Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Quản lĩnh và thủ lĩnh?
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="truong_minh553" data-source="post: 73589" data-attributes="member: 75809"><p><strong><em><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Chú dẫn</span></span></em></strong></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">* Trừ những chú dẫn riêng dưới đây, các chứng cớ đều lấy ở bản dịch 1993 Ðại Việt sử kí toàn thư của Nxb. Khoa học Xã hội. Và riêng của chúng tôi là "Những người ‘xuống đồng’ trước nhóm Mường Thái Lam Sơn" trong Hợp Lưu số 94, tháng 4&5/2007, 42-61. Nhân tiện cũng xin xoá phần sai lầm của chúng tôi ở tạp chí này, trong phân đoạn cuối trang 45: "ví dụ... này cả."</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(1) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, 1992, tập I, Dư địa chí, trang 50, Nhân vật chí, trang 325.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(2) Phan gia công phả ố Gia Thiện, Hà Tĩnh, Nguyễn Ngọc Nhuận dịch và chú giải, Phan Huy Lê hiệu đính, Nxb. Thế Giới, Hà Nội 2006, trang 13, chú số 3. Lời xác nhận "Trong số các họ nước ta, họ Phan là một trong những dòng họ có từ lâu đời", căn cứ theo chú dẫn 1, cùng trang: "Ðời vua Hùng có ông Phan Tây Nhạc quê gốc Hà Trung, châu Ái... là bộ tướng của Tản Viên Sơn Thánh, con rể của Hùng Duệ Vương..." cho thấy dịch giả đã đi quá xa tinh thần khoa học cần phải có. Tuy nhiên điều này hình như đã trở thành bình thường bây giờ, trong nước. Riêng với chúng tôi, thông tin này về nguồn gốc xa đời của họ Phan lại thêm một lần chứng thực giả thuyết của chúng tôi về phần lớn họ Phan (không phải tất cả) là gốc từ cách nhìn theo hướng cấp độ văn minh của Trung Hoa: tộc Phiên, phía tây. Theo chỉ dẫn của gia phả, có thể tóm lược đại khái tiến triển của dòng họ Phan này như sau:</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Lần xa đời nhất được biết là họ này sinh sống trong vùng được gọi là vùng Trại thấp kém đối với vùng Kinh văn minh hơn, và ông tổ được các triều đại Lí, Trần coi là hay phong cho chức Thủ lĩnh của tập họp dân dưới quyền, tập họp những Phiên dân ở phía tây. Một thủ lĩnh như thế, với những đời xa hơn về trước, có thể kiêm nhiệm vai trò thế tục và siêu nhiên ố như ông vua Hùng của Ðại Việt sử lược, nhưng với áp lực lấn lướt từ Thăng Long, ví dụ qua ông Lí Hoảng của Lí, ông Trần Nhật Duật, Trần Quốc Khang của Trần thì vai trò ông trại chủ quyền uy sinh sát sẽ biến mất chỉ còn lại ông thầy mo (như người ông của Lê Lợi) ê a bùa chú, nhảy múa theo nhịp gõ, kèn thổi. Con cháu tuy "làm ruộng" nhưng nhờ truyền thống đó thành "am tường âm nhạc" (lời Gia phả), và thế là dễ dàng nhập vào vai trò của một ông Trùm Giáo phường sinh hoạt trong các cuộc tế lễ thần thánh dưới triều Lê sơ. Với sự nổi dậy của nhóm Trịnh Lê trung hưng, một ông tổ dòng này, chắc không còn được gọi bằng tên "phiên" phiếm chỉ nữa mà đã mang họ Phan thực thụ (xem chứng cớ ở Lê Quý Ðôn về họ Phan của nhóm người Sách Quảng Bình), và gia nhập toán chống Mạc ngay từ lúc khởi thuỷ nên theo thời gian làm quan võ, kết thông gia với họ Trịnh, thoát được vị thế "xướng ca vô loài", cho con học hành đỗ Tiến sĩ 1754 (Phan Huy Cận 1722-1789) rồi cứ thế mà thênh thang trong một giai đoạn mới của dòng họ, đổi chữ lót "văn" quê mùa đồng loạt, đồng dạng với mọi người khác, qua chữ "huy" của những người nổi danh toàn đất nước: Phan Huy Ích, Phan Huy Chú... kể cả ông Phan Huy Quát xấu số làm Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, tù nhân cải tạo, và ông sử gia Phan Huy Lê ngày nay...