Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Quản lĩnh và thủ lĩnh?
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="truong_minh553" data-source="post: 73588" data-attributes="member: 75809"><p><strong><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Chế độ Thủ lĩnh: hoán vị và thay đổi hình dạng</span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Chế độ Thủ lĩnh như một nhu cầu "thân thuộc mở rộng" để củng cố triều đại gốc thiểu số của Lê lại đứng trước một mâu thuẫn đe doạ sự tồn tại của nó ngay từ sự phát triển của tập họp người cần đến nó. Kéo người của bản làng thân thuộc đi đánh giặc, Lê đã bỏ trống vùng căn bản để cho kẻ khác đến chiếm nên vừa thắng trận, Lê Lợi phải "hạ lệnh cho con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu trở về nhận ruộng đất ở quê cũ để chấm dứt nạn tranh chiếm ruộng đất." Ngay cả khi lấy được nước, nhóm Lê cũng không đủ người cai trị nên các lệnh gọi là "tiến cử người hiền, giỏi" rõ ràng đã không làm thay đổi tình trạng chiếm hữu có sẵn. Các "nguỵ quan" theo Minh lúc đầu không bị tịch thu ruộng đất (tháng 4âl. 1429), và các nhóm lớn như Lương Nhữ Hốt vẫn còn ở yên một thời gian. Những người hàng Minh như Ðào Mạnh Cung, Nguyễn Doãn Cung, còn làm quan xử kiện dưới đời Thái Tổ, đến 1437 vì người mới cần chỗ chen vào nên bị moi ra, bãi chức. Và thế là người thắng trận chợt nhận ra tình trạng "người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước, một tấc đất, còn những kẻ du thủ du thực lại có quá thừa ruộng đất..." Các lệnh ban cấp ruộng đất theo chức tước của triều đại mới rõ là để tước đoạt của các chủ cũ, thay đổi tình trạng cô lập của nhóm Lam Sơn trên đất trung châu. Ngay cả trên đất căn bản, nhóm Lam Sơn cũng phải chịu áp lực xô đẩy của các tập nhóm khác cứ tiến theo triền sông mà đi về phía đông. Chứng cớ là sự thù hằn của nhóm Thái Phạm Vấn "cùng làng" với nhóm Mường Lê Ngân kéo dài đến khi Lê thắng, Ngân lấn lướt lên mà Ðại tư đồ Lê Sát còn e dè: "Sau này lỡ ta hết quyền thế..." Triều đình phải lấy quyền lực để chia đất công ở Lam Sơn cho bà con vì "các thế gia hay làm trái phép... chiếm đoạt đất đai làm của riêng khiến cho công chúa không có tấc đất cắm dùi..." (Lệnh tháng 3âl. 1466).</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Xuống đồng, thấy cô lập, Lê "ban quốc tính" cho gần như tất cả những kẻ theo mình từ đầu tuy họ cũng cần phải chém, phải bỏ tù vài ông "Lê mới". Thế là đám trung châu phản ứng theo cách khác. Họ viện dẫn ngay theo nền đạo đức trị nước mà chính Lê phải theo, để củng cố cho lập luận của mình. Tháng 5âl. 1467, Lễ bộ Thượng thư Phạm Công Nghị xin bỏ lệ theo quốc tính, vì không phải họ vua mà lấy họ vua là "bất kính" (nịnh để dọn đường cho lí lẽ tiếp theo!), và bỏ họ gốc là "bất hiếu". Giữa tình thế đó thì Lê cố tình giữ gốc nhưng càng lúc càng bị lôi xa rời đất gốc. Vua Lê vẫn về thăm lăng tẩm quê quán nội ngoại ở Lam Kinh một tên đặt cho ngang hành với nơi họ thường xuyên có mặt, nhưng sự thu hút văn minh của Ðông Kinh cùng với tập đoàn đông đúc tại chỗ đó khiến "ý thức" Lam Kinh dần dần thất thế. Tướng lãnh Lam Sơn đứng trước mâu thuẫn của nơi cỗi gốc và chốn cai trị nên thật lúng túng trong cách hành xử. Ðại tư