Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Phó bảng LÊ TRINH (tiểu sử 1850-1909)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="latrucxanh" data-source="post: 37951" data-attributes="member: 39728"><p><span style="font-size: 15px"><strong><u>LÊ TRINH</u></strong> (còn có tên Lê Đăng Lĩnh,Lê Đăng Trinh) thuộc tộc họ <strong><em>Lê Cảnh</em></strong>,quê ỏ Bích La Đông,xã Bích La nay là xã Triệu Đông,huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị.Ông sinh năm 1850,là con trưởng của ông <strong><u>Lê Cảnh Chính</u></strong>,Binh bộ viên ngoại lang,hàm nhị phẩm dưới triều Minh Mạng và vợ là bà <strong><u>Lê Bá Thị Huấn</u></strong>.Thuở nhỏ,ông nổi tiếng thông minh,học giỏi,năm 20 tuổi đổ giải nguyên khoa thi Hương năm Canh Ngọ,Tự Đức 23(1870);năm 25 tuổi đổ phó bảng khoa thi Hội năm Ất Hợi,Tự Đức 28(1875).Cũng từ năm đó ông bước vào quan trường,được bổ làm kiểm thảo viện Hàm Lâm.Trãi qua các triều vua Tự Đức,Kiến Phúc,Hàm Nghi,Đồng Khánh ông từng giữ nhiều chức vụ ở hầu hết các Bộ:biện lý Bộ Hộ,Bộ Lại,tham tri Bộ Hình và các Viện:Tham biện Viện Cơ mật,Chưởng Ấn Viện Đô Sát…Ông được cử đi sứ ở Trung quốc,qua thử tài,triều đình nhà Thanh rất khâm phục kiến thức uyên bác của sứ thần nước Nam,vua Quang Tự đã ban cho ông mũ áo tiến sĩ.Trong lĩnh vực giáo dục ông nhiều lần được cử làm phó chủ khảo trường thi Hương tỉnh Thừa Thiên,Chánh chủ khảo trường thi Hương tỉnh Bình Định,nhiều năm làm giáo đạo các ông Hoàng.Năm Thành Thái 10(1899) lúc đang làm tổng đốc An-Hà(Nghệ An-Hà Tĩnh) lấy cớ mẹ ốm nặng,ông xin cáo quan về phụng dưỡng mẹ già.Sau ngày mẹ mất và mãn cư tang,năm Thành Thái 15 (1903) ông được triệu về Kinh thụ phong <em>Phụ chính đại thần,Lễ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần.</em>Năm Duy Tân 2 (1908) ông được thăng hàm <em>Vinh Lộc đại phu,Hiệp biện đại học sĩ</em>,vẫn giữ chức cũ.Với việc được giao trọng trách trong triều,ông đã có điều kiện để cống hiến cho đất nước trong những năm tiếp theo.Trên cương vị mới,ông đã có một số quyết định có ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của đất nước:</span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px">1-Năm 1907 người Pháp phế truất vua Thành Thái,loại bỏ một ông vua yêu nước,trong lúc triều đình bối rối trong việc chọn người kế vị,Phụ chính đại thần Lê Trinh đã có tiếng nói quyết định trong việc <em>tôn vua Duy Tân lên ngôi giúp cho triều Nguyễn có thêm một ông vua yêu nước</em>.Lê Trinh là vị đại thần rất được vua Duy Tân quý mến. </span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px">2-Năm 1908,dịp người Pháp bắt nhà cách mạng Phan Chu Trinh ở Hà Nội và di lý vào Huế giao cho Nam triều xử “trảm quyết”(chém ngay)về tội phản nghịch,2 phụ chính đại thần đầu triều là Lê Trinh và Cao Xuân Dục đã xử phúc khảo y án “trảm giam hậu”(giam trước chém sau)<em>cứu Phan tiên sinh thoát tội chết.</em></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px">3-Năm 1905,khi phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) mang 2 con:Nguyễn Sinh Khiêm,Nguyễn Sinh Cung(Côn)từ Nghệ An vào kinh thành Huế với nguyện vọng để 2 con được theo Tây học trong hoàn cảnh hết sức khó khăn thiếu thốn.Hai quan Thượng Thư Cao Xuân Dục(Bộ Học) và Lê Trinh(Bộ Lễ)vốn cảm mến tài năng,khí tiết của phó bảng Nguyễn Sinh Huy và thông cảm hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo của gia đình ông phó bảng,hai cụ Thượng Cao,Lê đã tìm cách khuyên bảo và tạo điều kiện cho ông Huy có việc làm,nơi ở để 2 con được học hành.