Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Quá trình di cư của người Hoa vào Việt Nam
Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại xảy ra một hiện tượng
vừa mang tính xã hội, vừa thể hiện quá trình phát triển tộc người của các
dân tộc, đó là hiện tượng di dân. Có lẽ trong quá trình phát triển của mình,
không một quốc gia nào trên thế giới lại không xảy ra quá trình di dân với
những nguyên nhân chính trị - kinh tế- xã hội hết sức khác nhau. Những đợt
di dân thường xuyên với những thời gian và cường độ khác nhau đã làm
thay đổi lãnh thổ tộc người và cơ cấu dân cư, bức tranh văn hoá cũng xuất
hiện những gam màu khác nhau, một khi xảy ra những cuộc di dân lớn có
thể làm nảy sinh ra những cộng đồng tộc người mới với những lãnh thổ tộc
người cũng được tổ hợp lại. Cuộc di dân của người Thái về phương Nam đã
làm thay đổi cơ cấu tộc người và địa bàn cư trú của dân bản địa. Giữa cư
dân bản địa và cư dân mới đến đã diễn ra một quá trình giao lưu kinh tế,
văn hoá với nhiều nét đặc săc..
Việt Nam - một đất nước liền kề với Trung Quốc có đất đai phì
nhiêu, tài nguyên thiên nhiên phong phú. Thật khó xác định chính xác
những người Hoa đầu tiên đã đến Việt Nam từ bao giờ, nhưng sự hiện diện
của họ trên mảnh đất này đã ghi nhận cách đây trên 2000 năm. Đúng như
Raymon. S de Seaghet trong sách ”Người Hoa tại Việt Nam” đã viết: “Thật
khó xác định những người Hoa đầu tiên đến Việt Nam khi nào, nhưng tối
thiểu là từ hai nghìn năn nay rồi”. Vào thế kỷ thứ II TCN, một nhà
cai trị người Hoa đã thiết lập vương quốc Nam Việt. Khi vương quốc này
sụp đổ vào năm 111 TCN, vùng đất này trở thành một tỉnh của đế quốc
Trung Hoa. Tình trạng này kéo dài một ngàn năm, cũng theo Raymon. S de
Seaghet “Người Hoa tiếp tục di dân xuống phía Nam ngay cả khi Việt Nam
giành được độc lập vào năm 939, một nền độc lập được kéo dài liên tục,
ngoại trừ một giai đoạn ngắn dưới quyền cai trị của người Trung Hoa trong
những năm 1400, cho tới khi Pháp xâm chiếm nước này vào thập niên
1860”. Các dợt di dân lớn của người Hoa sang Việt Nam đã được ghi
lại trong sử sách của Trung Quốc và Việt Nam như ”Sử kí Tư Mã Thiên”,
“Hậu Hán thư”, “Hoài Nam Tử”, “Tam Quốc chí”, “Ngô Việt Xuân Thu”,
“Minh thực lục”,” Ức Trai thi tập”, “Đại Việt sử kí toàn thư”, “Lịch triều
hiến chương loại chí”, ”An Nam chí lược”, “Đại Nam thực lục tiền biên”...
Cuộc di dân lớn đầu tiên của người Hoa xuống phương Nam được
bắt đầu từ chính sách Nam tiến của các triều đại phong kiến Trung Quốc.
“Năm thứ 33 (214 TCN) Tần Thuỷ Hoàng sai tất cả bọn lang thang, vô
thừa nhận, bọn ăn không ngồi rồi và bọn con buôn đi chiếm đất Lục Lương.