đồ Lê Sát muốn giết người (cho gọn!) thì thấy lí lẽ mình có lúc thắng thế như trường hợp giết người mà vẫn có mưa (khác với lời tâu của ngôn quan Nho), có lúc lại chịu nhũn hờn dỗi bảo Nguyễn Trãi lấy "Ðức" cảm hoá kẻ tội đồ. Thế rồi ông quyền thần tuy ráng tìm cách hợp thời thế, lấy vợ lẽ mang họ Trần nhưng vẫn bị khép tội chết, và lời tâu cuối cùng "Nay khép cho tội chuyên quyền, thế là tội của thần do Tiên đế mà có cả" chính là lời thú nhận đầu tiên về sự lui bước của nhóm Lam Sơn trong thời đại mới.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Ngay đến các ông vua cũng phải thay đổi. Thái Tông còn cầm cung bắn chim nhưng Thánh Tông lại thấy mình đủ sức chê danh nho Trung Hoa. Rồi các ông vua không chỉ lấy vợ gốc Lam Sơn nữa mà còn có vợ gốc Ðông Kinh khiến cho dòng dõi về sau lại coi mình là người của quê quán mới. Uy Mục (1505-1509) có mẹ người Kinh Bắc, lấy thêm hai vợ gốc Trần, "xua đuổi người tông thất và công thần về xứ Thanh Hoá... giết các nữ sử, nội thần người Chiêm." Việc giết người Chiêm tiếp theo nữa là dấu vết trừ khử tay chân Lam Sơn, phủ nhận gốc gác về hướng khác bởi vì đám dân khác lạ kia chính là tù binh tưởng thưởng cho tướng tá cũ. Sự đề phòng không phải là vô lí vì nhân vật chính cầm quân lật đổ Uy Mục là Nguyễn Văn Lang, em vợ Thánh Tông, có tướng Chàm là Chế Mạn. Tương Dực (1510-1516), người kế nghiệp lại cũng mon men vợ của ông trước, cũng có vợ người Ðông Kinh như đã thấy. Nhưng đến lúc này thì thế phân tranh đã phức tạp hơn, người họ Trần nổi lên (Trần Tuân 1511, Trần Cảo 1516, người được sử quan nhắc nhở là mang tên nạn nhân của ông tổ họ Lê xưa, có thêm một tướng tài, cũng người Chiêm), rối loạn mang đến sự đổi thay triều đại chuyển về dân trung châu, gây sự đối đầu kéo dài ra nhiều thế kỉ.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Cho nên "Lệnh chọn chức Thủ lĩnh" năm 1498 là dấu vết gượng gạo để củng cố một thể chế đã đến lúc suy tàn. Sự rành mạch trong tên gọi chức phận, sự xác định riêng biệt một tổ chức trong một văn thư rất dài chứng tỏ Hiến Tông coi đó là vấn đề quan trọng. Tuy nhiên đã thấy có sự khủng hoảng nên phải kêu gọi đến biện pháp củng cố: "Nay những người ở chức ấy, không biết thấy người hay thì lo theo kịp, lại đi bắt chước kẻ dở, dung túng che giấu cho nhau, lâu ngày quen nết. Thậm chí hùa nhau làm trò nhơ nhuốc, mặt dày nịnh bợ, quỳ gối chui luồn, nuôi chứa lòng gian, gây mối tệ hại không sao kể xiết khiến không sao phân biệt kẻ hay người dở để khuyến khích hoặc răn trừng..." Ðã có chê trách thì muốn bồi đắp phải kể tên những người gương mẫu khiến cho lần đầu tiên và là lần độc nhất, ta thấy được một hình dạng cụ thể của thủ lĩnh: Vũ Phục Long, Phạm Như Ðịa, Vũ Thế Hảo.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Nhưng đến lúc này thì thủ lĩnh chỉ còn đợi ngày tàn tạ mà thôi. Cho nên đến triều đại Mạc về sau, khi vắng mặt tập thể bênh vực, nó chỉ còn là dư âm trong tổ chức quân đội của triều mới (1528): "Mỗi vệ đặt một viên thư kí, dùng hạng kí lục xuất thân khi trước, như là bổ các chức thủ lĩnh chăn dân." Một câu nói hờ hững của văn từ, giống như một vướng víu bất đắc dĩ của Mạc đối với triều đại họ đã lật đổ. Và Phan Huy Chú không biết tới nó.