• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Phê bình văn học là gì?

  • Thread starter Thread starter vosong
  • Ngày gửi Ngày gửi

vosong

New member
Xu
0
Đỗ Lai Thúy

Tôi nghĩ, đây là một câu hỏi thuộc loại bản thể luận. Loại câu hỏi này, lời hỏi chỉ là một, nhưng lời đáp thì có thể là nhiều, thậm chí rất nhiều. Mỗi thế hệ người cầm bút đi qua đều để lại câu trả lời của mình như những thổ dân Úc lưu lại bàn tay họ trên vách đá, khác với người đến trước và cả người đến sau.

eVăn: "Phê bình văn học là gì?" là tiểu luận mới nhất và tâm đắc của Đỗ Lai Thúy. Tác giả đã âm thầm viết nó trong năm 2003, khi mà trên báo chí liên tiếp xảy ra các cuộc bút chiến xung quanh một số tác phẩm cụ thể - nhất là các bài thơ. Đỗ Lai Thúy rất không vừa ý với các cuộc phê bình này, đúng hơn, ông không vừa ý với "cách người ta phê bình"chúng. Theo ông, những cuộc tranh cãi ầm ĩ và vô bổ đó là minh chứng cho sự thiếu vắng một cái nhìn học thuật về phê bình văn học.

Trong “Phê bình văn học là gì?”, Đỗ Lai Thúy trình bày những luận điểm cốt yếu nhất của ông về phê bình, những luận điểm mà ông tự đúc rút từ những kinh nghiệm cá nhân và “kinh nghiệm gián tiếp” qua việc nghiên cứu các học giả thế giới. Còn với riêng mình, như Đỗ Lai Thúy tâm sự, “Phê bình văn học là gì?” trước hết là sự tự nhận thức về chính bản thân ông với tư cách nhà nghiên cứu văn học.
[/I]

Ngươi hãy tự hiểu chính ngươi!
Socrate[1]

1

Phê bình văn học là gì? Tôi nghĩ, đây là một câu hỏi thuộc loại bản thể luận. Loại câu hỏi này, lời hỏi chỉ là một, nhưng lời đáp thì có thể là nhiều, thậm chí rất nhiều. Mỗi thế hệ người cầm bút đi qua đều để lại câu trả lời của mình như những thổ dân Úc lưu lại bàn tay họ trên vách đá, khác với người đến trước và cả người đến sau. Và mỗi người lại có thể có câu trả lời không giống với những người cùng thế hệ mình. Tùy vào truyền thống văn hóa và tài năng cá nhân. Những tiếng đáp khác nhau ấy không loại trừ nhau hoặc loãng tan vào hư không, mà được thời gian xâu lại thành một chuỗi. Tự thân, chắc nó không phải là chân lý, là đạo, nhưng là một con đường không có điểm cuối dẫn đến chân lý.

Phê bình văn học có thể hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông tục của ngôn ngữ thường nhật hay nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của khoa học văn học. Theo nghĩa thứ nhất, phê bình chỉ bất kỳ một sự khen chê, bình phẩm, đánh giá nào đó về một tác phẩm, một sự kiện văn học, một tác giả, từ vi mô một nhãn tự, một câu văn, một dòng thơ đến vĩ mô một sự nghiệp sáng tạo, một nền văn học dân tộc. Nó có thể chỉ là một lời nhận xét thông thường thoát ra từ cái miệng bình dân của con nhà khó, nhưng cũng có thể là những phương châm, những nguyên lý chỉ đạo văn chương từ một ý thức hệ triết học hoặc thẩm mỹ nào đó dội xuống giống lời thánh truyền, như lời Khổng Tử[2] về Kinh Thi, lời Aristote[3] trong Thi pháp học... Phê bình văn học ở nghĩa này là kẻ song sinh với sáng tác, có sáng tác là có phê bình. Và sáng tác thì khó còn phê bình thì dễ.