Ông lập ra các quận Quế Lâm (Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Đông) và
Quận Tượng (An Nam) và đầy những kẻ có tội đến ở đó để giữ”. “Khi Tần
Thuỷ Hoàng đã thôn tính thiên hạ và dẹp yên Dương Việt thì lập ra các
quận Quế Lâm, Nam Hải và Quận Tượng. Trong mười ba năm ông bắt bọn
côn đồ tù tội đem đến các nơi ở với dân Việt”. Hai đoạn trích trên
trong” Sử ký Tư Mã Thiên” cho thấy đoàn quân viễn chinh này không chỉ
có nhiệm vụ đánh chiếm đất, mà với thành phần cấu tạo của nó, nhà nước
phong kiến Trung Quốc đã có ý định chuẩn bị cho họ ở lại lâu dài trên
vùng đất mới chiếm.
Tiếp đó, vào cuối thế kỷ II TCN (năm 111 TCN), nước Âu Lạc của
người Việt bị nhà Hán chinh phục và bị sát nhập, trở thành quận, huyện của
đế quốc Hán. Từ thời điểm đó cho đến tận thế kỷ X, miền Bắc Việt Nam
ngày nảy trở thành một trong những nơi dừng chân trú ngụ của dân tị nạn,
những người di cư tự do và lính đồn trú Trung Hoa từ phương Bắc xuống.
Trong số những người di cư xuống phương Nam có cả tầng lớp thương gia
giàu có, quan lại, nho sĩ bất mãn với triều đình trong đó có cả nhà sư. Qua
nhiều thế hệ, một bộ phận trong số người di cư này đã kết hôn với người
bản địa và trở thành người địa phương thực thụ.
Theo các tài liệu lịch sử thì số người có gốc Hán cư trú trên đất Việt
Nam lúc đó lên tới hàng chục vạn người. Để dễ bề cai trị và phòng ngừa bất
trắc có thể làm tổn hại đén an ninh quốc gia, Ngô Quyền sau khi giành
được độc lập cho dân tộc (thế kỷ X) đã đưa trở lại Trung Hoa 87 ngàn
người Hán. Phần lớn trong số này là quan lại cai trị, binh lính và gia đình
của họ. Mặc dầu vậy, ở Việt Nam lúc đó có rất nhiều người Trung Hoa tự
nguyện ở lại Việt Nam sinh sống. Những người này được ghi vào sổ đinh
như những cư dân bản địa.
Từ thế kỷ X trở đi, dòng người Trung Hoa tiếp tục vào Việt Nam.
Giống như trước đây, dòng người Trung Hoa di cư rất đa dạng về thành
phần xã hội. Nhưng khác với giai đoạn hơn một nghìn năm Bắc thuộc, từ
thế kỷ thứ X Việt Nam ngày càng tiếp nhận nhiều hơn, quy mô lớn hơn
dòng người tị nạn Trung Hoa (đặc biệt là tị nạn chính trị) và dân di cư tự
do, trong đó có các thương nhân. Các nguồn thư tịch cổ Việt Nam ghi lại
rằng thời kỳ quân Nguyên Mông, tiến đánh Nam Tống và thiết lập ách cai
trị tại Trung Quốc (1279 – 1368) có hàng chục vạn người Hán phải chạy
lánh nạn ra nước ngoài. Chẳng hạn vào năm 1257, khi quân Nguyên tiến
vào Nam Tống, nhiều quan lại và binh lính Trung Hoa bỏ chạy sang nước
Đại Việt, trong số đó có Hoàng Vĩnh Mạc - một quan lại cấp cao của Nam
Tống. Vua Đại Việt lúc đó là Trần Thánh Tông đã cho phép các người tị
nạn này định cư tại Thăng Long.
Tương tự, vào năm 1276 khi Hàng Châu - thủ đô của Nam Tống thất
thủ thì làn sóng di cư của người Trung Hoa ra nước ngoài tăng cao hơn,
trong đó có 30 chiến thuyền của Nam Tống vượt biên bỏ chạy sang các
nước Đông Nam Á. Có nhiều tàu chiến đến Việt Nam để xin tị nạn, trong
đó thuyền của Đỗ Tôn, Trọng Trung và Tăng Uyên Tử. Nhà Trần đã chấp
nhận lời thỉnh cầu xin tị nạn của những người này và họ được phép định cư
tại kinh thành Thăng Long. Những người tị nạn Trung Hoa xuất thân từ
thành phần quan lại, tầng lớp trí thức được chính quyền nhà Tần đối đãi tử
tế và nhiều người trong số họ được trọng dụng, làm quan trong triều. Yếu
tố này đã làm cho một bộ phận người Trung Hoa di trú có điều kiện thuận
lợi để hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam.
