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở Đồn Thuỷ. Đúng 8 giờ thì quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ thì thành đổ. Ông Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, còn các quan thì bỏ chạy cả.
Lúc tiếp được thư của đại tá, thì ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ là Tôn Thất Bá ra thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo xuống vừa xong, thì quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai tìm ông Tôn Thất Bá và quyền lĩnh mọi việc.
Vua Dực Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền cho quan Kinh lược chánh phó sứ là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm tìm cách chống giữ. Nhưng quan Khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ ý của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành trì. Triều đình bèn sai quan nguyên Hà Ninh Tổng đốc là Trần Đình Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ làm phó Khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi việc. đại tá trả thành Hà Nội lại cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong hành cung. Hai bên thương nghị mãi. Đại tá đòi 4 khoản: 1 - nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ; 2 - phải nhường thành thị Hà Nội cho nước Pháp; 3- đặt thương chánh ở Bắc Kỳ; 4 - sửa lại việc thương chánh ở các nơi, và giao quyền cho người Pháp cai quản.
Bọn ông Trần Đình Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đình hội nghị, các quan có nhiều người nói rằng: Nước ta trong còn có Lưu Vĩnh Phúc, ngoài còn có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả lời không chịu.
Đến tháng 10 thì ông Trần Đình Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại làm Hà Ninh Tổng đốc.
3. VIỆC CẦU CỨU NƯỚC TÀU. Triều đình ta bấy giờ biết nước Pháp cố ý chiếm đoạt, và lại tưởng rằng nước Tàu có thể bênh vực được mình, cho nên mới sai ông Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Chẳng qua là người mình hay có cái tính ỷ lại, cho nên mới kêu cầu người ta, chớ không biết rằng người Tàu giữ nước Tàu không xong còn đi cứu ai được. Tuy vậy, không những là Tàu không cứu được mình mà lại còn muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy nước mình. Xem như khi thành Hà Nội thất thủ, quan Tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng: “Nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ các tỉnh ở thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía Bắc sông Hồng Hà”. Bởi vậy Triều đình nhà Thanh mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.
4. QUÂN PHÁP LẤY NAM ĐỊNH. Chính phủ Pháp trước cũng muốn thu xếp dần dần cho xong việc bảo hộ ở nước Nam, và cho khỏi sự chiến tranh, nhưng sau thấy Triều đình ở Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang đóng ở các tỉnh, bèn một mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc Nam kỳ, để thay cho ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân ra cho đại tá Henri Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.
Nguyên trước đại tá Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có độ 400 lính, sau lại tiếp được 750 người nữa, đại tá bèn để đại uý Berthe de Villers với 400 quân ở lại giữ Hà Nội, còn bao nhiêu đem đi đánh Nam Định. Ngày 28 tháng 2 năm Quí Mùi (1883), thì quân Pháp khởi đánh thành. Đánh từ sáng đến trưa thì quân Pháp vào thành; quan Tổng đốc Vũ Trọng Bình bỏ chạy, quan Đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan Án sát sứ Hồ Bá Ôn bị thương.
5. ĐẠI TÁ HENRI RIVIÈRE CHẾT. Quân ta thấy quân Pháp tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu, bèn quyết ý đổi thế hoà ra thế công. Một mặt quan Tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chực sang đánh Hà Nội. Đại uý Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh đuổi, quan quân phải lui về phía Bắc Ninh. Một mặt quan Tiết chế Hoàng Kế Viêm sai Lưu Vĩnh PHúc làm tiên phong đem quân về đóng ở phủ Hoài Đức, để đánh quân Pháp.
Đại tá Henri Rivière lấy xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta và quân cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13 tháng 4 thì đại tá đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra đánh, quân Pháp chết và bị thương non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử trận, đại uý Berth de Villers bị thương nặng.
Ở Sài Gòn được tin đại tá Henri Rivière chết, viên thống đốc Thomson liền điện về cho chính phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris, hạ nghị viện còn đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ. Khi tiếp được điện báo ở Sài Gòn, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích ra 5 triệu rưỡi phật lăng để chi tiêu về việc binh phí, và lại thuận cho một viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lý mọi việc ở Bắc Kỳ.
Chính phủ Pháp liền điện sang truyền cho lục quân Thiếu tướng Bouet ở Nam Kỳ ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, sai Hải quân Thiếu tướng Courbet đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng và lại cử ông Harmand là sứ thần Pháp ở Tiêm La ra làm toàn quyền.
Ngày mồng 3 tháng 5, thì Thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra đến Hải Phòng. Lập tức Thiếu tướng sửa sang sự chống giữ ở Hà Nội và ở Nam Định, và lại cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi làm tiền quân.
Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà Nội, ỏ Hải Phòng và ở Nam Định, nhưng chỗ nào cũng bị thất bại.
Quân ta bấy giờ không có thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người, cho mang gươm mang dáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát đạn trái phá thì xô đẩy nhau mà chạy; còn quân của nhà vua thì không có luyện tập, súng đại bác toàn là súng cổ, súng tay thì ít và xấu, như thế thì chống làm sao được với quân Pháp là quân đã quen đánh trận và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?
Bấy giờ cuộc hoà đổi ra cuộc chiến, suý phủ ở Sài Gòn đuổi quan lĩnh sự Việt Nam là ông Nguyễn Thành Ý về Huế. Trong khi việc nước đang rối cả lên như thế, thì vua Dực tông mất.
Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm Quí Mùi (1883), trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực tông Anh hoàng đế.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top