Phê bình theo nghĩa rộng thường chỉ biết đến tác phẩm. Một thứ tác phẩm không có liên lạc gì đến tác giả và người đọc. Và người phê bình văn học đứng ngoài hệ thống văn học này. Hơn nữa, khi nhận xét tác phẩm, người phê bình thường cũng chỉ coi đó là một cái cớ để phát biểu những ý kiến chủ quan của mình, thoảng hoặc nếu có chiếu cố đến tác phẩm thì cũng chỉ để so sánh nó với những nguyên lý đã được định trước, những lời chỉ dạy của thánh hiền, những khuôn vàng thước ngọc của cổ nhân. Bởi vậy, phê bình này rất chú trọng đến ý nghĩa đạo đức của tác phẩm văn học, đôi khi có để mắt tới một cạnh khía nghệ thuật nào đó của nó thì cũng chỉ là để đối chiếu với những quy phạm ngặt nghèo của thể tài, cũng là một thứ đạo đức khác, đạo đức thể loại.

Phê bình văn học theo nghĩa chuyên môn thì mãi đến đầu thế kỉ XIX, khi nhân loại đã bước vào Thời đại Mới, mới xuất hiện ở châu Âu. Đó là một loại hình sinh hoạt văn học gắn liền với văn hóa đô thị. Phê bình này ra đời trên cơ sở báo chí và xuất bản. Chính báo chí đã biến sách vở với tư cách là sản phẩm văn hóa từ một thứ văn hóa quà tặng thành văn hóa hàng hóa. Xưa, một bài thơ, một bài văn được tác giả viết ra trước là để cho mình (di dưỡng tinh thần), sau mới để cho người (thưởng thức và học tập): thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo mà! Nhưng cái “người” ấy cũng chẳng được bao lăm, chỉ gồm có những thân nhân và bè bạn. Người ta chép tay hoặc thuê chép, hoặc khắc in một số bản để làm quà tặng cho nhau. Số người đọc rất hạn chế. Chỉ những người “đặc tuyển”. Nay nhờ máy in và báo chí, thơ văn được xuất bản hàng loạt, đến tay tất cả mọi người, bất kể giàu sang hay nghèo hèn, miễn bỏ tiền ra là mua được.

Số người đọc là bất cứ ai này đông dần lên trở thành công chúng. Công chúng lại đẻ ra dư luận. Và dư luận, đến lượt nó, tác động đến không chỉ nội bộ người đọc, mà, như một thông tin ngược, đến cả người viết, kích thích anh ta sáng tạo tiếp tục. Nhưng còn một nguồn kích thích nữa không kém quan trọng là vật chất. Người sáng tác còn được hưởng tiền nhuận bút, thêm thu nhập để tái sản xuất sức lao động đầu óc, thậm chí có thể sống được bằng ngòi bút. Nghề văn ra đời. Từ đây, nhà văn cùng với các nhà khác như bác sĩ mở phòng khám tư, giáo viên tư thục, luật sư mở văn phòng riêng, nghệ sĩ hát rong... tạo thành một lớp trí thức độc lập, sống ngoài bộ máy nhà nước, khác hẳn với tầng lớp trí thức thư lại trước đấy. Xã hội công dân với tư tưởng dân chủ hình thành.

