• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Phong trào tây sơn bùng nổ và thắng lợi

Trang Dimple

New member
Xu
38
PHONG TRÀO TÂY SƠN BÙNG NỔ VÀ THẮNG LỢI
[h=1] 1. Vài nét về phong trào Tây Sơn và căn cứ Tây Sơn[/h][h=1] 1.1. Anh em Tây Sơn[/h] Năm 1771, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo.

Tổ tiên 4 đời của anh em Tây Sơn có gốc ở Hưng Nguyên (Nghệ An), thuộc đất Đàng Ngoài. Trong chiến tranh Trịnh – Nguyễn, năm 1655 khi quân Nguyễn vượt sông Gianh đánh chiếm Đàng Ngoài đã bắt tù binh và nông dân vào Đàng Trong. Trong đó có người tên là Hồ Phi Khanh (chính là tổ 4 đời của anh em Tây Sơn) cùng với một số nông dân đưa vào khai khẩn vùng đất thuộc ấp Tây Sơn.

Sau một quá trình lao động cần cù, cực khổ, tổ tiên của anh em Tây Sơn đã tạo đựoc một cơ ngơi khá giả. Anh em thân sinh của ba anh em Tây Sơn là Hồ Phi Thúc đã lấy bà Nguyễn Thị Đồng và chuyển về sinh sống ở làng Kiên Thành (Tây Sơn Hạ đạo).

Ngay từ thuở nhỏ, ba anh em Nguyễn Nhạ, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã đựoc thầy Nguyễn Văn Hiến dạy học. Thầy giáo Nguyễn Văn Hiến vốn là một môn khách của Ngoại hữu Trương Văn Hạnh. Năm 1765, Trương Phúc Loan cùng một số quan đại thần trong triều đã làm giả duy mệnh của chúa Nguyễn Phúc Khoát, bỏ Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, lập Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi. Trương Phúc Loan loại trừ một số quan lại không ăn cánh với y, Trương Văn Hạnh bị giết. Nguyễn Văn Hiến phải chạy trốn khỏi sự truy sát của Trương Phúc Loan vào Quy Nhơn. Vào đến Quy Nhơn, ông lưu lạc ở làng Kiên Thành và được ông Hồ Phi Phúc cưu mang, che chở. Cảm kích trước tấm lòng của Hồ Phi Phúc, ông đã ở lại dạy văn võ cho anh em Tây Sơn.

Ngoài việc truyền kiến thức, thầy Nguyễn văn Hiến còn dạy cho anh em Tây Sơn sự thối nát của chốn quan trường và nổi khổ của dân. Anh em Tây Sơn lại sinh trưởng ở vùng Quảng Nam – là nơi mâu thuẩn giai cấp phát triển gay gắt nhất ở Đàng Trong. Do vây, ba anh em Tây Sơn sớm bất bình với chế độ phong kiến thống trị của chua Nguyễn và oán ghét bọn quan lại, cường hào.

Nguyễn Nhạc (anh cả) là một người cơ mưu, ông đã từung đi buôn trầu hay qua lại miền thượng, quen biết rất nhiều già làng người Bana. Sau đó, giữ chức Biện lại (viên quan thu thuế) trấn Vân Đồn. Nguyễn Nhạc lại lấy con gái của một tù trưởng Bana và quen biết rất nhiều người Chăm ở thượng đạo. Qua thời gian làm Biện đạo, ông thấy được sự bóc lột nặng nề của quan lại phong kiến và hiểu được khát vọng của người nông dân, mặt khác ông còn bị Đốc Trưng đè nén và hạch sách nên càng quyết tâm khởi nghĩa.

Nguyễn Huệ (em thứ hai) là một người thông minh và có nhiều khả năng về quân sự, chính trị đã cùng anh của mình tổ chức khởi nghĩa. Trong thời gian xây dựng lực lượng, ông đã đi nhiều vùng và thuyết phục đựoc nhiều hào kiệt như Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân… Ông còn đóng góp sức mình trong việc xây dựng căn cứ Tây sơn Thượng đạo. Đào Nguyên Phổ nhận xét về Nguyễn Huệ: “Nguyễn Văn Huệ sin hra tiếng sang sảng như chuông kêu, mắt lấp lánh như chớp nhoáng, tính tình giAảo hoạt, dụng binh đánh trận rất giỏi, người ta ai cũng đều sợ”.

Nguyễn Lữ (em thứ ba) cũng có những đóng góp trong việc huấn luyện nghĩa quân như: sáng tác bài võ Hùng Kê Quyền và trực tiếp tham gia khởi nghĩa từu những ngày đầu.
[h=1] 1.2. Căn cứ Tây Sơn[/h] Căn cứ Tây Sơn thuộc ấp Tây Sơn, huyện Phù Mỹ, phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam (gồm các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai ngày nay). Vùng quảng Nam vốn là một vùng trù phú. Các nhà buôn bán nước ngoài thường coi Quảng Nam là một trung tâm kinh tế giàu có vào loại bậc nhất Đàng Trong. Và Quảng Nam cũng là nơi có chế độ thuế khóa nặng nề nhất.

Ấp Tây Sơn có hai vùng là Tây Sơn Thượng đạo và Tây Sơn Hạ đạo. Đây là vùng có vị trí thuận lợi xung yếu. Từ đây, nghĩa quân có thể uy hiếp đồng băng và bao vây phủ Quy Nhơn, cắt đôi giang sơn của họ Nguyễn. Vùng này có nhiều voi, ngựa và các thứ lâm sản khác, là hậu phương tại chổ cho nghĩa quân. Cư dân vùng này, ngoài người Việt còn có nhiều thành phần khác như Chăm, Bana, Xêđăng, Giarai… đều được tập hợp dưới ngọn cờ chính nghĩa của nghĩa quân.

Ban đầu, anh em Tây Sơn chọn Tây Sơn Thượng đạo là nơi xây dựng căn cứ và chuẩn lực lượng. Tây sơn Thượng đạo là một vùng cao nguyên và rừng núi rộng lớn chiếm gần ¾ đất đai của phủ Quy Nhơn. Căn cứ Tây Sơn Thượng đạo nằm trọn vẹn ở thung lũng An Khê (Gia Lai) gồm hai phần: Tây Sơn nhất và Tây Sơn nhị. Phần lớn căn cứ của nghĩa quân ở Tây Sơn nhị, nơi đây là vùng cư trú chủ yếu của người Bana và một số ít người Việt. Ở đây, Nguyễn Nhạc đã đắp lũy dựa trên địa thế núi rừng hiểm trở. Dấu tích còn lại là lũy An khê gồm có 7 cạnh, 4 cửa Bắc, Nam, Đông, Tây, vừa kiểm soát được con đường độc đạo lên cao nguyên Plâycu, vừa dễ dàng rút lui vào rừng núi.

Toàn bộ căn cứ Tây Sơn Thượng đạo nằm trong một thung lũng khá rộng liên hệ với Tây sơn Hạ đạo qua đèo Mang và cao nguyên Plâycu qua đèo Mang Giang. Từ căn cứ, nghĩa quân có thể theo đường mòn suống Tây sơn Hạ đạo và vùng đất Phú Yên. Theo đường thủy, nghĩa quân có thể xuôi dòng sông Ba tới Phú Yên, theo dòng sông Côn tới Tây Sơn Hạ đạo và phủ lỵ Quy Nhơn. Chính những con đuờng thủy, bộ này đã tạo khả năng liên kết các vùng làm cơ sở cho anh em Tây Sơn liên kết lực lượng và là con đường buôn bán để cung cấp lực lượng cho nghĩa quân.

Tây Sơn Hạ đạo là một vùng đất bằng phẳng, khá trù phú gần với phủ thành Quy Nhơn. Cuối 1772, Nguyễn Nhạc mở rộng căn cứ, tiến quân từ Tây sơn Thượng đạo xuống Tây Sơn Hạ đạo, thành lập đại bản doanh ở Kiên Thành.