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Thế nhưng vấn đề vẫn không dừng lại ở đó mà lại tiếp tục đi theo tình thế khác để mang dạng mới. Qua gần một thế kỉ cai trị, tộc Lê với những cải tạo bản thân đã buộc được nho sĩ trung châu công nhận tận trong tâm tưởng đến độ nối kết được hiện thực thời đại với quá khứ xa xưa. Nhân vật Hùng Vương mù mờ xa tít trên vùng trung du tây bắc, dù có điện thờ của địa phương từ lâu, vẫn bị các triều đại về trước coi như của một tập đoàn "man" mang xà-gạc đi rừng, không hề quan tâm tới, đến lúc này vì sự tương hợp của những dòng chữ đã ghi chép so với sinh hoạt của triều đại đương quyền, nhân vật đó được đem vào Quốc sử, làm ông Tổ của nước Ðại Việt không chỉ là đồng bằng, sông nước nữa.<em>(9) Cho nên sự tranh chấp giữa Lê Ðông Kinh và Lê Lam Kinh cuối thời Lê sơ lại là mở đầu cho một cuộc tranh chấp Vùng trầm trọng khác: tranh chấp giữa Lê Tây Việt và Mạc Ðông Việt (10) trong thế kỉ XVI.</em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black">Dòng Lê Trung hưng được sự yểm trợ của họ Trịnh (Kiểm) tuy còn có dáng "rừng núi" nhưng đã có quá khứ triều đại trung châu nên phạm vi thân thuộc cũng được mở rộng ra. Lê Lợi còn xưng Lam Sơn Ðộng chủ dè dặt nhỏ bé nhưng người con đã xưng Quế Lâm Ðộng chủ, mở rộng cả vùng "quế" Thanh Hoá trước khi Thánh Tông xưng là Thiên Nam Ðộng chủ bao trùm nước Việt. Với thời đầu trung hưng, tuy là mất đất vào tay họ Mạc để chỉ còn là Tây Việt nhưng Lê vẫn níu kéo vùng trung châu bằng cách để ông Ðông các đại học sĩ Nguyễn Bính vẽ vời (1572) thật nhiều thần tích phía Bắc, xếp các nhân vật lịch sử có thật (Hai Bà Trưng) hoặc tưởng tượng, gộp vào với ông Hùng-Vương-tổ-Lê. Ước vọng chỉ mới trên văn bản này, vào giai đoạn thành công lại làm căn bản cho ông "thủ từ" đền Hùng Nguyễn Hiền (1736) đem vào bia đá, củng cố thêm ý thức Hùng-Vương-tổ-Ðại-Việt lan toả khắp nước về sau.</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"><em>(11) Dù vào lúc phải thất thế, Lê vẫn làm chủ vùng "quế" cũ.</em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"><em></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"><em></em>Cho nên Thanh Hoá, Nghệ An trở thành "thang mộc ấp" của Trịnh Lê vào giai đoạn giành được quyền bính trọn vẹn trong tay Mạc. Tấn tuồng cũ lại diễn ra, lần này rõ rệt hơn vì nằm trong sinh hoạt chính thống nên tổ chức được văn bản định hình, sử sách ghi chép, kể cả lộ liễu qua chứng kiến của người ngoại quốc. Lính Tam Phủ Thanh Nghệ được ưu đãi, mang tên Ưu binh không cần giấu diếm. Tình hình gây căng thẳng cả với chủ khi họ trở thành Kiêu binh. Xung đột biến thành tranh chấp địa phương khi các quan ở triều đình bị uy hiếp (Nguyễn Khản) muốn dựa vào quân của triều đình nhưng là gốc trung châu quanh Ðông Kinh, quân Tứ trấn, để chống lại. Xung đột trở thành mang tính quần chúng khi lính Thanh Nghệ thất thế lúc quân Tứ trấn tấn công, như lúc Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc: "Kiêu binh chạy ra các làng bị dân quê kể tội kiêu lộng ngày trước, không chứa chấp và làm nhục nhã đủ đường."</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="color: black"><em>(12) "Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần" là hồi chót của xung đột địa phương lớn trên đất Ðại Việt trong thời đại Lê Lam Sơn đứt nối nắm quyền hơn ba thế kỉ.