</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(3) Phan Huy Lê và Phan Ðại Doãn trong Khởi nghĩa Lam Sơn (Nxb. Khoa học Xã hội 1977, 120-122, 139, 148) tuy có nói đến "sự đóng góp tích cực của đồng bào các dân tộc Mường, Thái" nhưng Lê Lợi được coi là "địa chủ" (yêu nước), một "hào trưởng / quân trưởng một phương" chứ không phải là con cháu một ông Thầy mo ("sư công"), liên hệ với tộc Thái nhiều đến mức con cháu khấn trong lễ gia tiên phải thêm lời tiếng Lào như Phạm Ðình Hổ cho biết (Vũ trung tùy bút, bản dịch, Nxb. Văn hoá 1972, 172.) Thật cũng dễ hiểu. Khi các tác giả đã đặt tên sách đầy tính phấn khích của thời đại như trên thì vấn đề "Lê Lợi là một tù trưởng người Mường" phải "cần nghiên cứu và xác minh thêm..." cũng là lẽ đương nhiên. "Nguyên tắc" về dân tộc đã được đặt ra kênh kiệu như thế thì "không thể nhường", như sự kiên định chính trị của thời đại đã cho thấy, cho nên đến thế kỉ XXI, dù đất Lam Sơn được coi là nơi "tập họp và đoàn kết nhiều tộc người... như Mường (kể tên làm chứng cứ...), Thái (kể tên...) hoặc Tày..." nhưng Lê Lợi vẫn là "một hào trưởng [người Kinh] thuộc giai tầng xã hội mới (địa chủ bình dân [?!])có uy tín..." (Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, Nxb. Giáo dục 2003, 112). Ðây là sách soạn theo chương trình của Ðại học Quốc gia Hà Nội, theo Lời giới thiệu, có ý định "đáp ứng phần nào" tình hình "các bộ thông sử Việt Nam đã quá lâu chưa được sửa chữa, bổ sung." Ở Ðại học là thế thì học sinh Trung học cũng không thể được hiểu khác. Lê Lợi "có ông tổ ba đời... tổ chức khẩn hoang lập nên một trang trại... từ đó đời đời làm quân trưởng một phương." (Trương Hữu Quýnh chủ biên, Ðại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, H. 2000, 283, dưới tiểu mục đáng chú ý về Nguyễn Trãi như chúng tôi lưu ý dưới đây: "Lê Lợi, Nguyễn Trãi, hội thề Lũng Nhai và công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa.")</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Tin tưởng vững vàng như thế tất nhiên ảnh hưởng đến cả học giả phương Tây vốn thường mang tính xét nét khó khăn hơn. Chứng cớ hơi cũ, nhưng ông Giám đốc Danh dự Trường Viễn Ðông Bác Cổ, G. Coedès, cũng đã viết: Lê Lợi, vị đại anh hùng của lịch sử Việt Nam, là "chef d’une famille paysanne de Thanh Hoá" (Les peuples de la péninsule indochinoise, Dunod, Paris 1962, pp. 193, 194.)</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(4) Phan Huy Chú, sđd, I, trang 457, 458, 466, 467. Trong chiến tranh chống Minh, danh xưng tổ chức còn thấy trong việc Lê Lợi phong Phạm Văn Xảo làm Khu mật đại sứ (chuyện 1426), phong Nguyễn Trãi làm Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự (1427). Ðây là lần xuất hiện đầu tiên của Nguyễn Trãi trong Toàn thư, lí do của việc phong chức hẳn là để Lê Lợi sử dụng trong việc trao đổi thư từ với Vương Thông đang bị vây trong thành Ðông Ðô. Nguyễn Trãi tuy có mặt từ đầu nhưng vai trò của văn quan chỉ cần thiết khi đã có đất đai, có thế lực để trao đổi lời lẽ nên dấu vết dồi dào còn lại trong Quân trung từ mệnh tập chỉ là khoảng 1424 trở đi.</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"><em>Toàn thư cũng chỉ nói nhiều đến Nguyễn Trãi trong thời bình và giữa những nhân vật khác cho đến khi bị tru di.