1.3. Những ngày đầu khởi nghĩa

Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo và dưới sự hưởng ứng đông đảo của đồng bào miền thượng, Nguyễn Nhạc đã cho xây dựng đồn lũy ngay trên đỉnh đèo An Khê. Trung tâm căn cứ này nằm ở thôn An Lũy, huyện an khê, Gia Lai.

Để phát động lực lượng dân nghèo đứng dậy đấu tranh, Nguyễn Nhạc nêu cao khẩu hiệu “lấy của người giàu chia cho dân nghèo”. Khẩu hiệu đấu tranh thiết thực đã đáp ứng nguyện vọng của người dân nghèo khổ và có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ đông đảo quần chúng lao động vùng dậy khởi nghĩa.

Từ căn cứ, nghĩa quân thường chia thành các toán nhỏ gồm vài trăm người về giải phóng các làng xã. Nghĩa quân trừng trị bọn xã trưởng, tịch thu các loại giấy tờ, kế ước phong kiến rồi đốt trước mặt quần chúng, tuyên bố bãi bỏ mọi thứ thuế. Vì vậy, nhân dân ở mọi nơi đều tích cực tham gia hưởng ứng. Mặt khác, lợi dụng mâu thuẩn giữa các phe phái phong kiến và để cô lập kẻ thù, Nguyễn Nhạc còn khôn khéo nêu lên khẩu hiệu: “Ủng hộ Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, diệt trừ bọn Dương Thúc Loan”. Đi tới đâu nghĩa quân cũng được ủng hộ, số người tham gia ngày càng đông.

Những đường lối vận động cách mạng và khẩu hiện đấu tranh nói trên đã đoàn kết và tập hợp lực lượng để đánh địch. Ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa, trong hàng ngũ nghĩa quân không chỉ có các tầng lớp nhân dân và đủ mọi thành phần dân tộc mà còn có những người giàu có như Nguyễn Thung, Huyền Khuê, thương nhân Hoa Kiều. Một phong trào nông dân trong thời phong kiến mà có được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia như thế là điều hiếm có.

Với sự nhiệt tình phản ứng của quảng đại quần chúng nhân dân ngay từ ngày đầu khởi nghĩa, lực lượng vũ trang của phong trào Tây Sơn đã tới 3000 người. Căn cứ địa Quy Nhơn lại có nhiều voi, ngựa tốt. Đồng bào miền núi Quy Nhơn có truyền thống đua ngựa, quản tượng giỏi. Đồng bào cả miền Quy Nhơn, Kinh, Thượng đều có truyền thống thượng võ, giỏi quân sự. Cho nên những đội quân đầu tiên của phong trào Tây Sơn đã là những đội quân thiện chiến và dũng cảm.

Tới năm 1773, lực lượng vũ trang của nghĩa quân đã có tới hàng vạn người. Căn cứ địa của nghĩa quân gồm một khu vực rộng lớn của phủ Quy Nhơn. Vùng An Khê và ba huyện Phù Ly, Bồng Sơn, Tuy Viễn. Tới đây, công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa đã đựoc hoàn thành. Nghĩa quân có thế kiểm soát hoàn toàn vùng Quy Nhơn. Giờ khởi nghĩa đã tới. Nghĩa quân có thể mở những cuộc tấn công đầu tiên vào quân địch và nắm chắc phần thắng lợi.
[h=1] 2. Lật đổ ách thống trị của họ Nguyễn, đánh tan quân Xiêm[/h][h=1] 2.1. Tạm hòa hoãn với quân Trịnh[/h] Mùa thu năm 1773, Nguyễn Nhạc quyết định mở một cuộc tấn công đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Đạo quân tiên phong của nghĩa quân do Nguyễn Thung, Nhung Huy và Tứ Linh chỉ huy tiến lên bao vây phủ thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc giả bị bắt, cho người đóng củi khiêng vào thành Quy Nhơn nộp cho tuần phủ Nguyễn Đắc Tuyên. Đang đêm, Nguyễn Nhạc phá củi và đánh chiếm được phủ Quy Nhơn. Tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên và toàn bộ quân Nguyễn phải chạy trốn.

Chiếm được phủ thành Quy Nhơn, nghĩa quân tiếp tục phát triển ra phía Bắc và vào phía Nam. Ở phía Nam, quân Tây Sơn đánh đuổi quân Nguyễn qua đèo Cù Mông và sau đó chiếm toàn bộ vùng đất Phú Yên cho đến Bình Thuận. Năm 1774, Lưu Thủ Long Hồ là Tống Phú Hiệp mang quân từ Gia Định tiến đánh nghĩa quân, chiếm lại vùng đất này và đẩy quân Tây Sơn về phía bên kia đèo Cù Mông.

Ở phía Bắc, nghĩa quân tiến đánh và chiếm được Kiến Dương và Đạm Thủy, giết được đốc Trưng Đằng và khâm sai Lượng. Thừa thắng, nghĩa quân tiến đánh và chiếm được Quảng Ngãi, uy hiếp Quảng Nam. Trong lực lượng nghĩa quân có thêm đông đảo nông dân ở các vùng này, đáng chú ý là hai đạo quân của thuwong nhân người Hoa là Hòa nghĩa quân của Lý tài và Trung nghĩa quân của Tập Đình.

Triều Nguyễn hoảng sợ vội cử 4 tướng lĩnh cấp cao là Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách, Tống Sùng và Đỗ Văn Hoảng mang quân chống cự. Nghĩa quân rút về Thạch Tân, đặt phục binh đánh bại các cánh quân của chúa Nguyễn ở vùng giáp ranh là hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, giết chết 3 tướng Nguyễn là Nguyễn Cửa Sách, Tống Sùng và Đỗ Văn Hoảng. Trận đại thắng này đã nâng cao thanh thế của nghĩa quân và cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của quân dân.

Cũng từ đây, thế và lực của họ Nguyễn bị phân tán và suy yếu hẳn, không thể không thoát khỏi tình trạng bị tiêu diệt hoàn toàn. Triều Nguyễn bị kẹp giữa hai lực lượng đối địch: mặt Bắc là quân Trịnh, mặt Nam là Tây Sơn.

Nhận thấy tình hình nguy khốn của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt liền dâng thư với chúa Trịnh Sâm. Sẳn mưu đồ tiến đánh Đàng Trong, thống nhất quyền lực, Trịnh Sâm liền sai Hoàng Ngũ Phúc làm Bình Nam thượng tướng quân cùng với bọn Búi Thế Đạt, Hoàng Đình Thể mang 3 vạn quân tiến vào Đàng Trong.

Năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh lần lượt đánh chiếm Bố Chính, Đồng Hới tiến nhanh vào Thuận Hóa. Ngày 30/01/1975 quân Trịnh hạ thành Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ kinh thành chạy vào Quảng Nam. Để Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dương ở lại chống cự. Không kịp để cho bọn chúa Nguyễn nghĩ ngơi, nghĩa quân Tây Sơn theo ha đường thủy, bộ tiến vào Quảng Nam, bắt được Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dương tại Cu Đê và chiếm lấy Quảng Nam.

Tháng 3 năm 1775, quân Trịnh tiến đánh Quảng Nam. Nghĩa quân cũng tiến lên Quảng Nam để lùng bắt Nguyễn Phúc Dương.

Tháng 4 năm 1775, quân Trịnh tiến đánh quân Tây Sơn. Lần đầu tiên nghĩa quân Tây Sơn tiếp xúc với quân Trịnh đang trên đà thắng lợi: Nguyễn Nhạc cử Tập Đinh làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, tiến đánh quân Trịnh ở Cẩm Sa thuộc Quảng Nam. Nhưng Tập Đình bị đại bại, bỏ trốn khỏi nghĩa quân tìm đường chạy về Trung Quốc. Nguyễn Nhạc và Lý Tài phải rút quân về Bản Tân. Quân Trịnh vẫn tiến, Nguyễn Nhạc rút quân về Qui Nhơn.

Thấy nghĩa quân Tây Sơn đang bị thất bại nặng nề trước sức tấn công của quân Trịnh, tháng 5năm 1775, tứơng Nguyễn là Tống Phú Hiệp đem quân đánh chiếm toàn bộ Phú Yên. Nghĩa quân phải rút từ Phú Yên về Quy Nhơn.

