Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Quan hệ Việt Nam và ASEAN
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 23944" data-attributes="member: 699"><p><strong>2. Mối quan hệ Việt Nam – ASEAN</strong></p><p></p><p>Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995 tại Bru-nây; và lần đầu tiên tham dự Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 và các Hội nghị liên quan (Bru-nây, 2-3/8/1995) với tư cách thành viên đầy đủ. Trước đó, tháng 7/1992, Việt Nam đã chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Ba-li) và trở thành quan sát viên của ASEAN. Từ năm 1993, Việt Nam đã tham gia các chương trình và dự án hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá-thông tin, phát triển xã hội. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những nước sáng lập Diễn đàn này.</p><p></p><p>Việc Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ tháng 7 năm 1995, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã bước sang một thời kì mới của hợp tác và phát triển. Việc Việt Nam tham gia ASEAN cũng đánh dấu sự phát triển quan trọng khác của khu vực: Quá trình ASEAN mở rộng bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á, cùng phấn đấu vì hoà bình và sự phồn vinh của khu vực.</p><p></p><p> Trong 13 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, góp phần quan trọng vào việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước; củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực có lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. </p><p></p><p> Những đóng góp cụ thể của Việt Nam có thể kể đến là: tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN-6 tại Hà Nội (12/1998), giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý tưởng một ASEAN-10; thông qua Chương trình Hành động Hà nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020. Từ tháng 7/2000 – 7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy ban Thường trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) và các Hội nghị liên quan. Các Bộ/ngành của Việt Nam cũng đăng cai nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng và cấp Quan chức cao cấp (SOM) về kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Việt Nam cũng đã đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Liên minh Nghị viện ASEAN (AIPO) tháng 9/2002... ”, tổ chức Hội nghị giữa các quốc gia ASEAN và EU (ASEM V) tại Hà Nội năm 2004,… Ngoài ra, Việt Nam còn có nhiều cống hiến trên các lĩnh vực khác nhằm thúc đẩy sự hợp tác chặc chẽ nhau về mọi mặt để Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển. Vai trò của Việt Nam luôn thể hiện: </p><p></p><p><strong>Là một nhân tố quan trọng trong khối ASEAN: </strong></p><p></p><p>Với sự tham gia của Việt Nam năm 1995 và tiếp sau đó là Lào, Campuchia, Mianma, Đôngtimo, ASEAN hiện nay là một hiệp hội gồm 11 nước với tổng diện tích 4.492.443km2 với gần 600 triệu dân, chiếm trên 14% dân số thế giới. Tuy sở hữu một thị trường rộng lớn với dân số có mật độ cao nhưng ASEAN hiện vẫn là một khu vực nghèo với GDP tính đến năm 2003 chỉ đạt khoảng 687 tỷ USD, chiếm 1,9% toàn thế giới, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.253 USD, thấp hơn nhiều so với mức 5.684 USD của thế giới. Chỉ một thời gian sau khi Việt Nam gia nhập, ASEAN đã phải trải qua một giai đoạn khó khăn ngặt nghèo do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997. Nhiều nước thành viên nằm trong tâm bão đã phải hứng chịu những cơn “địa chấn” kinh tế từ đó gây bất ổn nghiêm trọng về xã hội. Trong bối cảnh đó, năm 1998, Việt Nam được phân công tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6. Vượt qua nhứng khó khăn về cơ sở vật chất, trình độ kinh nghiệm tổ chức, Hội nghị cấp cao ASEAN 6 do Việt Nam tổ chức đã thành công rực rỡ với việc thông qua chương trình hành động Hà Nội định hướng cho sự phát triển và hợp tác của Hiệp hội trong giai đoạn tiếp theo nhằm thực hiện thành công chương trình tầm nhìn ASEAN 2020. Đến năm 2000, Việt Nam tiếp tục đảm nhận cương vị chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (ASC) khóa 34 tổ chức một loạt hội nghị quan trọng nhằm củng cố lại đoàn kết, hợp tác, tăng cường vị thế của ASEAN sau khủng hoảng. Với quan điểm trước hết cần tạo ra một khối liên kết nội bộ mạnh để nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cùng các nước trong khu vực trên các diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); Diễn đàn sau hội nghị Bộ trưởng an ninh (PMC) nhằm đối thoại với các nước và các khu vực kinh tế trên thế giới. Đặc biệt trên mọi diễn đàn, Việt Nam luôn khẳng định những nguyên tắc cơ bản đã thành bản sắc riêng của ASEAN là: “đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” góp phần giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong ASEAN. Bên cạnh việc tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa học công nghệ, văn hóa thông tin, phòng chống tệ nạn xã hội ... Việt Nam còn mạnh dạn đăng cai tổ chức các hội nghị về hợp tác được các nước trong khối đánh giá cao như Tuần lễ khoa học và công nghệ ASEAN năm 1998; Tuần văn hóa ASEAN năm 2004; Hội thi tay nghề ASEAN... Đối với quan hệ của ASEAN với các đối tác bên ngoài, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực với vai trò là nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các nước lớn như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản... Tham gia tích cực tiến trình hợp tác ASEAN+3 với 3 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc nhằm tiến một không gian hợp tác toàn Đông Á. Những diễn đàn hợp tác liên khu vực như diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM); Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương (APEC)... luôn có sự đóng góp rất nhiệt tình của Việt Nam với nhiều sáng kiến duy trì và phát triển các diễn đàn trên. Đặc biệt là Hội nghị cấp cao Á-Âu lần thứ 5 tổ chức tại Hà Nội với việc kết nạp thêm 13 thành viên vào diễn đàn được đánh giá như một dấu mốc lịch sử nâng cao uy tín của ASEM cũng như của nước chủ nhà Việt Nam trong con mắt của bạn bè thế giới. Trong cuộc hội đàm với Chủ tich nước Trần Đức Lương nhân Hội nghị cấp cao Á-Phi tổ chức tại Inđônêxia ngày 23/4/2005, Tổng thư ký LHQ Kofi Anan đã khẳng định : “Việt Nam đã đạt được nhiều mục tiêu thiên niên kỷ, đóng vai trò quan trọng trong khối ASEAN và khu vực. ASEAN và Liên hợp quốc có thể xây dựng khuôn khổ hợp tác để đóng góp cho hòa bình và phát triển...”