</em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"><em></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"><em></em>Khi triều đình Lê ban biểu ngạch công thần sau chiến thắng (tháng 5âl. 1429) cho 93 người, Nguyễn Trãi chỉ đứng vào hạng 6/9 mà thôi. Ðây không phải là sự kì thị, vì hành động có tính cách chiến lược khiến cho quân Lam Sơn phá vỡ vòng vây, tiến lên đà tấn công (1424) là của Nguyễn Chích (công thần bậc 4/9), gián tiếp cũng là mở đường thi thố tài năng văn từ cho Nguyễn Trãi. Việc đề cao Nguyễn Trãi như người thứ hai sau Lê Lợi trong cuộc chống Minh chỉ là cách nhìn của sử gia ngày nay, những người văn-nhảy-qua-sử, bị ám ảnh với Cáo bình Ngô rổn rảng (mà không liếc tới các Biểu trần tình tạ tội với Minh) hợp với tinh thần dân tộc chủ nghĩa dâng cao trong cuộc chiến vừa qua. Và cũng vì thế giới cần thêm một nhân vật của Việt Nam trong tập họp văn hoá của nhân loại. (Có ai bình tĩnh ngồi đọc lại Quốc âm thi tập không?)</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(5) Chúng tôi đành theo bản dịch để hiểu chữ thủ phủ như nghĩa trên vì trên nguyên văn ở tập IV của Nxb. Khoa học Xã hội in chụp lại thì trang 67ab có vấn đề trên lại là trang 69ab. Không đủ thì giờ để biết trang 67ab chạy đi đâu!</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(6) Ðàm Thị Uyên, "Tầng lớp Thổ ti của người Tày ở Cao Bằng đầu thế kỉ XX", trong Nghiên cứu Lịch sử số 4(360) 2006, 35-45. Từ trong bài này có thể hình dung ra sự phân biệt đại thủ lĩnh và tiểu thủ lĩnh đề cập trong Toàn thư. Cũng có thể thấy dấu vết thổ ti trong hồ sơ của những người này nổi lên vào thời kì Pháp bình định miền thượng du cuối thế kỉ XIX, ở đó, ví dụ có Nùng Hồng Tân (cháu xa Nùng Trí Cao, cháu nội Nùng Văn Vân), tri phủ Tương Uyên (Cao Bằng) "dòng dõi các thổ ti cai quản châu Bảo Lạc ít nhất là từ thế kỉ XI". [Emmanuel Poisson, Quan và lại ở Miền Bắc Việt Nam, một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918), bản dịch của Ðào Hùng và Nguyễn Văn Sự, Nxb. Ðà Nẵng 2006, 194, 195.]</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(7) Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nxb. Thuận Hoá 2006, trang 90: "Ðổi chức Ðại thủ lĩnh làm Thứ sử."</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(8) Lê triều chiếu lịnh thiện chính, Nguyễn Sĩ Giác phiên âm và dịch nghĩa, Vũ Văn Mẫu đề tựa, Nhà in Bình Minh Sài Gòn 1961, trang 91, 223.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(9) Ngày 26-4-2007 vừa qua là lần đầu cử hành lễ Quốc tổ Hùng Vương (10 tháng 3 âm lịch), từ nay được coi là quốc lễ của CHXHCN VN. Như vậy Việt Nam là nước độc nhất trên thế giới có Quốc tổ như có người đã hãnh diện, hơn cả Trung Hoa. Cuộc vận động chính trị đưa đến kết quả này mang tính thông lệ thường thấy của Ðảng cầm quyền: Ðề nghị của một tổ chức công quyền nhưng có dáng quần chúng (Thương binh Xã hội) chuyển qua sự chấp thuận của cơ quan lập pháp và được hành pháp thi hành, thật là dân chủ, thật hợp "ý dân". Mục đích chính trị là siết chặt thêm tính chất thống nhất đất nước nhưng về mặt kiến thức khoa học thì đó là sự tối tăm trên cấp bực cao nhất của quốc gia. Ngay cả về mặt "đoàn kết" thì vẫn còn sơ hở: Ðó là việc buộc 53 dân tộc thiểu số phải công nhận "Quốc tổ" của duy chỉ một nhóm đa số Việt Kinh hiện nay, làm của mình, trái với tinh thần văn minh đại đoàn kết thường hô hào. Trong thực hiện, việc chia "lộc Tổ" từ đền Hùng Vĩnh Phú lại là biểu hiện của quan niệm cai trị từ chốn đình trung của các Ông-làng-mới mở ra đến toàn quốc, ứng hợp với lí thuyết của học giả nhà nước về tương quan làng nước của xã hội Việt Kinh. Nó cũng là một thử thách không cần thiết về sự tuân phục của các cơ quan truyền thông, các trí thức chuyên ngành. (Mà có đưa ra hỏi ý kiến cũng "trật chìa": Ông Trần Văn Khê chỉ giỏi về cầm trống chầu hay kéo đờn