Như vậy, căn cứ địa của nghĩa quân bị thu hẹp trong phạm vi Qui Nhơn, Quảng Ngãi và lâm vào thế kẹp giữa hai gọng kìm: Quân Trịnh ở phía Bắc Quy Nhơn và quân Nguyễn của Tống Phúc Hiệp ở phía Nam Quy Nhơn. Quân địch ở cả hai mặt này tổng số lên tới 5- 6 vạn quân. Nghĩa quân ở trong cái thế không thể đương đầu cùng một lúc hai kẻ thù Trước hoàn cảnh nguy hiểm đó, nghĩa quân đã sử dụng biện pháp ngoại giao để chặn một tay kẻ thù và chuẩn bị tấn công một kẻ một trong hai kẻ thù ấy thì, quân Trịnh của Hoàng Ngũ Phúc là nguy hiểm nhất. Cần phải hòa hoãn với quân Trịnh.

Tháng 7 năm 1775, Nguyễn Nhạc sai người mang vàng, bạc, châu báu và một bức thư đến doanh trại Hoàng Ngũ Phúc “xin hàng”, nộp ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên và xin làm tướng tiên phong đi đánh quân Nguyễn. Lúc này, thời tiết nóng nực, quân Trịnh mệt mỏi, tinh thần binh sĩ hoang mang nên Hoàng Ngũ Phúc phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng tráng tiết tướng quân và sai mang quân đi đánh quân Nguyễn.

Nhưng tướng Trịnh vẫn không lui quân, đóng nguyên vị trí cũ sát với căn cứ địa của Tây Sơn, với ý đồ: nếu quân Tây Sơn đánh thắng quân Nguyễn thì quân Trịnh sẽ tiến theo sau, chiếm lấy thành quả của nghĩa quân mà không phải tốn sức. Nếu nghĩa quân không thắng thì sẽ tiến vào căn cứ Quảng Ngãi, Quy Nhơn tiêu diệt nghĩa quân, trực tiếp đối phó với quân Nguyễn.

Nghĩa quân thấy rõ mưu đồ của quân Trịnh, quyết định phải đánh chiếm đựơc Phú Yên, đẩy lùi quân Nguyễn về phía Nam, đồng thời lấy chiến thắng đó làm áp lực buộc quân Trịnh không được xâm phạm vào căn cứ của nghĩa quân.

2.2. Đánh đuổi chúa Nguyễn, giành chủ quyền đất nước ở đàng trong

.2.2.1. Chiến thắng Phú Yên

Năm 1775, Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Hụê đem đại quân đi đánh Phú Yên. Tại đây quân của Tống Phúc Hiệp có 2 vạn quân. Nguyễn Nhạc bề ngoài giả vờ liênn kết với Tống Phúc Hiệp đề lập Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dươngên ngoi chúa, Tống Phúc Hiệp tưởng thật, hội ngộ với quân của Nguyễn Nhạc. Nhân đó, Nguyễn Huệ mang quân đánh úp Phú Yên rồi giao cho Lý Tài Trần giữ. Như vậy là 2 vạn quân của Tống Phúc Hiệp bị tan rã, Phú Yên thuộc quyền kiểm soát của quân Tây Sơn. Quân Nguyễn bị đẩy lùi xuống phía Nam và từ đây mất hẳn khả năng tấn công Tây Sơn.

Trong khi Nguyễn Huệ đánh Phú Yên thì tướng Trịnh cũng thừa cơ tiến sau một bước vào gần căn cứ của nghĩa quân ở Chu Ổ. Nhưng với chiến thắng vang dội của Nguyễn Huệ ở Phú Yên làm cho quân Trịnh phải kính nể. Theo yêu cầu của Nguyễn Nhạc, Hoàng Ngũ Phúc phải phong cho Nguyễn Huệ là Tiên phong tướng quân.

Sau đó, tự thấy không thể đàn áp được phong trào Tây Sơn, Hoàng Ngũ Phúc phải rút quân về Bắc Hà. Nghĩa quân từ đây rảnh tay vì không phải đối phó với quân Trịnh.

Như vậy, chiến thắng Phú Yên của nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ có tác dụng quan trong, làm thay đổi cục diện hoàn toàn có lợi cho Tây Sơn. Chiến thắng Phú Yên đã gỡ cho nghĩa quân Tây Sơn ra khỏi thế kiềm kẹp của hai gọng kiềm của cả hai thế lực mạnh Trịnh – Nguyễn, vĩnh viễn ngăn chặn bước tiến vào nam của quân Trịnh và mở đường cho sự phát triển rộng lớn ra toàn quốc của phong trào nông dân Tây Sơn.
[h=1] 2.2.2. Chiến thắng Gia Định lần I[/h] Sau khi chiến thắng Phú Yên, cả hai kẻ địch mạnh Nguyễn – Trịnh đều bị đẩy lùi ra căn cứ Quy Nhơn của nghĩa quân. Được rảnh tay đối phó với quân Trịnh các lãnh tụ Tây Sơn quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt họ Nguyễn ở miền nam.

Năm 1776, Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Lữ mang thủy binh đánh chiếm Gia Định và các dinh trấn ở Nam Bộ. Quân Tây Sơn chiếm được Gia Định và các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Chúa Nguyễn Phúc Thuần và tôn thất của họ Nguyễn phai rtrốn về Tây Nam Bộ. Tống Phúc Hiệp phải mang quân từ Bình Khang về chiếm lại Trấn Biên.

Ở Mỹ Tho, lực lượng thương nhân Hoa Kiều và đại địa chủ Nam Bộ đã thành lập đội quân Đông Sơn (đối lập với Tây Sơn) dưới sự lãnh đạo của Đỗ Thành Nhơn và tiến về Gia Định.

Nguyễn Lữ phải ra lệnh tịch thu lương thực, của cải rồi rút về Quy Nhơn.

Như vậy, quân Nguyễn mặc dù chiếm được Gia Định nhưng phải rút bỏ các phủ Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận.

Sau khi rút khỏi Gia Định về Tây Sơn, Nguyễn Phúc Thuần đem quân trở về Gia Định.

Trong nội bộ triều Nguyễn chia làm hai phe phái: phe Nguyễn Phúc Thuần và phe Nguyễn Phúc Dương.

Tình hình đó là điều kiện thuận lợi để nghĩa quân Tây Sơn đánh Gia Định. Nguyễn Huệ được cử làm tướng, đem quân đi đánh Gia Định.

Tây Sơn đã tậo trung một lực lượng tương đối quan trọng, có thủy và bộ binh cùng phối hợp tác chiến.

Tháng 3/1777. Nguyễn Huệ bắt đầu tiến công.

Cánh quân thủy do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy , tiến đánh biển Cần Giờ, đánh lên Gia Định.

Cánh quân đường bộ tiến theo đường núi đánh phá khắp một dãi từ Phú Yên, Bình Thuận vào đấn Trấn Biên, cắt đứt mối quan hệ giữa các cánh quân Nguyễn ở đây với những cánh quân Nguyễn ở Gia Định.

Được tin Nguyễn Huệ đem quân theo hai đường thủy bộ tiến vào, Nguyễn Phúc Dương để Lý Tài ở lại phần Gia Định, một mình đem quân đóng ở Trấn Biên với ý định tránh đòn mãnh liệt của Nguyễn Huệ, giữ gìn lực lượng, chờ thời cơ phản công.

Hai bên giáp chiến, quân Nguyễn bị thiệt hại nặng nề. Nguyến Huệ tấn công vào thành. Trước thế mạnh của Tây Sơn, đạo quân Lý Tài bị thất bại dồn dập và tan rã dần dần.

Nguyễn Phúc Thuần và các tướng lĩnh như cha con: Trương Phúc Thận, Nguyễn Danh Khoáng, Nguyễn Phúc Đồng đều chịu tội chết ở Gia Định vào ngày 19/10/1777.