</p><p></p><p> <strong>Việt Nam chú trọng vào quan hệ kinh tế với ASEAN:</strong></p><p><strong></strong></p><p>Là một khu vực có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao trên thế giới, trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước trong khối ASEAN diễn ra khá phong phú và hiệu quả. Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam-ASEAN cũng đạt được những bước tiến vượt bậc trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây. Tất nhiên, điều đầu tiên phải khẳng định, là những nước trong cùng một khu vực với những điều kiện địa lý, thổ nhưỡng cho sản xuất có nhiều điểm tương đồng nên quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước còn lại trong khối vừa là quan hệ hợp tác, vừa là quan hệ cạnh tranh... </p><p></p><p>Trước hết xin nói về quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối tháng 7/2005, Việt Nam đã tiếp nhận trên 800 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nước thành viên khác – trừ Mianma – còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 11,3 tỷ USD, trong đó đã thực hiện khoảng trên 5 tỷ USD. Cụ thể một số nước có vốn FDI lớn là Singapore có 424 dự án với số vốn đăng ký đạt 9.037 triệu USD, ước thực hiện đạt khoảng 3.613 triệu USD, còn hiệu lực 361 dự án với số vốn 8.130 triệu USD; Malaysia có 196 dự án với số vốn đăng ký 1.616 triệu USD, ước thực hiện khoảng 850 triệu USD, bằng trên 50% số vốn đăng ký; Thái Lan có 169 dự án, vốn đăng ký 1.593 triệu USD, ước thực hiện khoảng 50% số vốn đăng ký, còn hiệu lực 120 dự án với số vốn trên 1.432 triệu USD... Nhìn tổng thể, trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư của ASEAN chiếm hơn 12% về số dự án, hơn 23% về vốn đăng ký và gần 20% về vốn thực hiện. Hầu hết những dự án này đều phát huy hiệu quả có lợi cho cả hai phía: nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư.</p><p></p><p>Các lĩnh vực hợp tác khác như xuất khẩu, du lịch của Việt Nam và các thành viên còn lại trong ASEAN cũng phát triển với tốc độ khá nhanh. Tỷ trọng xuất khẩu vào ASEAN năm 2004 đạt 14,3% tổng số xuất khẩu của Việt Nam. Năm tháng đầu năm nay, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này lên tới 46,4%. Các thị trường có tỷ lệ nhập khẩu vào Việt Nam cao là Singapore với 1.370 triệu USD; Malaysia với 601,1 triệu USD; Philipin với 498,6 triệu USD... Tuy nhiên, con số nhập khẩu từ các nước ASEAN quá lớn nên Việt Nam vẫn là nước nhập siêu từ các thị trường lớn trong khu vực. Điển hình như năm 2004, nhập siêu từ Singapore là 2.248,5 triệu USD; từ Thái Lan là 1.367,1 triệu USD... Lượng khách du lịch của Khu vực đến Việt Nam luôn tăng trưởng cao trong vài năm gần đây. Sáu tháng đầu năm nay khách du lịch tại hầu hết các nước ASEAN vào Việt Nam tăng bình quân trên 50%...</p><p></p><p>Mười năm gắn bó với ASEAN cũng là khoảng thời gian Việt Nam sát cánh cùng các nước trong hiệp hội chung sức, chung lòng chèo lái con thuyền ASEAN vượt qua sóng to giáo cả vươn lên trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu . Và những thành quả kinh tế, chính trị xã hội đã được trong khoảng thời gian đó đã khẳng định quyết định tham gia ASEAN của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Với sự tham gia ngày càng quan trọng vào tiếng nói chung của khu vực, chúng ta đã chứng tỏ là một thành viên tích cực không thể thiếu trong đại gia đình ASEAN. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục vận động thúc đẩy qúa trình xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển thông qua các chương trình phát triển hành lang Đông – Tây, tiểu vùng sông Mêkông, phát huy vai trò tiên phong chủ lực trong các lĩnh vực hợp tác là thế mạnh của Việt Nam như: Văn hóa, thông tin, môi trường ... .</p><p></p><p><strong>III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM</strong></p><p></p><p>Từ những biến đổi sau Chiến tranh lạnh, trật tự thế giới hai cực Y-an-ta , chính sách bao vây cấm vận của Mỹ , “ vấn đề Campuchia và những “ nhận thức, hành động của bản thân các nước ASEAN v.v…) . Chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo trong chính sách đối ngoại của ta.</p><p></p><p>- Thứ nhất: Như đã biết,khối ASEAN được thành lập từ năm 1967. Nhưng khi đó, chúng ta đã đánh giá ASEAN như thế nào? Thực tế là, trong một thời kỳ khá dài ( 1967-1987 ) “Việt Nam đã xem ASEAN là một khối quân sự- chính trị được lập ra thay thế SEATO chống Việt Nam , Trung Quốc và các lực lượng cách mạng ở Đông Nam Á . Cách đánh giá võ đoán trên đã khiến nước ta không thấy được mặt tích cực trong chính sách đối ngoại của ASEAN, ngay từ khi tổ chức này được thành lập vao 8-1967 .Việc xem ASEAN là một tổ chức thân Mỹ,hoàn toàn thù địch với Việt Nam,Lao,Campuchia đã làm cho hốngăn cách giữa Việt Nam và các nước láng giềngĐông Nam Á ngày càng rộng ,càng sâu thêm”. </p><p></p><p>Cách nhìn nhận, đánh giá về ASEAN như vậy không chỉ ghi rõ dấu ấn của thời kỳ chiến tranh lạnh trong khuôn khổ của trật tự thế giới hai cực Y-an-ta đang