cò dù có Tiến sĩ Tây, dù được giải thưởng quốc tế, nhưng biết gì về Hùng Vương mà phỏng với vấn?) Tuy nhiên cũng vì sự ồ ạt nhiệt thành trong lúc thiếu kiến thức đã khiến phát sinh một vài sơ hở nhỏ: Có độc giả phàn nàn với báo Tuổi Trẻ là trong ngày Giỗ Tổ, đền Hùng trong Sở Thú Tp. Hồ Chí Minh lại đóng cửa khiến họ không vào chiêm bái Tổ được. Họ không biết rằng nơi đó vốn là đền kỉ niệm lính An Nam chết trong trận Âu chiến / Thế chiến I, kỉ niệm những con Rồng không có bạc phun để đánh đổ Ðức tặc nên phải mang thân ra chiến trường thí mạng cho Mẫu quốc! Cũng nên nói ra để rủi có một ngày 10-3 đẹp trời nào đó, chức quyền trung ương muốn tỏ tình đoàn kết kéo nhau vào Nam giỗ Tổ, họ khỏi lạy các ông đội, ông ách, lầm người, tội nghiệp. Thế mà, theo Tin trong nước, người ta bắt đầu tính chuyện lập hồ sơ xin UNESCO công nhận Ðền Hùng là Di sản văn hoá Thế giới. Hình như các nhân vật trong nước không sống ở thế kỉ XXI?</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(10) Về phương hướng xác định hai vùng Mạc Trịnh Lê thì xem Toàn thư: "(1564) Lộ Sơn Nam từ sông Cái về phía tây, đất đai và nhân dân các huyện đều thuộc về triều đình (Lê Trịnh)"; năm 1576, tướng Mạc, Nguyễn Quyện, thắng Trịnh Lê, "các tướng hùng, giỏi cả miền phía đông sông (Cái) đều cho là mình không bằng." Về bằng chứng danh xưng khu vực quản trị đương thời, xem Phan Huy Chú, sđd, 57: "Ðến thời Mạc... [t]ừ phủ Trường Yên trở ra phía ngoài gọi là Ðông Việt, trở vào phía trong gọi là Tây Việt. Từ Trung hưng trở về sau cũng gọi theo thế..." Cũng có thể đọc bia "Tây Việt Quốc thái Phu nhân Nguyễn thị chi mộ" ở xã Bố vệ, huyện Ðông Sơn, Thanh Hoá. Bia không niên đại nhưng cho biết người chết sinh năm Tân mùi, chết năm Bính tí, thọ 66 tuồi, đúng là các năm 1511 và 1576, và còn là mẹ của "đương kim Thánh mẫu Tuyên từ Nhân ý Hoàng thái hậu", nghĩa là có thể làm mẹ vợ của Lê Thế Tông (ở ngôi từ 1573). Lại còn tấm bia đào ở chợ Thanh ngày 5-1-1940: "Tây Việt nhập nội Tư mã... thiêm tri chính sự Á hầu họ Nguyễn, huý Lỗ... cũng người xã Bố Vệ, huyện Ðông Sơn, lộ Thanh Hoá." Á hầu là ngang bậc với Nguyễn Trãi trước kia. Người này sinh năm Ất tị, mất năm Quý mão, có thể là 1485 và 1543, vừa vặn trong biến chuyển và hợp với tuổi thọ bình thường của đương thời. (Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1993, 761-762, 772.) Vì thế qua các dấu vết này, ta thấy rằng quan niệm thông thường cho rằng "sử gọi phân tranh Lê Mạc là của Nam-Bắc triều", là không có căn cứ. Chắc các sử gia trong nước bây giờ đã theo quan điểm định hướng mới học của Tây phương (hình như bắt đầu là Trần Trọng Kim với An Nam sử lược 1920 còn thấy trong các ấn bản gần đây) chứ với quan điểm của các vương triều ở Thăng Long đương thời thì Thanh Hoá, Nghệ An... là ở phía tây, cho nên mới có Tây Ðô, và một trong 5 Ðạo của Ðại Việt trước Thánh Tông, là Hải Tây Ðạo bao gồm Thanh Nghệ, vì vậy trong thế phân tranh Trịnh Lê và Mạc người ta chỉ dùng tên Ðông Việt, Tây Việt, còn sử quan thì coi Mạc là "nhuận triều", không thể cho phép đương cự chính thống với "chính triều" Lê được. Ngay cả với phân tranh Trịnh Nguyễn, gọi "Nam, Bắc triều" cũng là phát xuất từ Ðàng Trong (Nguyễn Khoa Chiêm, Nam triều công nghiệp diễn chí, 1719) chứ Trịnh vẫn cho Nguyễn là phản thần li khai.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(11) Xem Văn khắc Hán Nôm... đã dẫn, tìm nơi các mục Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền để dò ra nội dung các bia, và suy nghĩ.