Như vậy là những bọn chúa Nguyễn đương thời, Thái thượng vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương cùng đại bộ phận quân đội và tướng lĩnh nhà Nguyễn đều bị tiêu diệt. Toàn bộ đất đai miền Gia Định từ Phú Yên đến Hà Tiên đều thuộc quyền kiểm soát của Tây Sơn.

Tháng 3/1777, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, phong cho Nguyễn Huệ làm phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thái phó, xây dựng lại thành Đồ Bàn và đổi tên là thành Hoàng Đế, mở đầu cho quá trình phong kiến hóa.

Năm 1778, nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ làm Long nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế.
[h=1] 2.2.3. Chiến thắng Gia Định lần 2 (1782) và lần 3 (1783)[/h] Sau khi thoát khỏi Long Xuyên, Nguyễn Ánh và gia quyến của y lẫn trốn vào rừng và lẽn chạy về phía Mạn Bắc (Trà Vinh) nương nhờ cố đạo Bá Đa Lộc đang ở đó.

Tháng 2/1778, Nguyễn Nhạc cho quân theo hai đường thủy bộ đánh quân Nguyễn. Tổng đối Tây Sơn là Chu chỉ huy quân đánh phá các các miền ven sông ở Biên Hòa và Gia Định. Hộ giá Tây Sơn Phạm Ngạn đem quân đánh xuống Biên Hòa. Nhưng cả hai đạo quân bị thất bại và phải rút về Quy Nhơn. Kết quả là quân Tây Sơn mất cả Gia Định và Bình Thuận.

Nhận thấy chưa thể giải quyết ngay vấn đề Gia Định và cần phải có thời gian xây dựng hậu phương, tăng cường lực lượng, các lãnh tụ Tây Sơn quyết định ngững ngững cuộc tấn công hằng năm vào Gia Định cho tới khi có đủ điều kiện chiến thắng.

Trong khoảng thời gian này, Nguyễn Ánh đã có hai cơ hội thuận lợi để xây dựng lực lượng và tiến tới mưa đồ tấn công quân Tây Sơn.

Đầu năm 1781, Nguyễn Ánh có 3 vạn quân thủy bộ, 80 thuyền chiến hạng vừa, 3 thuyền chiến lớn, 2 chiến tàu kiểu Âu Châu và 3 tàu Bồ Đào Nha.

Tháng 5/1781 Nguyễn Ánh cử binh và tiến đánh quân Tây Sơn tại Bình Khang (tức Khánh Hòa). Tại Bình Khang, quân Tây Sơn có một đội tượng binh rất lớn. Khi quân Nguyễn tới nơi, chưa kịp khiêu chiến thì đã bị quân tây Sơn tấn công trước. Quân Tây Sơn cho toàn bộ voi chiến xung trận, quân Nguyễn hoảng sợ, bỏ chạy hỗn loạn. Quân Tây Sơn đánh đuổi dồn dập. Trong tình hình đó, đạo quân thủy của nhà Nguyễn throng thành Gia Định không ra được

Quân Tây Sơn đại thắng ở Bình Khang, âm mưu của Nguyễn Ánh hoàn toàn thất bại. Sau chiến thắng ở Bình Khang, 3/1782 Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chỉ huy một đạo quân xuất phát từ Quy Nhơn đánh Gia Định.

Quân Nguyễn Ánh đã trong tư thế sẳn sàng đối phó. Thuyền chiến của quân Nguyễn đánh chặn dữ dội, còn quân Tây Sơn đang thuận buồm xuôi gió nên cũng tấn công rất mạnh.

Trước sự chỉ huy tài tình của Nguyễn Huệ và sự anh dũng của lính thủy, các thuyền chiến của Nguyễn Ánh phải rút lui và bỏ chạy về Bến Nghé. Nguyễn Huệ cho quân đuổi theo và đánh hạ thành Gia Định.

Như vậy, toàn vùng Gia Định lại thuộc về quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.

2.2.4. Chiến thắng Liên quân Xiêm - Nguyễn

Tháng 2/1784 Nguyễn Ánh cầu cứu đến vua Xiêm. Đầu tháng 6, vua Xiêm cho hai chấu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem hai vạn thủy quân và 800 thuyền chiến theo Nguyễn Ánh về Gia Định và thực hiện cuộc phản công.

Tháng 7/1784, cuộc phản công của Nguyễn Ánh bắt đầu. Tuy nhiên cuộc phản công cũng không đem lại kết quả như Nguyễn Ánh mong muốn. Nguyễn Ánh lại đi nhờ Bá Đa Lộc đi cầu viện nơi khác. Nguyễn Huệ đã cho dàn trận tại Rạch Gầm – Xoài Mút và đánh tiêu tan quân Nguyễn Ánh cũng như các lực lượng cầu viện.

Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút chứng tỏ quân Tây Sơn đã trưởng thành vượt bật cả về thế và lực, không còn là những toán du kích nhỏ bé, trang bị thô sơ nữa mà đã trở thành một đội quân tinh tinh nhuệ, thiện chiến, có thủy quân và pháo binh, đủ sức đánh những trận lớn.

Chiến thắng này đồng thời kết thúc một giai đoạn phát triển của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền họ Nguyễn.
[h=1] 3. Đập tan tập đoàn Lê – Trịnh, xóa bỏ ranh giới sông Gianh[/h][h=1] 3.1. Chiến dịch Phú Xuân 1786[/h][h=1] Sau khi làm chủ Nam Trung Bộ và Nam Bộ, Tây Sơn được rãnh tay đói phó với quân Trịnh ở phía bắc [/h] Nhận thấy thời cơ đánh Bắc Hà, Nguyễn Huệ đề nghị Nguyễn Nhạc đánh ra bắc nhưng Nguyễn Nhạc ngần ngại chưa quyết

Sang tháng 4/1786, Phạm Ngô Cầu sai sứ là Nguyễn Phú Như vào Quy Nhơn mượn tiếng trao đổi vấn đề biên giới, nhưng thực ra muốn dò tình hình Tây Sơn. Phú Như vốn có quen biết với Nguyễn Hữu Chỉnh, bèn mang tình hình Thuận Hóa nói lại. Hữu Chỉnh bèn xin Nguyễn Nhạc ra quân đánh Thuận Hóa. Lúc đó Nguyễn Nhạc mới quyết định.

Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy các cánh quân thủy bộ, Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân. Theo giáo sĩ La Grand de la Liraye trong cuốn Notes historiques sur la nation annamite, tổng số quân Tây Sơn tham chiến gồm 5.000 tiền quân, 2.000 hậu quân và 3.000 thủy binh, tất cả 1 vạn người.

Phía quân Trịnh có trên 3 vạn quân. Từ khi Hoàng Ngũ Phúc và Bùi Thế Đạt rút đi (1775) đã bố trí lực lượng phòng bị. Từ sông Gianh tới đèo Hải Vân, có nhiều đồn để cứu ứng cho nhau. Tuy nhiên, đất Thuận Hóa trong nhiều năm không có chiến tranh, quân số tuy khá đông nhưng phòng thủ không chặt chẽ. Chủ tướng Phạm Ngô Cầu chuyên làm việc buôn bán, không sắm sửa khí giới phòng bị lương thực nên quân Trịnh và dân đều chán nản khinh thường.

Nhằm triệt để lợi dụng thời tiết mùa hè, gió nồm thổi mạnh có thể đưa thủy quân tiến nhanh ra đánh phá phía bắc, Nguyễn Huệ lập kế hoạch đánh bất ngờ ở các điểm phòng thủ quân Trịnh từ sông Gianh trở vào, từ Hải Vân trở ra và từ cạnh sườn vào Phú Xuân

Biết Phạm Ngô Cầu là người tin vào việc bói toán, Nguyễn Huệ sai một thủ hạ người Hoa giả làm thày bói tới Phú Xuân ra mắt quận Tạo Phạm Ngô Cầu, khuyên Cầu nên lập đàn giải hạn. Quận Tạo nghe theo, bèn lập đàn chay ở chùa Thiên Mụ trong 7 ngày 7 đêm, bắt quân phục dịch vất vả. Trong khi tướng sĩ phía Trịnh mất cảnh giác thì quân Tây Sơn bắt đầu lên đường ra bắc ngày 28 tháng 4 âm lịch tức 25 tháng 5 năm 1786.