Cuộc chiến tranh xâm lược do nhà Minh phát động đối với Đại
Việt và sự chiếm đóng của họ tại đây trong những năm 1418 – 1428
cũng tạo ra đợt di cư mới của người Trung Hoa. Cũng giống như các
cuộc hành quân cướp bóc và thôn tính trước đây, quân đồn trú Trung
Hoa được triển khai đông đảo ở những nơi chúng chiếm được và thực
hiện chính sách đồng hoá cao độ trong đó có việc tiêu huỷ các di sản văn
hoá của Đại Việt, gia tăng truyền bá văn hoá Hán và khuyến khích binh
lính kết hôn với người địa phương.
Sử sách có ghi lại rằng, sau khi ĐạiViệt đánh đưổi được quân Minh
xâm lược có rất nhiều binh lính Trung Hoa bị bắt làm tù binh không muốn
về nước, xin ở lại Việt Nam sinh sống. Một số khác thì không được phép trở
về Trung Hoa, những người này bị kiểm soát một cách gắt gao. Họ không
được thay đổi chỗ ở hoặc tự do đi lại nếu như không được phép của chính
quyền sở tại, và phải ăn mặc, sinh hoạt theo tập quán của người Việt. Đối
với những người Trung Hoa nhập cư nhưng là tầng lớp thương gia thì chính
quyền Lê Sơ lúc đó (1428 – 1592) cũng rất dè dặt với họ. Những người này
bị đánh thuế rất cao đối với các mặt hàng buôn bán của mình và không được
phép kinh doanh những mặt hàng như sách báo và các loại văn hoá phẩm
khác có xuất xứ từ Trung Quốc. Lê lợi, sau đó là Lê Thánh Tông, với mong
muốn củng cố nền độc lập chính trị với Trung Quốc, ngăn ngừa sự phá hoại
từ bên trong và củng cố bản sắc quốc gia, dân tộc Đại Việt nên đã đưa ra một
số chính sách khá khắt khe với người Trung Hoa di trú. Chính sách kiểm
duyệt gắt gao đối với kiều dân Trung Hoa dưới thời Hậu Lê dã góp phần hạn
chế dòng người Hoa di cư đổ vào Việt Nam, làm chậm qúa trình hình thành
cộng đồng người Hoa di trú như một thực thể tương đối ổn định, thường
xuyên trong cơ cấu xã hội ở Việt Nam ở thế kỷ XV – XVI.
Vào thế kỷ XVII, sự gia tăng một cách dòng người Trung Hoa di cư
ra nước ngoài đã tạo ra một bước ngoặt trong sự hình thành cộng đồng này
tại tại Việt Nam. Đó là sự sụp đổ của nhà Minh (Mãn Thanh lật đổ vào năm
1644). Nhằm đè bẹp những lực lượng chống đối trung thành với nhà Minh
và bình định những vùng đất còn lại, nhà Thanh trong những năm 70 – 80
của thế kỷ XVII đã mở những cuộc hành quân lớn vào các tỉnh phía Nam
Trung Quốc, nơi ẩn náu phần lớn toàn quân của nhà Minh. Để thoát khỏi bị
tiêu diệt, một bộ phận khá lớn quân trung thành với nhà Minh đã chạy sang
các nước Đông Nam Á xin tị nạn, trong đó có Việt Nam.