Tư tưởng dân chủ là nền tảng tinh thần của phê bình văn học. Nó thừa nhận mọi công dân đều có quyền phê bình, tức quyền có ý kiến riêng của mình. Trước đây chỉ một thiểu số nào đó mới có cái quyền ấy, còn đa số chỉ có quyền được / chịu sự phê bình. Điều này đã hình thành một tâm thế, một khuôn mẫu suy nghĩ. Chả thế, ở Việt Nam, mãi đến tận năm 1941, khi phê bình văn học (theo nghĩa hẹp, dĩ nhiên) đã rất phát triển, mà Hoài Thanh, một nhà phê bình nổi tiếng, vẫn chưa rũ bỏ được tâm thế đó, còn rất ngỡ ngàng với cái quyền vừa giành được của mình, nên ở cuối Thi nhân Việt Nam, ông còn Nhỏ to tâm sự: “Quyển sách này ra đời, cái điều tôi ngại nhất là sẽ mang tên nhà phê bình. Hai chữ phê bình sao nghe nó khó chịu quá! Nó khệnh khạng như một ông giáo gàn. Bình thì cũng còn được. Nhưng phê? Sao lại phê?”. Ăn cơm mới nói chuyện cũ chẳng qua là để thấy rằng, sự ra đời của phê bình văn học nói chung và đặc biệt ở Việt Nam khó khăn đến như thế nào! Nhưng, như một hạt mầm, một khi đã trồi lên được khỏi mặt đất, được tiếp xúc với ánh sáng và khí trời, thì không gì ngăn nổi sự thành cây của nó.

Phê bình văn học (từ đây tôi dùng từ này chỉ theo nghĩa chuyên môn) giờ đây không còn là phê bình quyền uy nữa. Khẩu khí độc thoại, phán truyền, rao giảng cũng chẳng còn. Phê bình trở thành cuộc đối thoại bình đẳng của thứ quyền lực mới, quyền lực của trí tuệ. Nói theo kiểu Alvin Toffler, ở phê bình văn học cũng xảy ra hiện tượng “chuyển đổi quyền lực”. Nếu trước đây quyền lực của phê bình là quan chức (Miệng người sang có gang có thép), là thân tộc (Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư), là tuổi tác (Bảy mươi phải nghe bảy mốt) và gần đây là đồng tiền (Mạnh vì gạo, bạo vì tiền; Nén bạc đâm toạc tờ giấy), thì ngày nay là tri thức, là trí tuệ. Ai giàu hiểu biết hơn, ai có đầu óc hơn thì người đó có uy tín hơn, có sức thuyết phục hơn. Phê bình, bởi thế, trở thành một sinh hoạt trí thức.

Một đảm bảo khác cho phê bình văn học trở thành một sinh hoạt trí thức lành mạnh là trình độ phát triển của ý thức cá nhân. Văn hóa đô thị giải phóng con người khỏi tư cách thành viên cộng đồng để trở thành một cá nhân độc lập, ý thức được giá trị tự thân của mình trong sự tôn trọng và đối lập với những cá nhân khác trong xã hội. Nhà phê bình của ý thức tập đoàn do chưa có ý thức cá nhân làm cơ chế tự điều chỉnh, nên một khi giành được quyền phê bình thì rất dễ lạm dụng cái quyền đó, “tham ô” sang cả quyền của người khác. Còn nhà phê bình có ý thức cá nhân phát triển cao là một người biết được cái giới hạn quyền của mình và của người khác. Dám nói về người khác là dám chịu trách nhiệm về lời nói của chính mình. Bởi, phát ngôn về người khác là một kiểu phát ngôn về chính mình.

Ý thức cá nhân phát triển khiến người ta dám nói, dám bày tỏ ý kiến của mình trước công chúng, nhưng, quan trọng hơn, ý thức cá nhân còn buộc nhà phê bình nhiều khi phải vượt qua tư cách con người để tiến đến tư cách nhà phê bình, tức khước từ phán đoán về một tác phẩm văn chương theo thị hiếu chủ quan của mình, để tuân theo những tiêu chuẩn riêng thuộc văn học, bất chấp những quyền uy. Như vậy, nhà phê bình phát ngôn không nhân danh bản thân anh ta, mà nhân danh một ý thức thẩm mỹ nào đó mà anh ta là đại diện. Người đối thoại với anh ta cũng vì một ý thức thẩm mỹ khác mà tranh luận lại. Phê bình văn học, vì thế, không còn là chuyện cá nhân, không có vấn đề “ai thắng ai” muôn thuở, mà là một cuộc đối thoại thẩm mỹ theo đúng thuần phong mỹ tục để thúc đẩy văn chương dấn thân vào những cuộc phiêu lưu tìm những giá trị thẩm mỹ mới.