Đèo Hải Vân tuy xung yếu, đồn lũy kiên cố nhưng từ nhiều năm quân Trịnh đã khá trễ nải trong việc phòng thủ. Chủ tướng quân Trịnh tại đây là Hoàng Nghĩa Hồ.

Khoảng trung tuần tháng 5 âm lịch năm 1786, đạo quân bộ của Tây Sơn do Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy đã tập kích bất ngờ nơi này, quân Trịnh không kịp trở tay. Hoàng Nghĩa Hồ mang quân ra địch bị thua trận và chết tại chiến trường.

Đánh chiếm được Hải Vân, Nguyễn Huệ lập tức thúc quân tiến thẳng ra Phú Xuân.

Trong lúc Nguyễn Huệ tác chiến ở phía nam thì Nguyễn Lữ mang quân thủy ra sông Gianh. Tại đây, quân Tây Sơn chia làm 2 cánh. Một cánh án ngữ sông Gianh ngăn viện binh Trịnh từ bắc sông Gianh kéo vào; cánh kia tiến xuống chiếm đồn Bố Chính và lũy Đồng Hới.

Tuy tại đây có không ít đồn phòng thủ nhưng các cánh quân Trịnh tại đây đều có tinh thần chiến đấu thấp. Khi quân Tây Sơn kéo đến, các tướng sĩ Bắc Hà đều bỏ thành lũy chạy trốn[SUP][14][/SUP]. Khi quân Tây Sơn chiếm được Bố Chính sắp tiến vào Leo Heo thì quân Trịnh tại đây cũng bỏ chạy, nhưng bị dân địa phương bắt nộp cho quân Tây Sơn.

Quân Tây Sơn tiến đánh lũy Đồng Hới (lũy Thầy) do Phái Vị hầu và Ninh Tốn chỉ huy. Tuy thành lũy khá kiên cố nhưng tinh thần quân Trịnh tại đây cũng bạc nhược. Hai tướng Trịnh sợ bị đánh từ cả đường thủy lẫn đường bộ, không dám chống cự bèn theo đường núi trốn thoát về Bắc. Ngày 26 tháng 5 âm lịch tức 21 tháng 6, quân Tây Sơn chiếm đóng lũy Đồng Hới.

Trong khi Phạm Ngô Cầu vẫn đang cầu cúng ở chùa Thiên Mụ thì tàn quân Trịnh ở Hải Vân chạy về báo tin Hoàng Nghĩa Hồ tử trận. Quận Tạo hoảng sợ, biết mình mắc mưu quân Tây Sơn, vội lệnh cho quân sĩ về thành chuẩn bị đối phó, nhưng các tướng sĩ vất vả phục dịch nhiều ngày nên mỏi mệt và tinh thần chiến đấu suy nhược.

Để ly gián các tướng Trịnh giữ Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể, Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh, dùng Chỉnh đứng tên nhân danh người quen cũ, viết thư dụ hàng Hoàng Đình Thể, song lại sai người cố ý đưa thư nhầm cho Phạm Ngô Cầu. Phạm Ngô Cầu đang bối rối và mỏi mệt lại tiếp nhận thư của Nguyễn Hữu Chỉnh gửi Hoàng Đình Thể, bắt đầu nghi ngờ Đình Thể không hết lòng chiến đấu. Bản thân quận Tạo cũng sinh ý định hàng Tây Sơn. Quận Tạo bèn dìm bức thư đó không đưa cho quận Thể.

Không lâu sau quân Tây Sơn kéo đến sát thành Phú Xuân. Đạo thủy quân của Vũ Văn Nhậm chỉ huy tới cửa biển thì gặp một tàu Bồ Đào Nha. Tàu này vốn của thương nhân thường tới làm ăn tại Phú Xuân nên họ ủng hộ Phạm Ngô Cầu chống Tây Sơn. Quân Tây Sơn bèn bao vây đốt phá tàu, thuyền trưởng và các sĩ quan người Bồ Đào Nha bị quân Tây Sơn quăng xuống biển. Tàu bị đốt cháy, được phá làm từng mảnh dùng làm cầu phao, còn các thủy thủ được Tây Sơn thu dụng.

Thắng tàu Bồ Đào Nha, thủy quân Tây Sơn theo sông Hương áp sát thành, trong khi đó bộ binh Tây Sơn cũng tiến đến vây thành.

Trong thành, Phạm Ngô Cầu bàn nên hàng, còn Hoàng Đình Thể muốn đánh. Vì quận Thể quyết chiến, quận Tạo để quận Thể mang quân nghênh chiến, còn mình giữ thành.

Hoàng Đình Thể mang quân lên mặt thành chống cự, tập trung pháo bắn xuống dữ dội. Bộ binh Tây Sơn bị pháo bắn phải giãn vòng vây lùi ra xa. Nguyễn Huệ điều quân bộ lên thuyền thủy binh ở bờ sông Hương, dùng đại bác bắn lên thành chống lại pháo quân Trịnh, nhưng từ mặt nước lên mặt thành quá cao (hơn 2 trượng) nên đại bác Tây Sơn bắn không tới. Một chiến thuyền Tây Sơn bị bắn chìm.

Nguyễn Huệ buộc phải hạ lệnh cho quân Tây Sơn ngưng chiến. Lúc đó là tháng 5 đang mùa nước lũ. Thông thường ban ngày mực nước sông Hương thấp, tới đêm nước dâng cao. Biết quy luật nước lên xuống, Nguyễn Huệ bèn đổi chiến thuật không đánh ban ngày mà đánh ban đêm.

Đêm ngày 20 tháng 5 âm lịch tức 15 tháng 6 năm 1786, nước dâng ngập chân thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ hạ lệnh tiến công. Thủy quân Tây Sơn tiến đến nã pháo vào trong thành. Hỏa lực quân Trịnh mất tác dụng. Hoàng Đình Thể không thể dùng pháo binh chống lại quân Tây Sơn được nữa, phải cùng các con và thuộc tướng Vũ Tá Kiên mở cửa thành ra nghênh địch.

Đánh nhau được 1 canh giờ, Hoàng Đình Thể thuốc súng và đạn đều hết, bèn sai người vào thành xin tiếp viện, nhưng Phạm Ngô Cầu đóng cửa thành không cứu viện. Đình Thể cùng hai người con và tì tướng là Vũ Tá Kiên dựa vào thành lũy để bày trận, đem hết sức lực chiến đấu. Nhưng trong lúc quận Thể đang chiến đấu thì trên mặt thành, quận Tạo đã kéo cờ trắng xin hàng. Hai người con quận Thể phóng ngựa ra trận, ngựa bị què, bèn xuống ngựa đánh bộ, bị trọng thương, chết tại mặt trận. Đình Thể cùng Tá Kiên lần lượt tử trận.

Nguyễn Huệ thúc quân ồ ạt tiến lên chiếm thành. Ngô Cầu mở cửa thành xe quan tài ra hàng, đốc thị Nguyễn Trọng Đang chết ở trong đám loạn quân. Thuận Hóa thuộc về Tây Sơn.

Lực lượng quân Trịnh bị tiêu diệt gần hết, chỉ còn vài trăm người chạy thoát ra ngoài thành nhưng bị dân địa phương đón đường giết chết. Chỉ có một người lính duy nhất sống sót được chạy về Dinh Cát báo tin thất trận ở Phú Xuân. Trấn thủ Dinh Cát là con rể chúa Trịnh nghe tin thất kinh, bỏ Dinh Cát chạy song sau đó bị bắt cùng 200 thuộc hạ.

Vùng kiểm soát của quân Trịnh ở Nam sông Gianh đã bị cánh quân Nguyễn Lữ tấn công đánh chiếm đồng thời với trận chiến tại thành Phú Xuân. Tới ngày 21/6/1786, quân Tây Sơn chiếm xong Lũy Thầy và tới ngày 22/6/1786 thì chiếm nốt Dinh Cát bỏ trống.