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">(12) Ngô Thời Chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô Tất Tố dịch, Tự Do tái bản, Sài Gòn 1958, 50, 51, 76.</span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="truong_minh553, post: 73589, member: 75809"] [B][I][FONT=Verdana][COLOR=black]Chú dẫn[/COLOR][/FONT][/I][/B][B][I][FONT=Tahoma][/FONT][/I][/B] [FONT=Verdana][COLOR=black]* Trừ những chú dẫn riêng dưới đây, các chứng cớ đều lấy ở bản dịch 1993 Ðại Việt sử kí toàn thư của Nxb. Khoa học Xã hội. Và riêng của chúng tôi là "Những người ‘xuống đồng’ trước nhóm Mường Thái Lam Sơn" trong Hợp Lưu số 94, tháng 4&5/2007, 42-61. Nhân tiện cũng xin xoá phần sai lầm của chúng tôi ở tạp chí này, trong phân đoạn cuối trang 45: "ví dụ... này cả."[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](1) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, 1992, tập I, Dư địa chí, trang 50, Nhân vật chí, trang 325.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](2) Phan gia công phả ố Gia Thiện, Hà Tĩnh, Nguyễn Ngọc Nhuận dịch và chú giải, Phan Huy Lê hiệu đính, Nxb. Thế Giới, Hà Nội 2006, trang 13, chú số 3. Lời xác nhận "Trong số các họ nước ta, họ Phan là một trong những dòng họ có từ lâu đời", căn cứ theo chú dẫn 1, cùng trang: "Ðời vua Hùng có ông Phan Tây Nhạc quê gốc Hà Trung, châu Ái... là bộ tướng của Tản Viên Sơn Thánh, con rể của Hùng Duệ Vương..." cho thấy dịch giả đã đi quá xa tinh thần khoa học cần phải có. Tuy nhiên điều này hình như đã trở thành bình thường bây giờ, trong nước. Riêng với chúng tôi, thông tin này về nguồn gốc xa đời của họ Phan lại thêm một lần chứng thực giả thuyết của chúng tôi về phần lớn họ Phan (không phải tất cả) là gốc từ cách nhìn theo hướng cấp độ văn minh của Trung Hoa: tộc Phiên, phía tây. Theo chỉ dẫn của gia phả, có thể tóm lược đại khái tiến triển của dòng họ Phan này như sau:[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Lần xa đời nhất được biết là họ này sinh sống trong vùng được gọi là vùng Trại thấp kém đối với vùng Kinh văn minh hơn, và ông tổ được các triều đại Lí, Trần coi là hay phong cho chức Thủ lĩnh của tập họp dân dưới quyền, tập họp những Phiên dân ở phía tây. Một thủ lĩnh như thế, với những đời xa hơn về trước, có thể kiêm nhiệm vai trò thế tục và siêu nhiên ố như ông vua Hùng của Ðại Việt sử lược, nhưng với áp lực lấn lướt từ Thăng Long, ví dụ qua ông Lí Hoảng của Lí, ông Trần Nhật Duật, Trần Quốc Khang của Trần thì vai trò ông trại chủ quyền uy sinh sát sẽ biến mất chỉ còn lại ông thầy mo (như người ông của Lê Lợi) ê a bùa chú, nhảy múa theo nhịp gõ, kèn thổi. Con cháu tuy "làm ruộng" nhưng nhờ truyền thống đó thành "am tường âm nhạc" (lời Gia phả), và thế là dễ dàng nhập vào vai trò của một ông Trùm Giáo phường sinh hoạt trong các cuộc tế lễ thần thánh dưới triều Lê sơ. Với sự nổi dậy của nhóm Trịnh Lê trung hưng, một ông tổ dòng này, chắc không còn được gọi bằng tên "phiên" phiếm chỉ nữa mà đã mang họ Phan thực thụ (xem chứng cớ ở Lê Quý Ðôn về họ Phan của nhóm người Sách Quảng Bình), và gia nhập toán chống Mạc ngay từ lúc khởi thuỷ nên theo thời gian làm quan võ, kết thông gia với họ Trịnh, thoát được vị thế "xướng ca vô loài", cho con học hành đỗ Tiến sĩ 1754 (Phan Huy Cận 1722-1789) rồi cứ thế mà thênh thang trong một giai đoạn mới của dòng họ, đổi chữ lót "văn" quê mùa đồng loạt, đồng dạng với mọi người khác, qua chữ "huy" của những người nổi danh toàn đất nước: Phan Huy Ích, Phan Huy Chú... kể cả ông Phan Huy Quát xấu số làm Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, tù nhân cải tạo, và ông sử gia Phan Huy Lê ngày nay...