Các thư tịch cổ Việt Nam đã ghi lại rằng vào tháng giêng năm 1679
có một bộ phận khá lớn quân trung thành với nhà Minh gần 3000 người với
50 chiến thuyền do Dương Ngạn Dịch và Trần Thượng Xuyên chỉ huy vượt
biển chạy sang vùng đất Đàng Trong xin tị nạn. Chúa Nguyễn (lúc đó là
Nguyễn Phúc Tần) muốn sử dụng những người Trung Hoa di cư này để
khai khẩn đất hoang ở vùng đất phía Nam, nên đã đồng ý cho họ vào vùng
đất Đông Phố (ngày nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai)
sinh cơ lập nghiệp. Sau khi được phép định cư tại những địa phương trên,
họ đã lập nên những làng, phố kiểu Trung Hoa. Các chùa chiền, hội quán,
cơ sở chữa bệnh, giáo dục của họ lần lượt ra đời. Trong sử sách thường gọi
những người Trung Hoa di cư thế kỷ XVI – XVIII là Minh Hương. Nhờ
môi trường làm ăn thuận lợi nên khu vực này không những thu hút nhiều
người Trung Hoa di cư mới đến vùng Đông Phố, mà còn cả những khách
buôn người Arập, Nhật Bản, Ấn Độ và Châu Âu.
Từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII trở đi càng có thêm nhiều
người Trung Hoa nhập cư vào Việt Nam. Một trong số đó có nhóm dân tị
nạn chiến tranh do Mạc Cửu dẫn đầu gồm 400 người đến vùng đất Hà Tiên.
Họ cũng là tàn quân của nhà Minh, sau khi kháng chiến chống Thanh thất
bại tìm đường đến Đàng Trong xin cư trú chính trị. Chúa Nguyễn đã cho
phép những người này sinh cư lập nghiệp và trở thành thần dân của triều
đình. Năm 1708, chúa Nguyễn chấp nhận lời thỉnh cầu của Mạc Cửu cho
ông làm Thống đốc Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất (năm 1735), con của
ông là Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha trị vì vùng đất này. Những người
Trung Hoa di trú tại đất Hà Tiên dưới sự lãnh đạo của dòng họ Mạc (đặc
biệt dưới thời Mạc Thiên Tích) đã xây thành, mở chợ, đúc tiền đồng, phát
triển thủ công mỹ nghệ và xây dựng trường học. Họ đã biên vùng đất Hà
Tiên thành một trong những trung tâm thương nghiệp và truyền bá văn hoá
Trung Hoa ở ĐÀng Trong Đại Việt và Campuchia ở thế kỷ XVIII.
Như vậy, từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, khắp ba miền Bắc –
Trung – Nam của Đại Việt đã hình thành nên các cộng đồng dân cư của
người Hoa di trú tương đối ổn định và có vai trò quan trọng trong cơ cấu
dân cư – dân tộc và kinh tế - xã hội của Đàng Trong. Từ thời điểm này trở
đi (cuối thế kỷ XVII), Nam Bộ - miền đất mới của Việt Nam trở thành nơi
thu hút phần lớn dân Trung Hoa nhập cư trên phạm vi cả nước. Cả làng ,
phố của người Hoa di trú được hình thành ở những trung tâm kinh tế, chính
trị và văn hoá của Việt Nam như ở Trấn Biên (Biên Hoà), Phiên Trấn (Gia
Định), Hà Tiên, Hội An, Thanh Hà (Huế), Phố Hiến, Thăng Long... Hầu
hết người trung Hoa di trú gọi làng, phố của mình là làng, phố Minh Hương
hay Thanh Hà. Từ thế kỷ XVII trở đi, những nơi có đông người Hoa sinh
sống trở nên sầm uất, thương mại và nghề thủ công phát triển nhanh. Và
cũng từ thời gian này, tầng lớp nhà buôn người Hoa tại Việt Nam bắt đầu
được hình thành và sau đó họ có vai trò quan trọng trong việc môi giới –
buôn bán giữa Việt Nam với nước Ngoài, giữa người sản xuất và tiêu dùng
của cư dân bản địa.
NGUỒN : SƯU TẦM