2

Một khoa học muốn trở thành khoa học phải có một đối tượng riêng, một phương pháp nghiên cứu riêng. Vậy đối tượng của phê bình văn học là gì? Theo tôi, đó là tác phẩm. Người ta có thể phê bình một tác giả, một hiện tượng văn học, thậm chí một thời đại văn học, nhưng cơ sở của tất cả các phê bình trên vẫn là phê bình tác phẩm. Bởi, tác phẩm “bầu” nên nhà văn, gây thành hiện tượng, tạo ra những thời đại văn chương. Như vậy, tác phẩm vừa là ga đi mà cũng là ga đến của phê bình văn học.

Tác phẩm văn học từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu không chỉ của phê bình văn học, mà còn của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác. Điều này cũng không có gì là khó hiểu. Với tư cách là một hiện tượng văn hóa thẩm mỹ xuất hiện trong một thời đại nhất định, tác phẩm văn học trong mắt các thế hệ sau sẽ là một tài liệu lịch sử, một tượng đài của các tư tưởng xã hội, một hiện thân của tâm lý dân tộc, một thành tựu của tư tưởng mỹ học, tư tưởng văn học... Tùy theo từng mục đích của mình, mỗi ngành khoa học đều rút tỉa từ tác phẩm văn học cạnh khía này hay cạnh khía khác của nó. Nhưng, xét cho cùng, tác phẩm văn học với các khoa học ấy bao giờ cũng chỉ là một tài liệu, một phương tiện trong thế đối lập với một nghệ thuật và một cứu cánh. Chỉ riêng với phê bình văn học, tác phẩm mới là một tồn tại tự thân, một mục đích nghiên cứu thực sự. Bởi vậy, đối với phê bình, việc xác định thế nào là tác phẩm văn học có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Và, vì mỗi trường phái và phương pháp đều có những cách hiểu khác nhau ít hoặc nhiều về tác phẩm văn học, nên ở đây tôi chỉ trình bày một quan niệm chung và cố gắng nắm bắt được sự vận động của nội hàm khái niệm này.

Văn học, trước hết, là một loại hình nghệ thuật, là nghệ thuật ngôn từ. Tác phẩm văn học, do đó, là một sáng tạo ngôn từ. Có thể nói, sáng tạo là một đặc tính người. Chỉ có con người mới có sáng tạo. Con vật còn là tự nhiên, còn hoạt động theo bản năng nên không thể có sáng tạo, dẫu đôi khi chúng khéo léo hơn cả con người. Người vừa là tự nhiên, vừa vượt thoát khỏi tình trạng tự nhiên bằng cách cấp cho sự vật một ý nghĩa. Thế giới này chỉ thực sự tồn tại với con người khi nó được lấp đầy bằng các ý nghĩa. Đó là hành động sáng tạo. Sáng tạo thể hiện tự do của con người. Khi sáng tạo, hoặc khi đứng trước một sáng tạo, con người cảm thấy mình khác vạn vật, không còn giống nhiên giới nữa, thậm chí có thể cải biến thiên nhiên theo ý hướng sáng tạo của mình.

Tác phẩm văn học là một sáng tạo. Từ những vật-liệu-chữ hữu hạn và bất định, nhà văn tạo nên tác phẩm. Thậm chí, vô vàn tác phẩm. Sáng tác văn học thể hiện một khả năng khai thác vật liệu không cùng, khả năng làm ra cái mới, cái độc sáng. Tác phẩm văn học chỉ neo được vào thời gian khi nó thực sự là sáng tạo, sáng tạo tới mức trở thành độc đáo, thậm chí độc nhất. Một sáng tạo như vậy sẽ không bao giờ mèm cũ, hay nói khác, cạn kiệt thông tin. Mỗi thế hệ đi qua, soi mình vào đó, đều tìm ra một nghĩa mới, của mình.