[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](3) Phan Huy Lê và Phan Ðại Doãn trong Khởi nghĩa Lam Sơn (Nxb. Khoa học Xã hội 1977, 120-122, 139, 148) tuy có nói đến "sự đóng góp tích cực của đồng bào các dân tộc Mường, Thái" nhưng Lê Lợi được coi là "địa chủ" (yêu nước), một "hào trưởng / quân trưởng một phương" chứ không phải là con cháu một ông Thầy mo ("sư công"), liên hệ với tộc Thái nhiều đến mức con cháu khấn trong lễ gia tiên phải thêm lời tiếng Lào như Phạm Ðình Hổ cho biết (Vũ trung tùy bút, bản dịch, Nxb. Văn hoá 1972, 172.) Thật cũng dễ hiểu. Khi các tác giả đã đặt tên sách đầy tính phấn khích của thời đại như trên thì vấn đề "Lê Lợi là một tù trưởng người Mường" phải "cần nghiên cứu và xác minh thêm..." cũng là lẽ đương nhiên. "Nguyên tắc" về dân tộc đã được đặt ra kênh kiệu như thế thì "không thể nhường", như sự kiên định chính trị của thời đại đã cho thấy, cho nên đến thế kỉ XXI, dù đất Lam Sơn được coi là nơi "tập họp và đoàn kết nhiều tộc người... như Mường (kể tên làm chứng cứ...), Thái (kể tên...) hoặc Tày..." nhưng Lê Lợi vẫn là "một hào trưởng [người Kinh] thuộc giai tầng xã hội mới (địa chủ bình dân [?!])có uy tín..." (Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, Nxb. Giáo dục 2003, 112). Ðây là sách soạn theo chương trình của Ðại học Quốc gia Hà Nội, theo Lời giới thiệu, có ý định "đáp ứng phần nào" tình hình "các bộ thông sử Việt Nam đã quá lâu chưa được sửa chữa, bổ sung." Ở Ðại học là thế thì học sinh Trung học cũng không thể được hiểu khác. Lê Lợi "có ông tổ ba đời... tổ chức khẩn hoang lập nên một trang trại... từ đó đời đời làm quân trưởng một phương." (Trương Hữu Quýnh chủ biên, Ðại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, H. 2000, 283, dưới tiểu mục đáng chú ý về Nguyễn Trãi như chúng tôi lưu ý dưới đây: "Lê Lợi, Nguyễn Trãi, hội thề Lũng Nhai và công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa.")[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Tin tưởng vững vàng như thế tất nhiên ảnh hưởng đến cả học giả phương Tây vốn thường mang tính xét nét khó khăn hơn. Chứng cớ hơi cũ, nhưng ông Giám đốc Danh dự Trường Viễn Ðông Bác Cổ, G. Coedès, cũng đã viết: Lê Lợi, vị đại anh hùng của lịch sử Việt Nam, là "chef d’une famille paysanne de Thanh Hoá" (Les peuples de la péninsule indochinoise, Dunod, Paris 1962, pp. 193, 194.)[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](4) Phan Huy Chú, sđd, I, trang 457, 458, 466, 467. Trong chiến tranh chống Minh, danh xưng tổ chức còn thấy trong việc Lê Lợi phong Phạm Văn Xảo làm Khu mật đại sứ (chuyện 1426), phong Nguyễn Trãi làm Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự (1427). Ðây là lần xuất hiện đầu tiên của Nguyễn Trãi trong Toàn thư, lí do của việc phong chức hẳn là để Lê Lợi sử dụng trong việc trao đổi thư từ với Vương Thông đang bị vây trong thành Ðông Ðô. Nguyễn Trãi tuy có mặt từ đầu nhưng vai trò của văn quan chỉ cần thiết khi đã có đất đai, có thế lực để trao đổi lời lẽ nên dấu vết dồi dào còn lại trong Quân trung từ mệnh tập chỉ là khoảng 1424 trở đi. [I]Toàn thư cũng chỉ nói nhiều đến Nguyễn Trãi trong thời bình và giữa những nhân vật khác cho đến khi bị tru di. [/I]Khi triều đình Lê ban biểu ngạch công thần sau chiến thắng (tháng 5âl. 1429) cho 93 người, Nguyễn Trãi chỉ đứng vào hạng 6/9 mà thôi. Ðây không phải là sự kì thị, vì hành động có tính cách chiến lược khiến cho quân Lam Sơn phá vỡ vòng vây, tiến lên đà tấn công (1424) là của Nguyễn Chích (công thần bậc 4/9), gián tiếp cũng là mở đường thi thố tài năng văn từ cho Nguyễn Trãi. Việc đề cao Nguyễn Trãi như người thứ hai sau Lê Lợi trong cuộc chống Minh chỉ là cách nhìn của sử gia ngày nay, những người văn-nhảy-qua-sử, bị ám ảnh với Cáo bình Ngô rổn rảng (mà không liếc tới các Biểu trần tình tạ tội với Minh) hợp với tinh thần dân tộc chủ nghĩa dâng cao trong cuộc chiến vừa qua. Và cũng vì thế giới cần thêm một nhân vật của Việt Nam trong tập họp văn hoá của nhân loại. (Có ai bình tĩnh ngồi đọc lại Quốc âm thi tập không?)