</em></span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="truong_minh553, post: 73588, member: 75809"] [B][FONT=Verdana][COLOR=black]Chế độ Thủ lĩnh: hoán vị và thay đổi hình dạng[/COLOR][/FONT][/B][B][FONT=Tahoma][/FONT][/B] [FONT=Verdana][COLOR=black]Chế độ Thủ lĩnh như một nhu cầu "thân thuộc mở rộng" để củng cố triều đại gốc thiểu số của Lê lại đứng trước một mâu thuẫn đe doạ sự tồn tại của nó ngay từ sự phát triển của tập họp người cần đến nó. Kéo người của bản làng thân thuộc đi đánh giặc, Lê đã bỏ trống vùng căn bản để cho kẻ khác đến chiếm nên vừa thắng trận, Lê Lợi phải "hạ lệnh cho con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu trở về nhận ruộng đất ở quê cũ để chấm dứt nạn tranh chiếm ruộng đất." Ngay cả khi lấy được nước, nhóm Lê cũng không đủ người cai trị nên các lệnh gọi là "tiến cử người hiền, giỏi" rõ ràng đã không làm thay đổi tình trạng chiếm hữu có sẵn. Các "nguỵ quan" theo Minh lúc đầu không bị tịch thu ruộng đất (tháng 4âl. 1429), và các nhóm lớn như Lương Nhữ Hốt vẫn còn ở yên một thời gian. Những người hàng Minh như Ðào Mạnh Cung, Nguyễn Doãn Cung, còn làm quan xử kiện dưới đời Thái Tổ, đến 1437 vì người mới cần chỗ chen vào nên bị moi ra, bãi chức. Và thế là người thắng trận chợt nhận ra tình trạng "người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước, một tấc đất, còn những kẻ du thủ du thực lại có quá thừa ruộng đất..." Các lệnh ban cấp ruộng đất theo chức tước của triều đại mới rõ là để tước đoạt của các chủ cũ, thay đổi tình trạng cô lập của nhóm Lam Sơn trên đất trung châu. Ngay cả trên đất căn bản, nhóm Lam Sơn cũng phải chịu áp lực xô đẩy của các tập nhóm khác cứ tiến theo triền sông mà đi về phía đông. Chứng cớ là sự thù hằn của nhóm Thái Phạm Vấn "cùng làng" với nhóm Mường Lê Ngân kéo dài đến khi Lê thắng, Ngân lấn lướt lên mà Ðại tư đồ Lê Sát còn e dè: "Sau này lỡ ta hết quyền thế..." Triều đình phải lấy quyền lực để chia đất công ở Lam Sơn cho bà con vì "các thế gia hay làm trái phép... chiếm đoạt đất đai làm của riêng khiến cho công chúa không có tấc đất cắm dùi..." (Lệnh tháng 3âl. 1466).[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Xuống đồng, thấy cô lập, Lê "ban quốc tính" cho gần như tất cả những kẻ theo mình từ đầu tuy họ cũng cần phải chém, phải bỏ tù vài ông "Lê mới". Thế là đám trung châu phản ứng theo cách khác. Họ viện dẫn ngay theo nền đạo đức trị nước mà chính Lê phải theo, để củng cố cho lập luận của mình. Tháng 5âl. 1467, Lễ bộ Thượng thư Phạm Công Nghị xin bỏ lệ theo quốc tính, vì không phải họ vua mà lấy họ vua là "bất kính" (nịnh để dọn đường cho lí lẽ tiếp theo!), và bỏ họ gốc là "bất hiếu". Giữa tình thế đó thì Lê cố tình giữ gốc nhưng càng lúc càng bị lôi xa rời đất gốc. Vua Lê vẫn về thăm lăng tẩm quê quán nội ngoại ở Lam Kinh một tên đặt cho ngang hành với nơi họ thường xuyên có mặt, nhưng sự thu hút văn minh của Ðông Kinh cùng với tập đoàn đông đúc tại chỗ đó khiến "ý thức" Lam Kinh dần dần thất thế. Tướng lãnh Lam Sơn đứng trước mâu thuẫn của nơi cỗi gốc và chốn cai trị nên thật lúng túng trong cách hành xử. Ðại