còn bao trùm thế giới , mà còn cho thấy rõ vấn đề đã bị “ khúc xạ “ như thế nào qua lăng kính ý thức hệ . Quả thật, “ Chúng ta nhìn nhận các nước là qua lăng kính ý thức hệ : Điều đó đã làm cho chúng ta không thấy hết được các nhân tố tích cực – thường là tinh thần yêu nước và bảo vệ dân tộc- của các nước Đông Nam Á nói chung “ 2 .Nhưng cũng quả thật biết làm sao được” trước đây chuẩn mực cao nhất trong quan hệ quốc tế là cùng ý thức hệ hay khác ý thức hệ “ </p><p> </p><p>Ngoài ra, điều rất quan trọng là trước thập niên 90 , trong khuôn khổ của thế giới hai cực Y-an-ta và chiến tranh lạnh , chúng ta cũng chưa thực sự nhạy bén chuyển hướng kịp thời trong những giải pháp và phương thực thực hiện mục tiêu bảo vệ an ninh ,chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia . Ngày nay, với sự kết thức cũa chiến tranh lạnh, và cuộc cách mang kỹ thuật đang phát triển như vũ bão cùng với xu hướng khu vực hoá , toàn cầu hoá làm cho tính tương thuộc giữa các quốc gia tăng lên” làm cho khái niệm về chủ quyền quốc gia, wsự toàn vẹn lãnh thổ theo cách hiểu cũ khong còn đứng vững , mặc dù về hình thức, mỗi thành viên vẫn có chủ quyền và lãnh thổ riêng”</p><p> </p><p>Chẳng hạn, trước kia , khi nói tới độc lập, chủ quyền thì nhiều khi người ta nghĩ tới một chính sách khép kín về chính trị theo kiểu biệt lập, tự cấp tự túc về kinh tế . Nhưng ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá về sự tương thuộc giữa các quốc gia ngày càng lớn, thì nước nào càng tạo dựng được cho mình một tư thế quốc tế năng động ,linh hoạt, càng đa dạng hoá được quan hệ đối ngoại, thì càng có khả năng thực hiện chính sách độc lập tự chủ hơn.Hoặc trước đây, khi nói tới yêu cầu bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ, người ta thường nghĩ nhiều các mối nguy cơ từ bên ngoài. Ngày nay vấn đề không chỉ có vậy. “ Thực tiễn tinh hình nhiều nước cho thấy, nguy cơ đe doạ chủ quyền và an ninh quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ nằm ngay tại ở bên trong ; nhiều khi không bị nước ngoài xâm lăng, song chủ quyền và an ninh vẫn bị rối loạn, lãnh thổ bị chia cắt” 5. Do đó, mối đe doạ là nằm cả bên ngoài với bên trong, hoặc là sự kết hợp cả hai yếu tố đó. Cuối cùng là, trước đây, khi nói tới phương tiện bảo vệ chủ quyền , an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ , thậm chí cả vị trí và ảnh hưởng quốc tế , nhiều khi người ta nhấn mạnh đến biện pháp quân sự và biện pháp bạo lực . Điều này ngày nay vẫn đúng với ý nghĩa là sức mạnh quân sự , vẫn có ý nghĩa rất quan trọng “ song không còn giữ vị trí độc tôn “, thậm chí “ chưa đủ để bảo vệ vững chắc chủ quyền cà an ninh quốc gia, cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ”. Cần phải có sức mạnh tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và sự phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đang nổi lên hàng đầu 6. Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975 ) , Việt Nam là một nước có sức mạnh quân sự vào loại hàng đầu ở Đong Nam Á, nhưng về kinh tế và sự phát triển thì chúng ta lại không có được sức mạnh tương ứng – phải mãi đến đầu thập kỷ 90 nước ta mới thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng .</p><p></p><p>- Thứ hai: Ngoài việc cần có một tư duy mới về vấn đề độc lập, chủ quyền,an ninh và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cũng như quan điểm” thông thoáng “ về vấn đề ý thức hệ ,trong quan hệ với các nước ASEAN , cần nhận thức sâu sắc hơn một sự thật khách quan về Việt Nam là một nước cấu thành khu vực Đông Nam Á .Tư tưởng này đã được đưa ra trong chính sách 4 điểm nổi tiếng của chính phủ ta ngày 5-7-1976, tức là ngay sau khi nước ta hoàn toàn thống nhất , thể hiện những quan điểm đúng đắn của Việt Nam trong quan hệ với Đông Nam A,Ù trước hết là ASEAN.</p><p></p><p>Tiếc thay trong một thời gian khá dài sau đó cho đến cuối thập kỷ 80, không thể nói là chúng ta đã quán triệt nó thật sâu sắc . Ở đây chúng tôi cho rằng, ý kiến của cựu đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh là rất đáng chú ý: “Ông cha ta có câu, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, bởi vì ta có thể chọn bạn , nhưng không ai có thể chọn được láng giềng gần”. Bởi vậy, vị trí địa- chính trị , đặc điểm những bạn láng giềng của mỗi nước là một thách thức tự nhiên”. Quả thực , “đây là những chân lý rất đơn giản mà rất tiếc mấy chục năm ta mới quán triệt được”. </p><p></p><p>Trên thế giới chính sách nói chung là thích nghi , chung sống với các nước láng giềng . Dù là với ý đồ nào đi nữa thì cũng có một thực tế là tư tưởng khu vực hoá và chủ nghĩa khu vực cũng hình thành từ rất sớm . Ít nhất thì người ta cũng biết được học thuyết Mơn-rô về” Châu Mỹ của người châu Mỹ” (1823),hoặc “chính sách láng giềng thân thiện “ của F.Ru-Dơ-Ven (1933 ) . Chúng ta cũng đã từng vừa hợp tác vừa đấu tranh chung sống với người láng giềng khổng lồ phương Bắc và các nước láng giềng khác ở các nước Đông Nam Á . Do dó, cần phải có một quan điểm đúng về những vấn đề liên quan tới vị trí địa- chính trị , địa –lịch sử và văn hoá của nước nhà , khi mà xu thế khu vực hoá , toàn cầu hoá cũng như tính tương thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng trở nên mạnh mẽ . Thậm chí, có thể phải chấp nhận cả tình trạng “khi chưa đủ lực ta có thể chưa quan tâm đầy đủ với một số nước ở xa , nhưng với các nước láng giềng thì luôn luôn coi trọng” . Chính là nhận thức được tầm quan trọng ấy của vấn đề mà không phải đợi đến 1995 khi Việt Nam đã gia nhập ASEAN , mà ngay từ 1992 , tức là khi mới trở thành quan sát viên của tổ chức này, chúng ta đã khẳng định: “Trong toàn bộ chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như trong chính sách Châu Á - Thái Bình Dương của Việt Nam, ưu tiên trước nhất dành cho các nước trong tiểu khu vực Đong Nam Á, các nước ASEAN, vì lợi ích hoà bình ổn đinh khu vực cũng như việc lợi ích phát triển kinh tế của Việt Nam”.