Cũng cần phải nói thêm, tác phẩm văn học là một sáng tạo của trí tưởng tượng, là cái tưởng tượng. Nó không nhằm mô phỏng, thể hiện thế giới thực, mà tạo ra một thế giới không có thực tồn tại song hành với thế giới thực, dù bao giờ nó cũng được xây cất từ những vật liệu thực. Nhờ có sản phẩm tưởng tượng này mà cuộc sống thực được tiếp diễn trong cái nhịp sống phong phú, liên tục và đi lên của nó. Bởi, mọi sự chiếm lĩnh thực tại đều bao hàm sự vượt qua thực tại để đi vào lĩnh vực của cái tưởng tượng.

Tác phẩm văn học là một nghệ thuật. Bởi vậy, nó có cùng những tính chất chung với những loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa, sân khấu, điện ảnh... Nói đến nghệ thuật là nói đến hình thức. Hình thức biến sự hỗn mang của vật liệu thành một trật tự thẩm mỹ, biến sự im lìm của đồ vật thành tác phẩm biết nói. Hình thức chỉ là hình thức khi nó có tính gợi cảm. Hình thức gây ra ở người thưởng ngoạn những rung động thẩm mỹ. Hình thức còn thể hiện một ý hướng thẩm mỹ như là kết quả của ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ và sự tiếp nhận tương ứng của công chúng. Người thưởng ngoạn thấy ở hình thức sự xúc động, quan niệm thẩm mỹ, nỗ lực sáng tạo của người nghệ sĩ và đồng cảm với anh ta. Và, từ đó, cùng anh ta tưởng tượng.

Tác phẩm nghệ thuật còn khác đồ vật ở chỗ nó có tính không vị lợi. Một đồ vật được làm ra là để dùng, còn một bức tranh hay một bài thơ được làm ra là để chơi, một hoạt động có mục đích tự tại. Tuy nhiên, tác phẩm nghệ thuật có tính lưỡng thê, bởi đôi khi nó còn được sử dụng như một đồ vật. Nghĩa là người ta không sử dụng giá trị, bình diện ý nghĩa nội tại của nó, mà là giá trị sử dụng, bình diện công năng của nó, để trao đổi, kiếm sống. Nhưng, xét cho cùng, sự để dùng của tác phẩm nghệ thuật chỉ là cái đến sau, cái thứ yếu, phụ thuộc, còn sự để chơi mới là mục đích sống còn của nó. Tác phẩm nghệ thuật đưa người ta vào một thế giới khác với thế giới đời thường, vị lợi. Với các quy tắc trò chơi của mình, tác phẩm nghệ thuật, thỏa mãn một kích thước khác trong con người, kích thước chơi. Bởi, con người, sau khi đã là một động vật kinh tế, một động vật chính trị, còn là một động vật chơi.