tư đồ Lê Sát muốn giết người (cho gọn!) thì thấy lí lẽ mình có lúc thắng thế như trường hợp giết người mà vẫn có mưa (khác với lời tâu của ngôn quan Nho), có lúc lại chịu nhũn hờn dỗi bảo Nguyễn Trãi lấy "Ðức" cảm hoá kẻ tội đồ. Thế rồi ông quyền thần tuy ráng tìm cách hợp thời thế, lấy vợ lẽ mang họ Trần nhưng vẫn bị khép tội chết, và lời tâu cuối cùng "Nay khép cho tội chuyên quyền, thế là tội của thần do Tiên đế mà có cả" chính là lời thú nhận đầu tiên về sự lui bước của nhóm Lam Sơn trong thời đại mới.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Ngay đến các ông vua cũng phải thay đổi. Thái Tông còn cầm cung bắn chim nhưng Thánh Tông lại thấy mình đủ sức chê danh nho Trung Hoa. Rồi các ông vua không chỉ lấy vợ gốc Lam Sơn nữa mà còn có vợ gốc Ðông Kinh khiến cho dòng dõi về sau lại coi mình là người của quê quán mới. Uy Mục (1505-1509) có mẹ người Kinh Bắc, lấy thêm hai vợ gốc Trần, "xua đuổi người tông thất và công thần về xứ Thanh Hoá... giết các nữ sử, nội thần người Chiêm." Việc giết người Chiêm tiếp theo nữa là dấu vết trừ khử tay chân Lam Sơn, phủ nhận gốc gác về hướng khác bởi vì đám dân khác lạ kia chính là tù binh tưởng thưởng cho tướng tá cũ. Sự đề phòng không phải là vô lí vì nhân vật chính cầm quân lật đổ Uy Mục là Nguyễn Văn Lang, em vợ Thánh Tông, có tướng Chàm là Chế Mạn. Tương Dực (1510-1516), người kế nghiệp lại cũng mon men vợ của ông trước, cũng có vợ người Ðông Kinh như đã thấy. Nhưng đến lúc này thì thế phân tranh đã phức tạp hơn, người họ Trần nổi lên (Trần Tuân 1511, Trần Cảo 1516, người được sử quan nhắc nhở là mang tên nạn nhân của ông tổ họ Lê xưa, có thêm một tướng tài, cũng người Chiêm), rối loạn mang đến sự đổi thay triều đại chuyển về dân trung châu, gây sự đối đầu kéo dài ra nhiều thế kỉ.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Cho nên "Lệnh chọn chức Thủ lĩnh" năm 1498 là dấu vết gượng gạo để củng cố một thể chế đã đến lúc suy tàn. Sự rành mạch trong tên gọi chức phận, sự xác định riêng biệt một tổ chức trong một văn thư rất dài chứng tỏ Hiến Tông coi đó là vấn đề quan trọng. Tuy nhiên đã thấy có sự khủng hoảng nên phải kêu gọi đến biện pháp củng cố: "Nay những người ở chức ấy, không biết thấy người hay thì lo theo kịp, lại đi bắt chước kẻ dở, dung túng che giấu cho nhau, lâu ngày quen nết. Thậm chí hùa nhau làm trò nhơ nhuốc, mặt dày nịnh bợ, quỳ gối chui luồn, nuôi chứa lòng gian, gây mối tệ hại không sao kể xiết khiến không sao phân biệt kẻ hay người dở để khuyến khích hoặc răn trừng..." Ðã có chê trách thì muốn bồi đắp phải kể tên những người gương mẫu khiến cho lần đầu tiên và là lần độc nhất, ta thấy được một hình dạng cụ thể của thủ lĩnh: Vũ Phục Long, Phạm Như Ðịa, Vũ Thế Hảo.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Nhưng đến lúc này thì thủ lĩnh chỉ còn đợi ngày tàn tạ mà thôi. Cho nên đến triều đại Mạc về sau, khi vắng mặt tập thể bênh vực, nó chỉ còn là dư âm trong tổ chức quân đội của triều mới (1528): "Mỗi vệ đặt một viên thư kí, dùng hạng kí lục xuất thân khi trước, như là bổ các chức thủ lĩnh chăn dân." Một câu nói hờ hững của văn từ, giống như một vướng víu bất đắc dĩ của Mạc đối với triều đại họ đã lật đổ. Và Phan Huy Chú không biết tới nó.