</p><p></p><p>- Thứ ba: Trong quan hệ của Việt Nam với ASEAN cần xử lý tốt quan hệ với các nước lớn.Thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ chỉ rõ là : “Bàn đến triển vọng hoà bình , ổn định và phát triển ở toàn Đông Nam Á, ai cũng hiểu rằng cần tính đến tác động của cả 3 mối quan hệ :</p><p></p><p>- Quan hệ giữa các nước có liên quan đến Đông Nam Á.</p><p></p><p>- Quan hệ giữa các nước Đong Nam Á với các nước lớn .</p><p></p><p>- Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với nhau. </p><p></p><p>Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với nhau xét từ góc độ những kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam, còn trong quan hệ giữa các nước lớn xét từ góc độ của Việt Nam thì tam giác Xô-Mỹ- Trung có vị trí đặc biệt quan trọng ( với Liên Xô ở đây tất nhiên là thời kỳ Liên xô chưa tan rã – trước tháng 12-1991). Chẳng hạn, như đã biết , một trong những trở ngại lớn nhất đối với tiến trinh hội nhập của Việt Nam vào ASEAN là “vấn đề Cap-pu-chia”. Việt Nam đã làm tất cả những gì có thể với tất cả thiện chí của mình để giải quyết vấn đề này . Nhưng khó mà hình dung được rằng , có thể giải quyết được dễ dàng “ Vấn đề Cam-pu-chia” mà lại thiếu vai trò của của các nước lớn . Trên thực tế,” trong suốt thập kỷ 80, ta đã phải xử lý quan hệ với tất cả các nước lớn về giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia trước hết cũng là giải pháp do các nước lớn dàn xếp (G.5)”.</p><p></p><p></p><p>Rõ ràng , trong quan hệ với ASEAN cũng như với tất cả các nước khác theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới”, những bài học rút ra từ lịch sử là hết sức bổ ích . Ngay từ nửa đầu thế kỷ XIX ,Bộ trưởng ngoại giao Áo là Mét-téc-ních (1773-1859) đã từng đưa ra một mệnh đề bất hủ : “Không có đồng minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích là vĩnh viễn mà chúng ta cần theo đuổi” . Trong khi chú ý và tôn trọng thích đáng các lợi ích chính đáng của các dân tộc – quốc gia khác, thì với chúng ta lợi ích của dân tộc Việt Nam là tối cao và vĩnh viễn . Nắm vững lợi ích dân tộc, nêu cao tinh thần độc lậ , tự chủ và quyền tự quyết dân tộc, hoà hiếu với các nước láng giềng, sẵn sàng là bạn với tất cả các nước “không gây thù oán với ai” như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1947, đó chính là những bảo đảm cho một Việt Nam có một môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển và một vị trí ngày càng cao trong cộng đồng thế giới .</p><p></p><p>Cách đây 13 năm, đúng vào ngày 28/7/1995, lá cờ đỏ sao vàng Việt Nam tung bay tại thủ đô vương quốc Brunay - nước đăng cai kỳ họp bộ trưởng ngoại giao ASEAN (AMM) lần thứ 28 - đánh dấu ngày Việt Nam chính thức trở thành thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Một thập kỷ là quá ngắn với lịch sử của một dân tộc hay một khu vực nhưng thực tế, Việt Nam đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự phát triển chung của ASEAN và ngày càng chứng tỏ vị thế tiếng nói của mình trong khu vực và trên thế giới trên tất cả các mặt.</p><p></p><p>Mười năm gia nhập ASEAN cũng đánh dấu thời kỳ đầu Việt Nam mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tham gia vào hiệp hội, Việt Nam đã có những đóng góp với trách nhiệm cao ở tất cả các mặt, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao... Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, ngay từ ngày đầu gia nhập, Việt Nam đã nhận thức được rằng luôn có một khoảng cách tồn tại giữa hai nhóm nước phát triển và chậm phát triển trong ASEAN. Về việc thu hẹp khoảng cách này để tạo ra sự phát triển bền vững trong ASEAN là rất quan trọng. Chính vì vậy, ngay từ Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Việt Nam đã đưa ra sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển với tuyên bố Hà Nội được thông qua tại hội nghị Bộ trưởng ngoại giao lần thứ 34. Sáng kiến này vừa đáp ứng nhu cầu của ASEAN muốn tăng cường liên kết nội khối, vừa phục vụ cho nhu cầu vươn lên của các nước thành viên mới là Lào, Campuchia, Mianma và Việt Nam. Qua mười năm thực hiện sáng kiến này hiện nay đã trở thành một ưu tiên lớn trong chương trình nghị sự của ASEAN. </p><p></p><p>Như vậy, từ khi gia nhập đến nay Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ với các nước ASEAN ngày càng chặc chẽ và nâng cao vị thế của mình. Lời phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải nhân kỷ niệm 38 năm ngày thành lập Hiệp hội ASEAN (8/8/1967 – 8/8/2005) và kỷ niệm 10 năm ngày Việt Nam gia nhập hiệp hội, ngày 8/8/2205 đã có bài phát biểu quan trọng đánh giá lại những bước phát triển của cộng đồng ASEAN và mối quan hệ ASEAN - Việt Nam, Thủ tướng khẳng định: “Thành công lớn nhất của ASEAN là đã góp phần quan trọng vào việc duy trì và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác cùng phát triển ở khu vực Đông Nam Á... Hòa cùng dòng chảy chung của ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng cùng các nước thành viên khác đóng góp cho sự lớn mạnh chung của cả hiệp hội. Quan hệ Việt Nam ASEAN phát triển đều khắp trên tất cả các lĩnh vực ...”