Chiến dịch Phú Xuân 1786 diễn ra trong 28 ngày, quân Tây Sơn tiêu diệt đại bộ phận quân Trịnh ở phía nam sông Gianh – vùng đất mà chính quyền Lê - Trịnh mới mở từ cuộc chiến năm 1774-1775 và khiến chính quyền chúa Trịnh vốn suy yếu càng đẩy nhanh tới tan rã. Nhân đà thắng lợi này, Nguyễn Huệ thúc quân tấn công ra bắc. Lực lượng họ Trịnh nhanh chóng bị đánh bại và chính quyền chúa Trịnh sụp đổ 1 tháng sau đó (21/7/1786).
[h=1] 3.2. Tiến ra Thăng Long, lật đổ họ Trịnh[/h] Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh Thăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh Nguyễn Nhạc.

Với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng thua trận, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra, đa số đã bỏ trốn. Chúa Trịnh không được lòng dân, bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông tự sát.

Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực tế, ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.

Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Do ý kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh của Ngọc Hân), Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Lê Duy Kỳ. Do áp lực của tôn thất nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.

Vua Lê Chiêu Thông được trao quyền. Tuy nhiên vị vua này tỏ ra bất lực throng việc chống chọi với các thế lực họ Trịnh do Trịnh Bồng, Trịnh Lệ đang cố gắng khôi phục lại cơ đồ. Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân đốt phủ chúa và sau do cho người vào Quy Nhơn đòi lại đất Nghệ An.

Cuối 1787, Nguyễn Huệ sai Võ Văn Nhậm và Ngô Văn Sở đem quân ra trị tội Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng với Lê Chiêu Thống bỏ chạy, Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết chết còn Lê Chiêu Thống trốn được sang đát Quảng Châu. Võ Văn Nhậm tự mình thu xếp mọi việc, lập Lê Duy Cẩn làm Giams quốc bù nhìn và có ý đồ chống lại Nguyễn Huệ.

Nhận được tin báo về sự lộng quyền của Võ Văn Nhậm, tháng 5/1788, Nguyễn Huệ vội vã ra Bắc Hà bắt và giết Võ Văn Nhậm, cử Ngô Văn Sở lên thay.

Như vậy, sau hơn 15 năm khởi nghĩa, đánh nam dẹp bắc (1771 – 1788), quân Tây Sơn đã ngày càng lớn mạnh, lần lượt đánh đổ các tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trịnh, Lê và hoàn toàn làm chủ đất nước. Triều đại Tây Sơn dduwwocj thiết lập đã vững vàng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ dân tộc.
[h=1] 4. Đánh tan 20 vạn quân Thanh, giữ vững nền độc lập tổ quốc[/h] Cuối năm 1788, nạn xâm lược của quân Thanh trở thành nguy cơ trực tiếp và chủ yếu đối với nước ta.

Mãn Thanh vốn là một tộc phía Bắc ở Trung Quốc, nhân khi triều Minh sụp đổ vì phong trào khởi nghĩa của nông dân, đã tràn xuống thành lập một vương triều thống trị Trung Quốc từ giữa thế kỷ XVII. Đến cuối thế kỷ XVIII, nhà Thanh đã đánh bại phong trào phản kháng của nông dân trong nước và mở rộng xâm lược các miền khác. Dưới triều Càn Long, nhà Thanh đạt đến độ cường thịnh nhất của vương triều này. Đây cũng chính là lúc nhà Thanh lăm le xâm lược nước ta.

Nhà Thanh huy động một lực lượng bộ binh gồm 20 vạn quân chiến đấu và hàng chục vạn quân vận chuyển phục dịch, do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị làm thống soái. Vua Càn Long nhà Thanh ra một bản chỉ dụ trực tiếp đề ra phương hướng chiến lược cho Tôn Sĩ Nghị nhằm triệt để lợi dụng những mâu thuẩn trong nước ta để thực hiện dã tâm xâm lược. Nhà Thanh còn dự định điều động một lực lượng thủy binh để khi cần thiết, sẽ vượt biên đánh thẳng vào Thuận Quảng phối hợp với bộ binh tiến công từ Bắc xuống. Quyết tâm xâm lược của kẻ thù rất lớn, âm mưu của chúng rất nguy hiểm.

Tháng 11 năm 1788, quân Thanh chia làm bốn đạo tiến vào nước ta. Theo tính toán chủ quan của Tôn Sĩ Nghị, nhà Thanh hủy bỏ kế hoạch điều động thủy binh đánh vào Thuận Quảng. Do đó, quân Thanh xâm lược nước ta chỉ có bộ binh.

- Đạo quân chủ lực do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, qua Lạng Sơn tiến xuống Thăng Long.

- Đạo quân thứ hai do tri phủ Sầm Nghi Đống chỉ huy, qua Cao Bằng tiến xuống.

- Đạo quân thứ ba do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, qua Tuyên Quang tiến xuống.

- Đạo quân thứ tư theo đường Yên Quảng (Quảng Ninh) tiến vào.


Quân Tây Sơn ở Bắc Hà lúc bấy giờ do tướng Ngô Văn Sở chỉ huy, chỉ độ một vài vạn quân. Trước cuộc xâm lược ồ ạt và đại qui mô của quân Thanh, các đồn ải biên giới bị thất thủ. Trong nước, bọn phong kiến phản động lại nổi dậy tiếp tay cho bọn xâm lược.

Trong tình hình bất lợi đó, Ngô Văn Sở theo chủ trương sáng suốt của Ngô Thì Nhậm, quyết định tổ chức cuộc rút lui chủ động để bảo toàn lực lượng.

Ngô Thì Nhậm vốn là quan của họ Trịnh (làm đến thị lang) nhưng là một sĩ phu yêu nước hiểu biết đâu là chính nghĩa nên đã sớm tham gia phong trào Tây Sơn. Ông được Nguyễn Huệ tin cậy, giao cho trọng trách cùng với Ngô Văn Sở lo liệu công việc Bắc Hà. Chủ trương rút lui của ông được tóm tắt trong câu nói “nay ta bảo toàn lấy quân lực mà rút lui không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi chúng đi…” Nguyễn Huệ đánh giá cao chủ trương đó của Ngô Thì Nhậm: “Các ông đã biết nín nhục để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra ngăn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng. Kế ấy là rất đúng”.

Quân Tây Sơn được lệnh tập trung về Thăng Long. Tại đây, quân ta tổ chức một cuộc duyệt binh lớn bên bờ sông Hồng rồi rút lui theo kế hoạch đã định. Thủy binh đóng giữ vùng Biện Sơn (Thanh Hóa), bộ binh chiếm lĩnh miền núi Tam Điệp (Ninh Bình) lập thành một phòng tuyễn vững chắc.

Trước khi rút lui, quân Tây Sơn đã phá hủy cầu đường, cất giấu thuyền bè và bố trí những lực lượng kiềm chế trên đường tiến quân của địch. Vì vậy, đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị từ biên giới phải mất 20 ngày mới đến Thăng Long và trên đường bị chăn đánh nhiều nơi.

Ngày 17 tháng 12, quân Thanh chiếm đóng thành Thăng Long. Thu được thắng lợi tương đối dễ dàng. Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất khinh địch và ngạo mạn. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm thời nghỉ ngơi để chuẩn bị ăn Tết Nguyên Đán và chuẩn bị sang xuân sẽ tiếp tục tiến công. Hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long (phía Đông Nam Thăng Long) và bố trí lực lượng thành thế phòng ngự tạm thời.

Đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị đóng doanh trại ở hai bên bờ sông Hồng, giữa có cầu phao qua lại. Phía Nam Thăng Long, hắn bố trí một hệ thống phòng ngự gồm nhiều đồn lũy mà cứ điểm then chốt là đồn Ngọc Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Đạo quân Sầm Nghi Đống ở Khương Thượng (Đống Đa, Hà Nội), bảo vệ mặt Tây Nam thành Thăng Long. Đạo quân Ô Đại Kinh đóng ở Sơn Tây, đạo quân thứ tư đóng ở Hải Dương.