[/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Thế nhưng vấn đề vẫn không dừng lại ở đó mà lại tiếp tục đi theo tình thế khác để mang dạng mới. Qua gần một thế kỉ cai trị, tộc Lê với những cải tạo bản thân đã buộc được nho sĩ trung châu công nhận tận trong tâm tưởng đến độ nối kết được hiện thực thời đại với quá khứ xa xưa. Nhân vật Hùng Vương mù mờ xa tít trên vùng trung du tây bắc, dù có điện thờ của địa phương từ lâu, vẫn bị các triều đại về trước coi như của một tập đoàn "man" mang xà-gạc đi rừng, không hề quan tâm tới, đến lúc này vì sự tương hợp của những dòng chữ đã ghi chép so với sinh hoạt của triều đại đương quyền, nhân vật đó được đem vào Quốc sử, làm ông Tổ của nước Ðại Việt không chỉ là đồng bằng, sông nước nữa.[I](9) Cho nên sự tranh chấp giữa Lê Ðông Kinh và Lê Lam Kinh cuối thời Lê sơ lại là mở đầu cho một cuộc tranh chấp Vùng trầm trọng khác: tranh chấp giữa Lê Tây Việt và Mạc Ðông Việt (10) trong thế kỉ XVI.[/I][/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [FONT=Verdana][COLOR=black]Dòng Lê Trung hưng được sự yểm trợ của họ Trịnh (Kiểm) tuy còn có dáng "rừng núi" nhưng đã có quá khứ triều đại trung châu nên phạm vi thân thuộc cũng được mở rộng ra. Lê Lợi còn xưng Lam Sơn Ðộng chủ dè dặt nhỏ bé nhưng người con đã xưng Quế Lâm Ðộng chủ, mở rộng cả vùng "quế" Thanh Hoá trước khi Thánh Tông xưng là Thiên Nam Ðộng chủ bao trùm nước Việt. Với thời đầu trung hưng, tuy là mất đất vào tay họ Mạc để chỉ còn là Tây Việt nhưng Lê vẫn níu kéo vùng trung châu bằng cách để ông Ðông các đại học sĩ Nguyễn Bính vẽ vời (1572) thật nhiều thần tích phía Bắc, xếp các nhân vật lịch sử có thật (Hai Bà Trưng) hoặc tưởng tượng, gộp vào với ông Hùng-Vương-tổ-Lê. Ước vọng chỉ mới trên văn bản này, vào giai đoạn thành công lại làm căn bản cho ông "thủ từ" đền Hùng Nguyễn Hiền (1736) đem vào bia đá, củng cố thêm ý thức Hùng-Vương-tổ-Ðại-Việt lan toả khắp nước về sau. [I](11) Dù vào lúc phải thất thế, Lê vẫn làm chủ vùng "quế" cũ. [/I]Cho nên Thanh Hoá, Nghệ An trở thành "thang mộc ấp" của Trịnh Lê vào giai đoạn giành được quyền bính trọn vẹn trong tay Mạc. Tấn tuồng cũ lại diễn ra, lần này rõ rệt hơn vì nằm trong sinh hoạt chính thống nên tổ chức được văn bản định hình, sử sách ghi chép, kể cả lộ liễu qua chứng kiến của người ngoại quốc. Lính Tam Phủ Thanh Nghệ được ưu đãi, mang tên Ưu binh không cần giấu diếm. Tình hình gây căng thẳng cả với chủ khi họ trở thành Kiêu binh. Xung đột biến thành tranh chấp địa phương khi các quan ở triều đình bị uy hiếp (Nguyễn Khản) muốn dựa vào quân của triều đình nhưng là gốc trung châu quanh Ðông Kinh, quân Tứ trấn, để chống lại. Xung đột trở thành mang tính quần chúng khi lính Thanh Nghệ thất thế lúc quân Tứ trấn tấn công, như lúc Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc: "Kiêu binh chạy ra các làng bị dân quê kể tội kiêu lộng ngày trước, không chứa chấp và làm nhục nhã đủ đường." [I](12) "Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần" là hồi chót của xung đột địa phương lớn trên đất Ðại Việt trong thời đại Lê Lam Sơn đứt nối nắm quyền hơn ba thế kỉ.[/I][/COLOR][/FONT][FONT=Tahoma][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Quản lĩnh và thủ lĩnh?
Top