</p><p></p><p>Như vậy, 13 năm, một chặng đường Việt Nam hội nhập vào khu vực. Việt Nam đã có những đóng góp nhất định cho sự tồn tại, phát triển của ASEAN và cũng đã đạt được những thành quả bước đầu. Phía trước của ASEAN tuy còn nhiều cơ hội để phát triển, song cũng không ít thách thức đòi hỏi Việt Nam cũng như các thành viên khác trong ASEAN phải tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ hơn nữa, cùng nhau đưa ra những ý tưởng mới và các biện pháp thực hiện các ý tưởng đó để có thể biến ý tưởng của “tầm nhìn 2020” thành hiện thực, xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN và trở thành một nhân tố chủ đạo của Cộng đồng Châu Á . </p><p></p><p>(Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 23944, member: 699"] [B]2. Mối quan hệ Việt Nam – ASEAN[/B] Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995 tại Bru-nây; và lần đầu tiên tham dự Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 và các Hội nghị liên quan (Bru-nây, 2-3/8/1995) với tư cách thành viên đầy đủ. Trước đó, tháng 7/1992, Việt Nam đã chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Ba-li) và trở thành quan sát viên của ASEAN. Từ năm 1993, Việt Nam đã tham gia các chương trình và dự án hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá-thông tin, phát triển xã hội. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những nước sáng lập Diễn đàn này. Việc Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ tháng 7 năm 1995, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã bước sang một thời kì mới của hợp tác và phát triển. Việc Việt Nam tham gia ASEAN cũng đánh dấu sự phát triển quan trọng khác của khu vực: Quá trình ASEAN mở rộng bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á, cùng phấn đấu vì hoà bình và sự phồn vinh của khu vực. Trong 13 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, góp phần quan trọng vào việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước; củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực có lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những đóng góp cụ thể của Việt Nam có thể kể đến là: tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN-6 tại Hà Nội (12/1998), giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý tưởng một ASEAN-10; thông qua Chương trình Hành động Hà nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020. Từ tháng 7/2000 – 7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy ban Thường trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) và các Hội nghị liên quan. Các Bộ/ngành của Việt Nam cũng đăng cai nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng và cấp Quan chức cao cấp (SOM) về kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Việt Nam cũng đã đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Liên minh Nghị viện ASEAN (AIPO) tháng 9/2002... ”, tổ chức Hội nghị giữa các quốc gia ASEAN và EU (ASEM V) tại Hà Nội năm 2004,… Ngoài ra, Việt Nam còn có nhiều cống hiến trên các lĩnh vực khác nhằm thúc đẩy sự hợp tác chặc chẽ nhau về mọi mặt để Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển. Vai trò của Việt Nam luôn thể hiện: [B]Là một nhân tố quan trọng trong khối ASEAN: [/B] Với sự tham gia của Việt Nam năm 1995 và tiếp sau đó là Lào, Campuchia, Mianma, Đôngtimo, ASEAN hiện nay là một hiệp hội gồm 11 nước với tổng diện tích 4.492.443km2 với gần 600 triệu dân, chiếm trên 14% dân số thế giới. Tuy sở hữu một thị trường rộng lớn với dân số có mật độ cao nhưng ASEAN hiện vẫn là một khu vực nghèo với GDP tính đến năm 2003 chỉ đạt khoảng 687 tỷ USD, chiếm 1,9% toàn thế giới, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.253 USD, thấp hơn nhiều so với mức 5.684 USD của thế giới. Chỉ một thời gian sau khi Việt Nam gia nhập, ASEAN đã phải trải qua một giai đoạn khó khăn ngặt nghèo do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997. Nhiều nước thành viên nằm trong tâm bão đã phải hứng chịu những cơn “địa chấn” kinh tế từ đó gây bất ổn nghiêm trọng về xã hội. Trong bối cảnh đó, năm 1998, Việt Nam được phân công tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6. Vượt qua nhứng khó khăn về cơ sở vật chất, trình độ kinh nghiệm tổ chức, Hội nghị cấp cao ASEAN 6 do Việt Nam tổ chức đã thành công rực rỡ với việc thông qua chương trình hành động Hà Nội định hướng cho sự phát triển và hợp tác của Hiệp hội trong giai đoạn tiếp theo nhằm thực hiện thành công chương trình tầm nhìn ASEAN 2020. Đến năm 2000, Việt Nam tiếp tục đảm nhận cương vị chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (ASC) khóa 34 tổ chức một loạt hội nghị quan trọng nhằm củng cố lại đoàn kết, hợp tác, tăng cường vị thế của ASEAN sau khủng hoảng. Với quan điểm trước hết cần tạo ra một khối liên kết nội bộ mạnh để nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cùng các nước trong khu vực trên các diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); Diễn đàn sau hội nghị Bộ trưởng an ninh (PMC) nhằm đối thoại với các nước và các khu vực kinh tế trên thế giới. Đặc biệt trên mọi diễn đàn, Việt Nam luôn khẳng định những nguyên tắc cơ bản đã thành bản sắc riêng của ASEAN là: “đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” góp phần giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong ASEAN. Bên cạnh việc tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa học công nghệ, văn hóa thông tin, phòng chống tệ nạn xã hội ... Việt Nam còn mạnh dạn đăng cai tổ chức các hội nghị về hợp tác được các nước trong khối đánh giá cao như Tuần lễ khoa học và công nghệ ASEAN năm 1998; Tuần văn hóa ASEAN năm 2004; Hội thi tay nghề ASEAN... Đối với quan hệ của ASEAN với các đối tác bên ngoài, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực với vai trò là nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các nước lớn như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản... Tham gia tích cực tiến trình hợp tác ASEAN+3 với 3 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc nhằm tiến một không gian hợp tác toàn Đông Á. Những diễn đàn hợp tác liên khu vực như diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM); Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương (APEC)... luôn có sự đóng góp rất nhiệt tình của Việt Nam với nhiều sáng kiến duy trì và phát triển các diễn đàn trên. Đặc biệt là Hội nghị cấp cao Á-Âu lần thứ 5 tổ chức tại Hà Nội với việc kết nạp thêm 13 thành viên vào diễn đàn được đánh giá như một dấu mốc lịch sử nâng cao uy tín của ASEM cũng như của nước chủ nhà Việt Nam trong con mắt của bạn bè thế giới. Trong cuộc hội đàm với Chủ tich nước Trần Đức Lương nhân Hội nghị cấp cao Á-Phi tổ chức tại Inđônêxia ngày 23/4/2005, Tổng thư ký LHQ Kofi Anan đã khẳng định : “Việt Nam đã đạt được nhiều mục tiêu thiên niên kỷ, đóng vai trò quan trọng trong khối ASEAN và khu vực. ASEAN và Liên hợp quốc có thể xây dựng khuôn khổ hợp tác để đóng góp cho hòa bình và phát triển...” [B]Việt Nam chú trọng vào quan hệ kinh tế với ASEAN: [/B] Là một khu vực có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao trên thế giới, trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước trong khối ASEAN diễn ra khá phong phú và hiệu quả. Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam-ASEAN cũng đạt được những bước tiến vượt bậc trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây. Tất nhiên, điều đầu tiên phải khẳng định, là những nước trong cùng một khu vực với những điều kiện địa lý, thổ nhưỡng cho sản xuất có nhiều điểm tương đồng nên quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước còn lại trong khối vừa là quan hệ hợp tác, vừa là quan hệ cạnh tranh... Trước hết xin nói về quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối tháng 7/2005, Việt Nam đã tiếp nhận trên 800 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nước thành viên khác – trừ Mianma – còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 11,3 tỷ USD, trong đó đã thực hiện khoảng trên 5 tỷ USD. Cụ thể một số nước có vốn FDI lớn là Singapore có 424 dự án với số vốn đăng ký đạt 9.037 triệu USD, ước thực hiện đạt khoảng 3.613 triệu USD, còn hiệu lực 361 dự án với số vốn 8.130 triệu USD; Malaysia có 196 dự án với số vốn đăng ký 1.616 triệu USD, ước thực hiện khoảng 850 triệu USD, bằng trên 50% số vốn đăng ký; Thái Lan có 169 dự án, vốn đăng ký 1.593 triệu USD, ước thực hiện khoảng 50% số vốn đăng ký, còn hiệu lực 120 dự án với số vốn trên 1.432 triệu USD... Nhìn tổng thể, trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư của ASEAN chiếm hơn 12% về số dự án, hơn 23% về vốn đăng ký và gần 20% về vốn thực hiện. Hầu hết những dự án này đều phát huy hiệu quả có lợi cho cả hai phía: nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư. Các lĩnh vực hợp tác khác như xuất khẩu, du lịch của Việt Nam và các thành viên còn lại trong ASEAN cũng phát triển với tốc độ khá nhanh. Tỷ trọng xuất khẩu vào ASEAN năm 2004 đạt 14,3% tổng số xuất khẩu của Việt Nam. Năm tháng đầu năm nay, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này lên tới 46,4%. Các thị trường có tỷ lệ nhập khẩu vào Việt Nam cao là Singapore với 1.370 triệu USD; Malaysia với 601,1 triệu USD; Philipin với 498,6 triệu USD... Tuy nhiên, con số nhập khẩu từ các nước ASEAN quá lớn nên Việt Nam vẫn là nước nhập siêu từ các thị trường lớn trong khu vực. Điển hình như năm 2004, nhập siêu từ Singapore là 2.248,5 triệu USD; từ Thái Lan là 1.367,1 triệu USD... Lượng khách du lịch của Khu vực đến Việt Nam luôn tăng trưởng cao trong vài năm gần đây. Sáu tháng đầu năm nay khách du lịch tại hầu hết các nước ASEAN vào Việt Nam tăng bình quân trên 50%... Mười năm gắn bó với ASEAN cũng là khoảng thời gian Việt Nam sát cánh cùng các nước trong hiệp hội chung sức, chung lòng chèo lái con thuyền ASEAN vượt qua sóng to giáo cả vươn lên trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu . Và những thành quả kinh tế, chính trị xã hội đã được trong khoảng thời gian đó đã khẳng định quyết định tham gia ASEAN của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Với sự tham gia ngày càng quan trọng vào tiếng nói chung của khu vực, chúng ta đã chứng tỏ là một thành viên tích cực không thể thiếu trong đại gia đình ASEAN. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục vận động thúc đẩy qúa trình xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển thông qua các chương trình phát triển hành lang Đông – Tây, tiểu vùng sông Mêkông, phát huy vai trò tiên phong chủ lực trong các lĩnh vực hợp tác là thế mạnh của Việt Nam như: Văn hóa, thông tin, môi trường ... . [B]III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM[/B] Từ những biến đổi sau Chiến tranh lạnh, trật tự thế giới hai cực Y-an-ta , chính sách bao vây cấm vận của Mỹ , “ vấn đề Campuchia và những “ nhận thức, hành động của bản thân các nước ASEAN v.v…) . Chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo trong chính sách đối ngoại của ta. - Thứ nhất: Như đã biết,khối ASEAN được thành lập từ năm 1967. Nhưng khi đó, chúng ta đã đánh giá ASEAN như thế nào? Thực tế là, trong một thời kỳ khá dài ( 1967-1987 ) “Việt Nam đã xem ASEAN là một khối quân sự- chính trị được lập ra thay thế SEATO chống Việt Nam , Trung Quốc và các lực lượng cách mạng ở Đông Nam Á . Cách đánh giá võ đoán trên đã khiến nước ta không thấy được mặt tích cực trong chính sách đối ngoại của ASEAN, ngay từ khi tổ chức này được thành lập vao 8-1967 .Việc xem ASEAN là một tổ chức thân Mỹ,hoàn toàn thù địch với Việt Nam,Lao,Campuchia đã làm cho hốngăn cách giữa Việt Nam và các nước láng giềngĐông Nam Á ngày càng rộng ,càng sâu thêm”. Cách nhìn nhận, đánh giá về ASEAN như vậy không chỉ ghi rõ dấu ấn của thời kỳ chiến tranh lạnh trong khuôn khổ của trật tự thế giới hai cực Y-an-ta đang còn bao trùm thế giới , mà còn cho thấy rõ vấn đề đã bị “ khúc xạ “ như thế nào qua lăng kính ý thức hệ . Quả