(lúc này Nguyễn Sinh Khiêm mang tên Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Sinh Cung mang tên Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh sau này). </span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> Lúc nhàn rỗi việc quan,ông thường làm thơ,câu đối với bút hiệu <em>Bích Phong</em>.Tài sản quý giá nhất mà con,cháu ông còn giữ được là một tập di cảo thơ,câu đối bằng chữ Hán do chính tác giả ghi chép gồm hơn 50 bài thơ theo các thể:thất ngôn bát cú,tứ tuyệt,ngủ ngôn và hơn 100 câu đối.Tập di cảo thơ,câu đối này được lưu giữ theo gia phả cha truyền con nối sau gần 100 năm chưa được biên dịch.Mãi cho đến đầu thế kỷ 21,cùng với việc phát hiện nhiều điều mới về thân thế sự nghiệp của ông,tập di cảo thơ câu đối này mới được biên dịch và xuất bản thành sách với tiêu đề <em>“Bích Phong di thảo”</em>(Lê Ngân biên soạn-Lê Nguyễn Lưu biên dịch NXB Thuận hóa 2006)..</span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> Phó bảng,Thượng Thư Lê Trinh qua đời vì bạo bệnh lúc đương chức vào ngày 12 tháng 9 năm 1909,được truy tặng tước <em>Vệ Nghĩa Tử</em>.Tang lễ của ông được cử hành trọng thể,vua Duy Tân sai làm bài Văn Tế cử người đọc trong lễ tang,vua nhà Thanh cũng cử sứ thần sang viếng tang. </span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> Ngày 12-9-2009,nhân dịp ngày Giỗ lần thứ 100 của Cụ,Hội Di sản Văn hóa tỉnh Quảng Trị phối hợp cùng gia tộc Cụ phó bảng đã tổ chức cuộc Hội thảovề “thân thế sự nghiệp Phó bảng,Thượng thư Lê Trinh”với sự tham dự của nhiều nhà nghiên cứu sử học có tên tuổi ở Quảng Trị,Thừa Thiên-Huế,Hà Nội đã nhất trí đánh giá Phó bảng Lê Trinh là vị đại thần triều Nguyễn có những đóng góp đáng trân trọng cho quê hương đất nước xứng đáng được hậu thế tôn vinh.</span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> Hà Nội Hạ Canh Dần(2010)</span></p><p><span style="font-size: 15px"><em>[FONT=&quot] Trúc Diệp Thanh[/FONT]</em></span> [FONT=&quot] <span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span>[/FONT]</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="latrucxanh, post: 37951, member: 39728"] [SIZE=4][B][U]LÊ TRINH[/U][/B] (còn có tên Lê Đăng Lĩnh,Lê Đăng Trinh) thuộc tộc họ [B][I]Lê Cảnh[/I][/B],quê ỏ Bích La Đông,xã Bích La nay là xã Triệu Đông,huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị.Ông sinh năm 1850,là con trưởng của ông [B][U]Lê Cảnh Chính[/U][/B],Binh bộ viên ngoại lang,hàm nhị phẩm dưới triều Minh Mạng và vợ là bà [B][U]Lê Bá Thị Huấn[/U][/B].Thuở nhỏ,ông nổi tiếng thông minh,học giỏi,năm 20 tuổi đổ giải nguyên khoa thi Hương năm Canh Ngọ,Tự Đức 23(1870);năm 25 tuổi đổ phó bảng khoa thi Hội năm Ất Hợi,Tự Đức 28(1875).Cũng từ năm đó ông bước vào quan trường,được bổ làm kiểm thảo viện Hàm Lâm.Trãi qua các triều vua Tự Đức,Kiến Phúc,Hàm Nghi,Đồng Khánh ông từng giữ nhiều chức vụ ở hầu hết các Bộ:biện lý Bộ Hộ,Bộ Lại,tham tri Bộ Hình và các Viện:Tham biện Viện Cơ mật,Chưởng Ấn Viện Đô Sát…Ông được cử đi sứ ở Trung quốc,qua thử tài,triều đình nhà Thanh rất khâm phục kiến thức uyên bác của sứ thần nước Nam,vua Quang Tự đã ban cho ông mũ áo tiến sĩ.Trong lĩnh vực giáo dục ông nhiều lần được cử làm phó chủ khảo trường thi Hương tỉnh Thừa Thiên,Chánh chủ khảo trường thi Hương tỉnh Bình Định,nhiều năm làm giáo đạo các ông Hoàng.Năm Thành Thái 10(1899) lúc đang làm tổng đốc An-Hà(Nghệ An-Hà Tĩnh) lấy cớ mẹ ốm nặng,ông xin cáo quan về phụng dưỡng mẹ già.Sau ngày mẹ mất và mãn cư tang,năm Thành Thái 15 (1903) ông được triệu về Kinh thụ phong [I]Phụ chính đại thần,Lễ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần.[/I]Năm Duy Tân 2 (1908) ông được thăng hàm [I]Vinh Lộc đại phu,Hiệp biện đại học sĩ[/I],vẫn giữ chức cũ.Với việc được giao trọng trách trong triều,ông đã có điều kiện để cống hiến cho đất nước trong những năm tiếp theo.Trên cương vị mới,ông đã có một số quyết định có ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của đất nước: 1-Năm 1907 người Pháp phế truất vua Thành Thái,loại bỏ một ông vua yêu nước,trong lúc triều đình bối rối trong việc chọn người kế vị,Phụ chính đại thần Lê Trinh đã có tiếng nói quyết định trong việc [I]tôn vua Duy Tân lên ngôi giúp cho triều Nguyễn có thêm một ông vua yêu nước[/I].Lê Trinh là vị đại thần rất được vua Duy Tân quý mến. 2-Năm 1908,dịp người Pháp bắt nhà cách mạng Phan Chu Trinh ở Hà Nội và di lý vào Huế giao cho Nam triều xử “trảm quyết”(chém ngay)về tội phản nghịch,2 phụ chính đại thần đầu triều là Lê Trinh và Cao Xuân Dục đã xử phúc khảo y án “trảm giam hậu”(giam trước chém sau)[I]cứu Phan tiên sinh thoát tội chết.[/I] 3-Năm 1905,khi phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) mang 2 con:Nguyễn Sinh Khiêm,Nguyễn Sinh Cung(Côn)từ Nghệ An vào kinh thành Huế với nguyện vọng để 2 con được theo Tây học trong hoàn cảnh hết sức khó khăn thiếu thốn.Hai quan Thượng Thư Cao Xuân Dục(Bộ Học) và Lê Trinh(Bộ Lễ)vốn cảm mến tài năng,khí tiết của phó bảng Nguyễn Sinh Huy và thông cảm hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo của gia đình ông phó bảng,hai cụ Thượng Cao,Lê đã tìm cách khuyên bảo và tạo điều kiện cho ông Huy có việc làm,nơi ở để 2 con được học hành.(lúc này Nguyễn Sinh Khiêm mang tên Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Sinh Cung mang tên Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh sau này). Lúc nhàn rỗi việc quan,ông thường làm thơ,câu đối với bút hiệu [I]Bích Phong[/I].Tài sản quý giá nhất mà con,cháu ông còn giữ được là một tập di cảo thơ,câu đối bằng chữ Hán do chính tác giả ghi chép gồm hơn 50 bài thơ theo các thể:thất ngôn bát cú,tứ tuyệt,ngủ ngôn và hơn 100 câu đối.Tập di cảo thơ,câu đối này được lưu giữ theo gia phả cha truyền con nối sau gần 100 năm chưa được biên dịch.Mãi cho đến đầu thế kỷ 21,cùng với việc phát hiện nhiều điều mới về thân thế sự nghiệp của ông,tập di cảo thơ câu đối này mới được biên dịch và xuất bản thành sách với tiêu đề [I]“Bích Phong di thảo”[/I](Lê Ngân biên soạn-Lê Nguyễn Lưu biên dịch NXB Thuận hóa 2006).. Phó bảng,Thượng Thư Lê Trinh qua đời vì bạo bệnh lúc đương chức vào ngày 12 tháng 9 năm 1909,được truy tặng tước [I]Vệ Nghĩa Tử[/I].Tang lễ của ông được cử hành trọng thể,vua Duy Tân sai làm bài Văn Tế cử người đọc trong lễ tang,vua nhà Thanh cũng cử sứ thần sang viếng tang. Ngày 12-9-2009,nhân dịp ngày Giỗ lần thứ 100 của Cụ,Hội Di sản Văn hóa tỉnh Quảng Trị phối hợp cùng gia tộc Cụ phó bảng đã tổ chức cuộc Hội thảovề “thân thế sự nghiệp Phó bảng,Thượng thư Lê Trinh”với sự tham dự của nhiều nhà nghiên cứu sử học có tên tuổi ở Quảng Trị,Thừa Thiên-Huế,Hà Nội đã nhất trí đánh giá Phó bảng Lê Trinh là vị đại thần triều Nguyễn có những đóng góp đáng trân trọng cho quê hương đất nước xứng đáng được hậu thế tôn vinh. Hà Nội Hạ Canh Dần(2010) [I][FONT="] Trúc Diệp Thanh[/FONT][/I][/SIZE] [FONT="] [SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Phó bảng LÊ TRINH (tiểu sử 1850-1909)
Top