Kinh thành Thăng Long và một phần đất Bắc Hà đã bị quân giặc chiếm đóng. Tôn Sĩ Nghị buông lỏng cho quân lính mặc sức hoành hành, cướp bóc, hãm hiếp nhân dân.

Bọn phong kiến phản động trong nước cấu kết chặt chẽ với bọn cướp nước. Bè lũ Lê Chiêu Thống bám gót quân Thanh, trở về Thăng Long. Hắn được vua Thanh phong làm An Nam quốc vương nhưng chỉ là một tên bù nhìn ươn hèn đốn mạt. Đối với quân thù thì bọ chúng quỳ lụy đến khốn nạn. Đối với nhân dân trong nước thì chúng tàn nhẫn đến dã man. Dựa vào thế quân Thanh, chúng trả thù báo oán rất ti tiện và ra sức vơ vét thóc gạo, cướp bóc của cải để cung đốn cho hàng chục vạn quân xâm lược. Bộ mặt phản dân hại nước của bè lũ lch đã lộ rõ.

Hằng ngày Lê Chiêu Thống đến chầu chực ở dinh Tôn Sĩ Nghị để nhận lệnh, thế mà thậm chí có lần hắn không thèm tiếp và đuổi về. Nhân dân Bắc Hà nói với nhau: "Nước Nam từ khi có đế vương đến nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế".

Trước cảnh đất nước bị quân giặc dày xéo, nhân dân Bắc Hà sôi sục căm hờn. Tất cả mọi người dân yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, đều hướng về phía Tây Sơn và sẵn sàng tập hợp lại dưới lá cờ đại nghĩa của người anh hùng Nguyễn Huệ.

Trong lúc quân Thanh đang tự đắc, tự mãn với những thắng lợi bước đầu và mải mê chuẩn bị ăn Tết, thì quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ, đang khẩn trương chuẩn bị, tranh thủ thời cơ, tận dụng mọi sơ hở của địch để nhanh chóng quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi.

Ngày 21 tháng 12 năm 1788 tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ được tin báo khẩn cấp của Ngô Văn Sở. Ngày hôm sau, ông làm lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lập tức thống lĩnh đại quân tiến ra Bắc.

Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế là tự gánh lấy trách nhiệm cứu nước trước dân tộc. Ý nghĩa đó thể hiện rõ trong bài Chiếu lên ngôi: "Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không có một thước đất, và không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy, trẫm nghĩ phải tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở mang núi rừng, giúp đỡ hoàng đại huynh, rong ruổi việc nhung mã… cốt ý quét sạch loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa… Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước đi bôn vong, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào Trẫm".

Quang Trung dừng quân lại ở Nghệ An hơn 10 ngày để bổ sung thêm lực lượng. Lá cờ đỏ của quân Tây Sơn lúc này đã trở thành ngọn cờ quật cường và đoàn kết của cả dân tộc. Hơn bao giờ hết, phong trào nông dân Tây Sơn đang phát triển thành một phong trào dân tộc rộng rãi. Trước cảnh tổ quốc lâm nguy, hàng vạn thanh niên đã hăng hái gia nhập nghĩa quân. Lực lượng quân Tây Sơn đã nhanh chóng tăng lên 10 vạn. Lực lượng nòng cốt của quân đội đó là lực lượng vũ trang của nông dân đã trải qua mười bảy năm trời chinh chiến từ trong Nam ra ngoài Bắc, đã được tôi luyện trong ngọn lửa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu.

Tại trấn doanh Nghệ An, Quang Trung tổ chức một cuộc duyệt binh lớn, để biểu dương lực lượng và cổ vũ quân sĩ trước khi bước vào cuộc chiến đấu sống mãi với quân thù.

Trong buổi lễ duyệt binh đó, Quang Trung đọc lời kêu gọi quân sĩ: "Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa ? Trong khoảng vũ trụ, trời nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị… Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa binh đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Minh đến đây, dân ta không đến nỗi khổ như thời nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi hại, được mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại khác. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng…"

Sau đó, quân Tây Sơn tiến ra Thanh Hóa, nghĩa quân lại được nhân dân đón tiếp nồng nhiệt, truyền thêm sức mạnh chiến đấu. Hàng loạt thanh niên trai tráng lại nô nức tòng quân.

Nhân dân Thanh Hóa còn ghi nhớ bài ca dao kêu gọi thanh niên gia nhập nghĩa quân Tây Sơn, trong đó có câu:

"Anh đi theo chúa Tây Sơn

Em về cày cuốc mà theo mẹ già"

Ngày 15 tháng 1 năm 1789, quân Tây Sơn tập kết ở Tam Điệp. Sau khi nghiên cứu tình hình mọi mặt, Quang Trung quyết định mở cuộc tấn công lớn nhằm tiêu diệt nhanh chóng và triệt để toàn bộ lực lượng quân địch.

Quân Tây Sơn chia làm năm đạo tiến ra theo những hướng khác nhau tạo thành một thế bao vây chiến lược dồn quân địch vào tình thế hoàn toàn bị động, bị tiến công dồn dập và bị bao vây tiêu diệt không cách nào cứu vãn nổi.

Đạo quân chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, đánh thẳng vào hệ thống phòng ngự chủ yếu của địch ở phía Nam Thăng Long.

Đạo quân thứ hai do Đô đốc Bảo chỉ huy, tiến ra Đại Áng (Thường Tín, Hà Tây) làm nhiệm vụ yểm hộ và phối hợp với đạo quân chủ lực.

Đạo quân thứ ba do Đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ tiêu diệt đồn Khương Thượng rồi thọc sâu vào Thăng Long.

Đạo quân thứ tư do Đô đốc Tuyết chỉ huy, vượt biển đánh vào Hải Dương.

Đạo quân thứ năm do Đô đốc Lộc chỉ huy, vượt biển tiến lên chặng đường rút lui của quân Thanh.

Trước khi xuất phát, Quang Trung mở tiệc khao quân và tuyên bố: "Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang Xuân, ngày 7 vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta xem có đúng thế không ?".

Trước đó, trong lời dụ tướng sĩ tại Thanh Hóa, Quang Trung cũng đã nói lên quyết tâm sắt đá đánh tan quân ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc.

"Đánh cho để dài tóc,

Đánh cho để đen răng,

Đánh cho nó chích luân bất phản,

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,

Đánh cho nó sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ".

(Hai câu đầu nói lên quyết tâm đánh giặc để bảo vệ độc lập dân tộc, giữ gìn nền văn hóa và những phong tục tập quán lâu đời của nhân dân.

Hai câu giữa nói lên quyết tâm đánh tiêu diệt khiến cho quân giặc mảnh giáp không còn, không một chiếc xe nào trở về.

Câu cuối nghĩa là: đánh cho chúng biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ).

Những lời tuyên bố đanh thép của vị thống soái trước giờ xuất trận càng nâng cao ý chí chiến đấu và niềm tin vững chắc của quân sĩ vào thắng lợi của cuộc chiến tranh yêu nước.

NHỮNG TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH

Đêm 25 tháng 1 năm 1789 - tức đêm 30 Tết - đạo quân chủ lực của ta do Nguyễn Huệ chỉ huy vượt sông Gián Khẩu (sông Đáy). Tiêu diệt đồn tiền tiêu trên hệ thống phòng ngự của địch mở đầu cuộc tiến công đại phá quân Thanh. Quân Tây Sơn nhanh chóng tiến lên, liên tiếp tiêu diệt các đồn quân Thanh và đuổi theo bắt gọn quân do thám của giặc. Đêm 28 - tức đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu - quân Tây Sơn bí mật vây chặt đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây) rồi uy hiếp buộc địch đầu hàng. Quân ta tiêu diệt một đồn lũy trọng yếu của địch cách Thăng Long 20 ki-lô-mét mà không tốn một mũi tên, hòn đạn.