Văn học với tư cách là một nghệ thuật có tất cả những đặc tính trên. Nhưng văn học khác với âm nhạc, hội họa, kiến trúc,... ở vật liệu kiến tạo hình thức. Nếu vật liệu của âm nhạc là âm thanh, hội họa là màu sắc, điêu khắc là đất đá, thì vật liệu của văn học là ngôn ngữ. Văn học được coi là nghệ thuật ngôn từ là vì vậy. Vật liệu ngôn từ là vật liệu có tính tổng hợp. Nó có âm thanh của nhạc, màu sắc của họa, hình khối của điêu khắc, nhịp điệu của múa. Văn học, nhờ thế, cũng là một nghệ thuật tổng hợp. Hơn nữa, nếu vật liệu của các ngành nghệ thuật trên là vật liệu trơ, tức loại vật liệu trực tiếp lấy từ thiên nhiên, thì ngôn ngữ là vật liệu lấy từ con người, mang tính người. Âm thanh của tiếng nói người là những âm thành mang nghĩa. Con người lại là một động vật tạo nghĩa, nên nó rất chú ý đến nghĩa của từ. Chữ và nghĩa đi liền với nhau, như hình với bóng. Điều này, một mặt, làm cho văn học có vẻ như dễ tiếp nhận hơn các bộ môn nghệ thuật kể trên. Mặt khác, sự chú ý đến nghĩa một cách thái quá này, làm cho người đọc ngộ nhận rằng văn học chỉ là ý nghĩa, chỉ là bóng chữ, nên thường đi thẳng một mạch từ vật liệu ngôn từ đến nội dung tác phẩm, bỏ qua chữ, bỏ qua hình thức. Âu cũng là một kiểu bỏ mồi bắt bóng. Trong khi đó, phương thức tồn tại của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng, được quyết định bằng và qua hình thức. Hình thức là sự cấu trúc hóa vật liệu theo ý đồ thẩm mỹ của nhà văn, nên hình thức chính là nghệ thuật. Còn nội dung, xét cho cùng, chỉ là một thứ vật liệu, đúng hơn tài liệu, cũng cần được cấu trúc hóa thì mới có thể thoát thai thành nghệ thuật. Hình thức của một tác phẩm văn học là ngôn ngữ, nhưng là thứ ngôn ngữ ở trong tác phẩm, tức ngôn ngữ đã được cấu trúc hóa, còn ngôn ngữ tự vị, ngôn ngữ ngoài tác phẩm thì chỉ là vật liệu.

(Còn nữa)

Chú thích:

[1] Socrate (470-399 tr.CN), nhà triết học Hy Lạp, thầy học của Platon. Ông là người mở đầu cho triết học duy lý phương Tây, còn triết học tiền Socrate theo một xu hướng khác. Danh ngôn trên theo một ý kiến khác, không phải là của Socrate, mà là một câu cách ngôn Delphil. Dẫu vậy, nếu câu này ở miệng Socrate nói ra thì vẫn có sức nặng hơn, vẫn làm nổi bật hơn tính duy lý của nó.

[2] Khổng Tử (511-479 tr.CN), nhà triết học cổ đại Trung Hoa, sau khi Khổng giáo trở thành ý thức hệ chính thống, thì ông được tôn làm vạn thế sư biểu. Các trước tác hay sách biên soạn của ông, trong đó có Kinh thi, trở thành kinh điển.

[3] Aristote (384-322 tr.CN), nhà triết học cổ đại Hy Lạp, học trò Platon. Triết học của ông cùng với Kitô giáo thống trị tư tưởng châu Âu suốt thời trung cổ. Thi pháp học của ông, bởi thế, cũng thống trị tư tưởng văn học châu Âu cho đến Thời đại Mới.

[4] Cụ thể hóa: thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ quá trình người đọc tái tạo tác phẩm nghệ thuật bằng cách làm đầy những điểm trống, những vùng bất định của văn bản bằng cảm xúc và ý niệm của mình. Người đầu tiên đề xuất thuật ngữ này là R. Ingarden (1893-1970) nhà nghiên cứu văn học theo hiện tượng luận người Ba Lan, trong cuốn Tác phẩm văn học (1931), Trương Đăng Dung đã dịch một vài chương in trong Văn học Nước Ngoài.

[5] Kết cấu vẫy gọi: tên tác phẩm của W. Iser, một trong hai người sáng lập minh giải học (tức chú giải học hiện đại) và mỹ học tiếp nhận, người Đức.


Nguồn: eVan
 
Phê bình văn học là gì? [2/5]

Đỗ Lai Thúy

Phê bình văn học, theo tôi, có thể tạm chia thành hai loại: phê bình báo chí và phê bình học thuật. Xin mở ngoặc nói thêm, mọi sự phân chia chỉ là tương đối, kể cả trong khoa học. Cái đích của sự phân loại này là để nhận thức rõ hơn và sâu hơn một đối tượng vốn hay khước từ các áp đặt.