[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](5) Chúng tôi đành theo bản dịch để hiểu chữ thủ phủ như nghĩa trên vì trên nguyên văn ở tập IV của Nxb. Khoa học Xã hội in chụp lại thì trang 67ab có vấn đề trên lại là trang 69ab. Không đủ thì giờ để biết trang 67ab chạy đi đâu![/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](6) Ðàm Thị Uyên, "Tầng lớp Thổ ti của người Tày ở Cao Bằng đầu thế kỉ XX", trong Nghiên cứu Lịch sử số 4(360) 2006, 35-45. Từ trong bài này có thể hình dung ra sự phân biệt đại thủ lĩnh và tiểu thủ lĩnh đề cập trong Toàn thư. Cũng có thể thấy dấu vết thổ ti trong hồ sơ của những người này nổi lên vào thời kì Pháp bình định miền thượng du cuối thế kỉ XIX, ở đó, ví dụ có Nùng Hồng Tân (cháu xa Nùng Trí Cao, cháu nội Nùng Văn Vân), tri phủ Tương Uyên (Cao Bằng) "dòng dõi các thổ ti cai quản châu Bảo Lạc ít nhất là từ thế kỉ XI". [Emmanuel Poisson, Quan và lại ở Miền Bắc Việt Nam, một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918), bản dịch của Ðào Hùng và Nguyễn Văn Sự, Nxb. Ðà Nẵng 2006, 194, 195.][/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](7) Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nxb. Thuận Hoá 2006, trang 90: "Ðổi chức Ðại thủ lĩnh làm Thứ sử."[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](8) Lê triều chiếu lịnh thiện chính, Nguyễn Sĩ Giác phiên âm và dịch nghĩa, Vũ Văn Mẫu đề tựa, Nhà in Bình Minh Sài Gòn 1961, trang 91, 223.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](9) Ngày 26-4-2007 vừa qua là lần đầu cử hành lễ Quốc tổ Hùng Vương (10 tháng 3 âm lịch), từ nay được coi là quốc lễ của CHXHCN VN. Như vậy Việt Nam là nước độc nhất trên thế giới có Quốc tổ như có người đã hãnh diện, hơn cả Trung Hoa. Cuộc vận động chính trị đưa đến kết quả này mang tính thông lệ thường thấy của Ðảng cầm quyền: Ðề nghị của một tổ chức công quyền nhưng có dáng quần chúng (Thương binh Xã hội) chuyển qua sự chấp thuận của cơ quan lập pháp và được hành pháp thi hành, thật là dân chủ, thật hợp "ý dân". Mục đích chính trị là siết chặt thêm tính chất thống nhất đất nước nhưng về mặt kiến thức khoa học thì đó là sự tối tăm trên cấp bực cao nhất của quốc gia. Ngay cả về mặt "đoàn kết" thì vẫn còn sơ hở: Ðó là việc buộc 53 dân tộc thiểu số phải công nhận "Quốc tổ" của duy chỉ một nhóm đa số Việt Kinh hiện nay, làm của mình, trái với tinh thần văn minh đại đoàn kết thường hô hào. Trong thực hiện, việc chia "lộc Tổ" từ đền Hùng Vĩnh Phú lại là biểu hiện của quan niệm cai trị từ chốn đình trung của các Ông-làng-mới mở ra đến toàn quốc, ứng hợp với lí thuyết của học giả nhà nước về tương quan làng nước của xã hội Việt Kinh. Nó cũng là một thử thách không cần thiết về sự tuân phục của các cơ quan truyền thông, các trí thức chuyên ngành. (Mà có đưa ra hỏi ý kiến cũng "trật chìa": Ông Trần Văn Khê chỉ giỏi về cầm trống chầu hay kéo đờn cò dù có Tiến sĩ Tây, dù được giải thưởng quốc tế, nhưng biết gì về Hùng Vương mà phỏng với vấn?) Tuy nhiên cũng vì sự ồ ạt nhiệt thành trong lúc thiếu kiến thức đã khiến phát sinh một vài sơ hở nhỏ: Có độc giả phàn nàn với báo Tuổi Trẻ là trong ngày Giỗ Tổ, đền Hùng trong Sở Thú Tp. Hồ Chí Minh lại đóng cửa khiến họ không vào chiêm bái Tổ được. Họ không biết rằng nơi đó vốn là đền kỉ niệm lính An Nam chết trong trận Âu chiến / Thế chiến I, kỉ niệm những con Rồng không có bạc phun để đánh đổ Ðức tặc nên phải mang thân ra chiến trường thí mạng cho Mẫu quốc! Cũng nên nói ra để rủi có một ngày 10-3 đẹp trời nào đó, chức quyền trung ương muốn tỏ tình đoàn kết kéo nhau vào Nam giỗ Tổ, họ khỏi lạy các ông đội, ông ách, lầm người, tội nghiệp. Thế mà, theo Tin trong nước, người ta bắt đầu tính chuyện lập hồ sơ xin UNESCO công nhận Ðền Hùng là Di sản văn hoá Thế giới. Hình như các nhân vật trong nước không sống ở thế kỉ XXI?[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](10) Về phương hướng xác định hai vùng Mạc Trịnh Lê thì xem Toàn thư: "(1564) Lộ Sơn Nam từ sông Cái về phía tây, đất đai và nhân dân các huyện đều thuộc về triều đình (Lê Trịnh)"; năm 1576, tướng Mạc, Nguyễn Quyện, thắng Trịnh Lê, "các tướng hùng, giỏi cả miền phía đông sông (Cái) đều cho là mình không bằng." Về bằng chứng danh xưng khu vực quản trị đương thời, xem Phan Huy Chú, sđd, 57: "Ðến thời Mạc... [t]ừ phủ Trường Yên trở ra phía ngoài gọi là Ðông Việt, trở vào phía trong gọi là Tây Việt. Từ Trung hưng trở về sau cũng gọi theo thế..." Cũng có thể đọc bia "Tây Việt Quốc thái Phu nhân Nguyễn thị chi mộ" ở xã Bố vệ, huyện Ðông Sơn, Thanh Hoá. Bia không niên đại nhưng cho biết người chết sinh năm Tân mùi, chết năm Bính tí, thọ 66 tuồi, đúng là các năm 1511 và 1576, và còn là mẹ của "đương kim Thánh mẫu Tuyên từ Nhân ý Hoàng thái hậu", nghĩa là có thể làm mẹ vợ của Lê Thế Tông (ở ngôi từ 1573). Lại còn tấm bia đào ở chợ Thanh ngày 5-1-1940: "Tây Việt nhập nội Tư mã... thiêm tri chính sự Á hầu họ Nguyễn, huý Lỗ... cũng người xã Bố Vệ, huyện Ðông Sơn, lộ Thanh Hoá." Á hầu là ngang bậc với Nguyễn Trãi trước kia. Người này sinh năm Ất tị, mất năm Quý mão, có thể là 1485 và 1543, vừa vặn trong biến chuyển và hợp với tuổi thọ bình thường của đương thời. (Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H. 1993, 761-762, 772.) Vì thế qua các dấu vết này, ta thấy rằng quan niệm thông thường cho rằng "sử gọi phân tranh Lê Mạc là của Nam-Bắc triều", là không có căn cứ. Chắc các sử gia trong nước bây giờ đã theo quan điểm định hướng mới học của Tây phương (hình như bắt đầu là Trần Trọng Kim với An Nam sử lược 1920 còn thấy trong các ấn bản gần đây) chứ với quan điểm của các vương triều ở Thăng Long đương thời thì Thanh Hoá, Nghệ An... là ở phía tây, cho nên mới có Tây Ðô, và một trong 5 Ðạo của Ðại Việt trước Thánh Tông, là Hải Tây Ðạo bao gồm Thanh Nghệ, vì vậy trong thế phân tranh Trịnh Lê và Mạc người ta chỉ dùng tên Ðông Việt, Tây Việt, còn sử quan thì coi Mạc là "nhuận triều", không thể cho phép đương cự chính thống với "chính triều" Lê được. Ngay cả với phân tranh Trịnh Nguyễn, gọi "Nam, Bắc triều" cũng là phát xuất từ Ðàng Trong (Nguyễn Khoa Chiêm, Nam triều công nghiệp diễn chí, 1719) chứ Trịnh vẫn cho Nguyễn là phản thần li khai.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](11) Xem Văn khắc Hán Nôm... đã dẫn, tìm nơi các mục Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền để dò ra nội dung các bia, và suy nghĩ.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black](12) Ngô Thời Chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô Tất Tố dịch, Tự Do tái bản, Sài Gòn 1958, 50, 51, 76.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Quản lĩnh và thủ lĩnh?
Top