Mờ sáng ngày 30 - tức ngày 5 Tết - quân ta bước vào trận quyết chiến với địch ở đồn Ngọc Hồi. Đây là đồn lũy kiên cố giữ vị trí then chốt trong hệ thống phòng ngự của địch, bảo vệ trực tiếp cửa ngõ phía Nam Thăng Long.

Đồn Ngọc Hồi cách Thăng Long 14 ki-lô-mét, án ngữ con đường thiên lý trong Nam ra. Quanh đồn có chiến lũy bảo vệ. Phía ngoài lũy có bãi chướng ngại dày đặc gồm chông sắt, cạm bẫy và địa lôi. Lực lượng quân địch ở đây có khoảng ba vạn quân tinh nhuệ đặt dưới quyền chỉ huy của đề đốc Hứa Thế Hanh là phó tướng của Tôn Sĩ Nghị và là tướng chỉ huy toàn bộ hệ thống phòng ngự phía Nam Thăng Long. Sau khi đồn Hà Hồi bị tiêu diệt, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh tăng viện cho đồn Ngọc Hồi và thường xuyên theo dõi tình hình chiến sự của mặt trận phía Nam để sẵn sàng ứng phó.

Quang Trung trực tiếp chỉ huy trận công đồn ác liệt này.

Mở đầu trận đánh, đội tượng binh gồm hơn một trăm voi chiến của quân Tây Sơn xông vào tiến công. Đội kỵ binh thiện chiến của quân Thanh ra nghênh chiến bị tan vỡ nhanh chóng. Quân địch dựa vào chiến lũy, hết sức cố thủ. Chúng từ trên chiến lũy, bắn đại bác và cung tên ra dữ dội để cản đường quân ta. Một đội xung kích đã chuẩn bị trước gồm những chiến sĩ cảm tử, dùng những lá chắn lớn (ván gỗ quấn rơm ướt) che mình xông thẳng vào chiến lũy của địch. Quân ta đột nhập vào chiến lũy, giáp chiến với quân thù. Đại quân Tây Sơn ào ạt xung phong vào trận địa với dũng khí áp đảo kẻ thù. Chính quân địch cũng phải thừa nhận rằng: "Quân Tây Sơn, hợp lại đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như triều dâng".

Trước sức công phá như vũ bão và tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của quân Tây Sơn, đồn Ngọc Hồi bị san phẳng. Một bộ phận quân địch bị tiêu diệt tại trận. Bọn sống sót sau cơn bão lửa khủng khiếp đó, bỏ chạy về Thăng Long. Nhưng Quang Trung đã bố trí một lực lượng nghi binh chặn đường, buộc chúng phải dấn thân vào cánh Đầm Mực (Thanh Trì, Hà Nội) rộng lớn và lầy lội. Tại đây, đạo quân của đô đốc Bảo đã được lệnh, lợi dụng địa hình bố trí sẵn một trận địa để tiêu diệt bọn quân Thanh. Hàng vạn quân giặc bị vùi xác dưới cánh đầm đó. Bằng trận Ngọc Hồi - Đầm Mực, quân Tây Sơn đã tiêu diệt toàn bộ quân Thanh và bộ chỉ huy của chúng tại cứ điểm then chốt nhất, đập tan hệ thống phòng ngự của địch và mở toang cửa ngõ tiến vào giải phóng thành Thăng Long.

Cũng vào mờ sáng ngày 30 tháng 1, đạo quân của đô đốc long bất ngờ bao vây, tiêu diệt đồn Khương Thượng (Đống Đa, Hà Nội) ở phía Tây Nam thành Thăng Long. Quân Tây Sơn bí mật bao vây vào lúc trời còn tối, rồi tiến công dữ dội vào đồn giặc. Nhân dân nổi dậy cùng trực tiếp tham gia chiến đấu. Họ dùng rơm rạ bện thành con cúi, tẩm dầu đốt lửa, tạo thành một vòng vây lửa uy hiếp quân địch. Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt nhanh chóng. Tướng chỉ huy là đề đốc Sầm Nghi Đống khiếp sợ phải thắt cổ tự tử. Hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khắp chiến trường.

Tại đại bản doanh, Tôn Sĩ Nghị đang lo lắng theo dõi mặt trận phía Nam để sẵn sàng điều quân đi cứu viện. Bỗng nhiên, hắn được tin cấp báo đồn Khương Thượng bị tiêu diệt. Hắn đang hoảng hốt chưa kịp đối phó thì đạo quân của Đô đốc Long đã tràn vào thành Thăng Long và như một mũi dao nhọn, đang lao thẳng về phía đại bản doanh của hắn. Hắn khiếp sợ đến nỗi không kịp mặc áo giáp và đóng yên ngựa, vội vàng cùng với toán kỵ binh hầu cận vượt cầu phao tháo chạy trước hết. Quân Thanh tan vỡ tranh nhau tìm đường trốn chạy. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh cắt cầu phao để cản đường truy kích của quân Tây Sơn. Do hành động tàn nhẫn của hắn, hàng vạn quân Thanh bị bỏ xác dưới sông Hồng.

Sáng ngày 30 tháng 1, đạo quân của đô đốc Long tiến vào giải phóng thành Thăng Long. Trưa hôm đó, Quang Trung và đạo quân chủ lực tiến vào kinh thành giữa sự hoan hô đón chào của nhân dân. Chiếc áo chiến bào của người anh hùng "áo vải" hôm đó đã nhuốm đen khói súng của những ngày đêm chiến đấu ác liệt. Lá cờ đỏ đã từng giương cao từ những ngày đầu khởi nghĩa, tung bay theo bước đường thắng lợi của nghĩa quân, nay lại dẫn đầu đoàn quân chiến thắng tiến vào giải phóng kinh thành.

Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ:

"Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng.

Quân vua một giận oai bốn phương.

Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,

Như trên trời xuống dám ai đương.

Một trận rồng lửa giặc tan tành,

Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh

Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,

Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.

Mây tạnh mù tan trời lại sáng.

Đầy thành già trẻ mặt như hoa,

Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:

Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta"

Trong lúc đó, Tôn Sĩ Nghị và bọn tàn quân đang chạy trốn một cách thảm hại. Khắp nơi, trên con đường chạy trốn, chúng bị chận đánh tơi bời và bị tiêu diệt gần hết. Số sống sót phải luồn rừng, lội suối theo đường tắt trốn về nước. Bại tướng Tôn Sĩ Nghị cũng phải vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo chạy thoát thân.

Một tên quan chạy theo Tôn Sĩ Nghị đã thú nhận: "Tôi với Chế Hiến (tức Tôn Sĩ Nghị) đói cơm, khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày, bảy đêm mới đến trấn Nam Quan".

Đạo quân Thanh đóng ở Hải Dương, cũng bị đánh bại. Riêng đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây, tuy quân ta không tiến công nhưng cũng hoảng sợ, rút chạy về nước.

Cuộc kháng chiến chống Mãn Thanh xâm lược dưới sự lãnh đạo của anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ đã thắng lợi vẽ vang. Chỉ throng một thời gian ngắn, 10 vạn quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài tình của Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược.

Thắng lợi rực rỡ của chiến dich jđại phá quân Thanh là kết quả của tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân dân ta và tài năng quân sự tuyệt vời của Nguyễn Huệ.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh đã giải phóng được đất nước, giữ vững được nền độc lập cho tổ quốc và chấm dứt vĩnh viễn nạn xâm lược của phong kiến phương Bắ thường xuyên đe dọa vận mệnh dân tộc ta trong lịch sử. Chiến thắng do nêu cao tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc ta và một lần nữa chứng minh rằng một dân tộc nhỏ, quân ít nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng và sự chỉ đạo chiến lược, chiến thuật đúng đắn thì vẫn có thể xâm lược những kẻ thù lớn mạnh.

Với chiến thắng oanh liệt mùa xuân năm Kỷ Dậu, phong trào nông dân Tây Sơn đã phát triển đến đỉnh cao của một cuộc chiến tranh nông dân trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ.


 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top