Để thấy được tầm quan trọng của hình thức, cụ thể hơn, đặc trưng ngôn từ của tác phẩm văn học, nhà phê bình cần phải làm một thức nhận về ngôn ngữ. Trước như một vật liệu, sau như một hình thức, bởi ngôn ngữ văn học không chỉ là phương tiện, mà còn là mục đích, không chỉ là thông tin tiêu dùng mà còn là thông tin thẩm mỹ. Trong ngành xây dựng có môn vật liệu học. Vậy vật liệu học trong phê bình văn học chính là ngôn ngữ học. Nắm được ngữ (langue) và ngôn (parole), tức nắm được các quy tắc (codes) hình thành diễn ngôn (discours) và văn bản (texte). Và việc phân tích văn bản được ưu tiên số một, bởi ngôn ngữ trong văn bản không còn là vật liệu nữa, mà đã là hình thức, đã là nghệ thuật. Văn bản trở thành đối tượng, đôi khi là duy nhất, của phê bình văn học. Trong con mắt của thứ phê bình nội quan này thì văn bản đồng nhất với tác phẩm, văn bản là tác phẩm.

Bởi thế, phải nói rằng việc phân biệt văn bản và tác phẩm là một bước tiến trong quá trình nhận thức và khái niệm hóa tác phẩm văn học. Hóa ra, những gì mà nhà văn viết mà bấy lâu nay người ta vẫn tưởng đã là tác phẩm thì chỉ đang là, tức chỉ là văn bản. Cái văn bản đó cần phải được người đọc bằng cảm xúc, bằng kinh nghiệm sống và kinh nghiệm thẩm mỹ cộng thêm trí tưởng tượng cụ thể hóa[4] nó thì mới trở thành tác phẩm. Như vậy, nói đến tác phẩm văn học không thể thiếu vai trò người đọc như là một kẻ đồng sáng tạo. Nhưng để người đọc có thể tham dự được vào công việc sáng tạo này thì văn bản tự thân nó phải có nhiều khoảng trắng, khoảng trống và khoảng lặng, phải chứa chất sự chưa nói hết, sự đa nghĩa và ẩn ý, phải có những khẳng định và hoài nghi có tính thách đố... Thứ kết cấu vẫy gọi[5]này sẽ dẫn dụ người đọc tham gia đối thoại với văn bản để tạo thành tác phẩm, biến nghĩa của văn bản thành ý nghĩa của tác phẩm, hay nói khác biến nghĩa đang tồn tại thành nghĩa đang kiến tạo. Như vậy, sự hình thành tác phẩm văn học là một quá trình luôn dang dở và không có kết thúc. Đó là tác phẩm mở[6] .

Đến đây một vấn đề khác được đặt ra là mỗi người đọc, với tư cách một cá nhân có cảm nhận riêng, liệu có thể biến một văn bản thành ngọn tháp Babel của vô vàn những tác phẩm khác hẳn nhau? Câu trả lời là không. Bởi lẽ, mỗi một người đều là sản phẩm của một thời đại văn hóa, xa hơn một truyền thống văn hóa tộc người. Thứ định kiến văn hóa này sẽ điều kiện hóa cảm xúc và suy tư của người đọc, khiến cho anh ta dù có “tung tẩy” đến đâu thì cũng chỉ trong giới hạn của một vài cách đọc đã được quy định trước của một chân trời đón nhận. Sự khác biệt của những tầm đón nhận này trong một cộng đồng đọc hoặc những cộng đồng đọc khác nhau sẽ thúc đẩy hoặc kỳm hãm sự phát triển của một nhà văn hoặc một nền văn học dân tộc.