thật, “ Chúng ta nhìn nhận các nước là qua lăng kính ý thức hệ : Điều đó đã làm cho chúng ta không thấy hết được các nhân tố tích cực – thường là tinh thần yêu nước và bảo vệ dân tộc- của các nước Đông Nam Á nói chung “ 2 .Nhưng cũng quả thật biết làm sao được” trước đây chuẩn mực cao nhất trong quan hệ quốc tế là cùng ý thức hệ hay khác ý thức hệ “ Ngoài ra, điều rất quan trọng là trước thập niên 90 , trong khuôn khổ của thế giới hai cực Y-an-ta và chiến tranh lạnh , chúng ta cũng chưa thực sự nhạy bén chuyển hướng kịp thời trong những giải pháp và phương thực thực hiện mục tiêu bảo vệ an ninh ,chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia . Ngày nay, với sự kết thức cũa chiến tranh lạnh, và cuộc cách mang kỹ thuật đang phát triển như vũ bão cùng với xu hướng khu vực hoá , toàn cầu hoá làm cho tính tương thuộc giữa các quốc gia tăng lên” làm cho khái niệm về chủ quyền quốc gia, wsự toàn vẹn lãnh thổ theo cách hiểu cũ khong còn đứng vững , mặc dù về hình thức, mỗi thành viên vẫn có chủ quyền và lãnh thổ riêng” Chẳng hạn, trước kia , khi nói tới độc lập, chủ quyền thì nhiều khi người ta nghĩ tới một chính sách khép kín về chính trị theo kiểu biệt lập, tự cấp tự túc về kinh tế . Nhưng ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá về sự tương thuộc giữa các quốc gia ngày càng lớn, thì nước nào càng tạo dựng được cho mình một tư thế quốc tế năng động ,linh hoạt, càng đa dạng hoá được quan hệ đối ngoại, thì càng có khả năng thực hiện chính sách độc lập tự chủ hơn.Hoặc trước đây, khi nói tới yêu cầu bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ, người ta thường nghĩ nhiều các mối nguy cơ từ bên ngoài. Ngày nay vấn đề không chỉ có vậy. “ Thực tiễn tinh hình nhiều nước cho thấy, nguy cơ đe doạ chủ quyền và an ninh quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ nằm ngay tại ở bên trong ; nhiều khi không bị nước ngoài xâm lăng, song chủ quyền và an ninh vẫn bị rối loạn, lãnh thổ bị chia cắt” 5. Do đó, mối đe doạ là nằm cả bên ngoài với bên trong, hoặc là sự kết hợp cả hai yếu tố đó. Cuối cùng là, trước đây, khi nói tới phương tiện bảo vệ chủ quyền , an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ , thậm chí cả vị trí và ảnh hưởng quốc tế , nhiều khi người ta nhấn mạnh đến biện pháp quân sự và biện pháp bạo lực . Điều này ngày nay vẫn đúng với ý nghĩa là sức mạnh quân sự , vẫn có ý nghĩa rất quan trọng “ song không còn giữ vị trí độc tôn “, thậm chí “ chưa đủ để bảo vệ vững chắc chủ quyền cà an ninh quốc gia, cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ”. Cần phải có sức mạnh tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và sự phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đang nổi lên hàng đầu 6. Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975 ) , Việt Nam là một nước có sức mạnh quân sự vào loại hàng đầu ở Đong Nam Á, nhưng về kinh tế và sự phát triển thì chúng ta lại không có được sức mạnh tương ứng – phải mãi đến đầu thập kỷ 90 nước ta mới thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng . - Thứ hai: Ngoài việc cần có một tư duy mới về vấn đề độc lập, chủ quyền,an ninh và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cũng như quan điểm” thông thoáng “ về vấn đề ý thức hệ ,trong quan hệ với các nước ASEAN , cần nhận thức sâu sắc hơn một sự thật khách quan về Việt Nam là một nước cấu thành khu vực Đông Nam Á .Tư tưởng này đã được đưa ra trong chính sách 4 điểm nổi tiếng của chính phủ ta ngày 5-7-1976, tức là ngay sau khi nước ta hoàn toàn thống nhất , thể hiện những quan điểm đúng đắn của Việt Nam trong quan hệ với Đông Nam A,Ù trước hết là ASEAN. Tiếc thay trong một thời gian khá dài sau đó cho đến cuối thập kỷ 80, không thể nói là chúng ta đã quán triệt nó thật sâu sắc . Ở đây chúng tôi cho rằng, ý kiến của cựu đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh là rất đáng chú ý: “Ông cha ta có câu, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, bởi vì ta có thể chọn bạn , nhưng không ai có thể chọn được láng giềng gần”. Bởi vậy, vị trí địa- chính trị , đặc điểm những bạn láng giềng của mỗi nước là một thách thức tự nhiên”. Quả thực , “đây là những chân lý rất đơn giản mà rất tiếc mấy chục năm ta mới quán triệt được”. Trên thế giới chính sách nói chung là thích nghi , chung sống với các nước láng giềng . Dù là với ý đồ nào đi nữa thì cũng có một thực tế là tư tưởng khu vực hoá và chủ nghĩa khu vực cũng hình thành từ rất sớm . Ít nhất thì người ta cũng biết được học thuyết Mơn-rô về” Châu Mỹ của người châu Mỹ” (1823),hoặc “chính sách láng giềng thân thiện “ của F.Ru-Dơ-Ven (1933 ) . Chúng ta cũng đã từng vừa hợp tác vừa đấu tranh chung sống với người láng giềng khổng lồ phương Bắc và các nước láng giềng khác ở các nước Đông Nam Á . Do dó, cần phải có một quan điểm đúng về những vấn đề liên quan tới vị trí địa- chính trị , địa –lịch sử và văn hoá của nước nhà , khi mà xu thế khu vực hoá , toàn cầu hoá cũng như tính tương thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng trở nên mạnh mẽ . Thậm chí, có thể phải chấp nhận cả tình trạng “khi chưa đủ lực ta có thể chưa quan tâm đầy đủ với một số nước ở xa , nhưng với các nước láng giềng thì luôn luôn coi trọng” . Chính là nhận thức được tầm quan trọng ấy của vấn đề mà không phải đợi đến 1995 khi Việt Nam đã gia nhập ASEAN , mà ngay từ 1992 , tức là khi mới trở thành quan sát viên của tổ chức này, chúng ta đã khẳng định: “Trong toàn bộ chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như trong chính sách Châu Á - Thái Bình Dương của Việt Nam, ưu tiên trước nhất dành cho các nước trong tiểu khu vực Đong Nam Á, các nước ASEAN, vì lợi ích hoà bình ổn đinh khu vực cũng như việc lợi ích phát triển kinh tế của Việt Nam”. - Thứ ba: Trong quan hệ của Việt Nam với ASEAN cần xử lý tốt quan hệ với các nước lớn.Thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ chỉ rõ là : “Bàn đến triển vọng hoà bình , ổn định và phát triển ở toàn Đông Nam Á, ai cũng hiểu rằng cần tính đến tác động của cả 3 mối quan hệ : - Quan hệ giữa các nước có liên quan đến Đông Nam Á. - Quan hệ giữa các nước Đong Nam Á với các nước lớn . - Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với nhau. Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với nhau xét từ góc độ những kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam, còn trong quan hệ giữa các nước lớn xét từ góc độ của Việt Nam thì tam giác Xô-Mỹ- Trung có vị trí đặc biệt quan trọng ( với Liên Xô ở đây tất nhiên là thời kỳ Liên xô chưa tan rã – trước tháng 12-1991). Chẳng hạn, như đã biết , một trong những trở ngại lớn nhất đối với tiến trinh hội nhập của Việt Nam vào ASEAN là “vấn đề Cap-pu-chia”. Việt Nam đã làm tất cả những gì có thể với tất cả thiện chí của mình để giải quyết vấn đề này . Nhưng khó mà hình dung được rằng , có thể giải quyết được dễ dàng “ Vấn đề Cam-pu-chia” mà lại thiếu vai trò của của các nước lớn . Trên thực tế,” trong suốt thập kỷ 80, ta đã phải xử lý quan hệ với tất cả các nước lớn về giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia trước hết cũng là giải pháp do các nước lớn dàn xếp (G.5)”. Rõ ràng , trong quan hệ với ASEAN cũng như với tất cả các nước khác theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới”, những bài học rút ra từ lịch sử là hết sức bổ ích . Ngay từ nửa đầu thế kỷ XIX ,Bộ trưởng ngoại giao Áo là Mét-téc-ních (1773-1859) đã từng đưa ra một mệnh đề bất hủ : “Không có đồng minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích là vĩnh viễn mà chúng ta cần theo đuổi” . Trong khi chú ý và tôn trọng thích đáng các lợi ích chính đáng của các dân tộc – quốc gia khác, thì với chúng ta lợi ích của dân tộc Việt Nam là tối cao và vĩnh viễn . Nắm vững lợi ích dân tộc, nêu cao tinh thần độc lậ , tự chủ và quyền tự quyết dân tộc, hoà hiếu với các nước láng giềng, sẵn sàng là bạn với tất cả các nước “không gây thù oán với ai” như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1947, đó chính là những bảo đảm cho một Việt Nam có một môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển và một vị trí ngày càng cao trong cộng đồng thế giới . Cách đây 13 năm, đúng vào ngày 28/7/1995, lá cờ đỏ sao vàng Việt Nam tung bay tại thủ đô vương quốc Brunay - nước đăng cai kỳ họp bộ trưởng ngoại giao ASEAN (AMM) lần thứ 28 - đánh dấu ngày Việt Nam chính thức trở thành thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Một thập kỷ là quá ngắn với lịch sử của một dân tộc hay một khu vực nhưng thực tế, Việt Nam đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự phát triển chung của ASEAN và ngày càng chứng tỏ vị thế tiếng nói của mình trong khu vực và trên thế giới trên tất cả các mặt. Mười năm gia nhập ASEAN cũng đánh dấu thời kỳ đầu Việt Nam mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tham gia vào hiệp hội, Việt Nam đã có những đóng góp với trách nhiệm cao ở tất cả các mặt, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao... Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, ngay từ ngày đầu gia nhập, Việt Nam đã nhận thức được rằng luôn có một khoảng cách tồn tại giữa hai nhóm nước phát triển và chậm phát triển trong ASEAN. Về việc thu hẹp khoảng cách này để tạo ra sự phát triển bền vững trong ASEAN là rất quan trọng. Chính vì vậy, ngay từ Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Việt Nam đã đưa ra sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển với tuyên bố Hà Nội được thông qua tại hội nghị Bộ trưởng ngoại giao lần thứ 34. Sáng kiến này vừa đáp ứng nhu cầu của ASEAN muốn tăng cường liên kết nội khối, vừa phục vụ cho nhu cầu vươn lên của các nước thành viên mới là Lào, Campuchia, Mianma và Việt Nam. Qua mười năm thực hiện sáng kiến này hiện nay đã trở thành một ưu tiên lớn trong chương trình nghị sự của ASEAN. Như vậy, từ khi gia nhập đến nay Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ với các nước ASEAN ngày càng chặc chẽ và nâng cao vị thế của mình. Lời phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải nhân kỷ niệm 38 năm ngày thành lập Hiệp hội ASEAN (8/8/1967 – 8/8/2005) và kỷ niệm 10 năm ngày Việt Nam gia nhập hiệp hội, ngày 8/8/2205 đã có bài phát biểu quan trọng đánh giá lại những bước phát triển của cộng đồng ASEAN và mối quan hệ ASEAN - Việt Nam, Thủ tướng khẳng định: “Thành công lớn nhất của ASEAN là đã góp phần quan trọng vào việc duy trì và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác cùng phát triển ở khu vực Đông Nam Á... Hòa cùng dòng chảy chung của ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng cùng các nước thành viên khác đóng góp cho sự lớn mạnh chung của cả hiệp hội. Quan hệ Việt Nam ASEAN phát triển đều khắp trên tất cả các lĩnh vực ...” Như vậy, 13 năm, một chặng đường Việt Nam hội nhập vào khu vực. Việt Nam đã có những đóng góp nhất định cho sự tồn tại, phát triển của ASEAN và cũng đã đạt được những thành quả bước đầu. Phía trước của ASEAN tuy còn nhiều cơ hội để phát triển, song cũng không ít thách thức đòi hỏi Việt Nam cũng như các thành viên khác trong ASEAN phải tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ hơn nữa, cùng nhau đưa ra những ý tưởng mới và các biện pháp thực hiện các ý tưởng đó để có thể biến ý tưởng của “tầm nhìn 2020” thành hiện thực, xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN và trở thành một nhân tố chủ đạo của Cộng đồng Châu Á . (Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Quan hệ Việt Nam và ASEAN
Top