Như vậy, tác phẩm văn học từ chỗ chỉ được coi là sản phẩm của tác giả mà ý nghĩa của nó là ở sự chủ ý của nhà văn đến chỗ được coi như một tồn tại tự thân có tính tự trị, nghĩa ổn định. Lúc này tác giả đã chết còn người đọc thì chưa ra đời. Nhưng một khi người đọc xuất hiện, thì văn bản giải cấu trúc để trở thành liên văn bản, chủ thể trở thành liên chủ thể và ý nghĩa của tác phẩm văn học trở nên không ổn định, không hoàn kết và có tính quan hệ. Tác phẩm văn học, như vậy, ngoài phần chủ ý còn có phần không chủ ý. Và, thật nghịch lý, giá trị của tác phẩm văn học hình như lại nằm ở chính cái phần không chủ ý này.

3

Phê bình văn học, theo tôi, có thể tạm chia thành hai loại: phê bình báo chí và phê bình học thuật. Xin mở ngoặc nói thêm, mọi sự phân chia chỉ là tương đối, kể cả trong khoa học. Cái đích của sự phân loại này là để nhận thức rõ hơn và sâu hơn một đối tượng vốn hay khước từ các áp đặt. Ở Việt Nam hiện nay, phê bình văn học nói chung thường chỉ được hiểu như là phê bình báo chí theo quan niệm của tôi sẽ trình bày dưới đây, còn phê bình học thuật thì được hiểu như là nghiên cứu. Thực ra, nghiên cứu (trừ phần khảo cứu) là một từ rộng nghĩa đến rỗng nghĩa, nó chỉ là một hệ thao tác mà bất cứ khoa học nào, kể cả phê bình văn học, đều cần đến, như một công đoạn thiết yếu, cho công việc của mình.

Trước đây, trong cuốn Sinh lý học của phê bình (1930), Albert Thibaudet[7] đã từng chia phê bình thành phê bình nói, phê bình chuyên nghiệp, tức phê bình của các giáo sư, và phê bình của các nghệ sĩ. Từ ấy, sự phân chia này của ông đã trở thành kinh điển. Đến nay nó đã bộc lộ những điểm không hợp lý. Bởi lẽ, nó chú trọng nhiều hơn đến nhân thân người phê bình và nghề nghiệp của ông ta (người làm báo, giáo sư, nghệ sĩ), mà ít chú ý đến bản thân phê bình. Chọn sự phân chia phê bình thành phê bình báo chí và phê bình học thuật, tôi muốn chuyển trọng tâm khảo sát sang bản thân phê bình. Sự phân loại này dựa trên chính sự phân chia chức năng của phê bình: phát hiện cái đẹp và xây dựng hệ giá trị thẩm mỹ. Thực ra, định danh phê bình theo các chức năng này, tôi chưa hoàn toàn thỏa mãn với các thuật ngữ mà mình đã dùng. Phê bình học thuật thì còn được, nó chính xác hơn các thuật ngữ phê bình chuyên nghiệp hoặc chuyên môn, nhưng phê bình báo chí thì vẫn dễ gây hiểu lầm chỉ là phê bình của các nhà báo hoặc đăng trên báo. Trong khi chưa tìm được một thuật ngữ khác chuẩn hơn, tôi mong bạn đọc đừng hiểu nó theo con chữ, mà theo chức năng nó đảm nhận.

Phê bình báo chí có chức năng phát hiện cái đẹp. Nó đưa ra những phán đoán thẩm mỹ về một tác phẩm, một sự kiện văn học. Đây là loại phê bình giá trị chứ không phê bình sự thật (quy chiếu về hiện thực), dĩ nhiên không kể các biến dạng của nó. Phê bình báo chí có thể trước hết do các cây bút phụ trách chuyên mục “Đọc sách và phê bình” trên các báo đảm trách, rồi các thầy giáo dạy văn ở đại học và phổ thông, các nhà thơ, nhà văn thuận tay trái, hoặc các nhà phê bình tài tử, vãng lai. Phương pháp phê bình của họ chủ yếu là dựa vào cảm nhận, ấn tượng, trực giác hoặc nhận xét theo hệ giá trị thẩm mỹ hiện hành.

Phê bình báo chí, do chú trọng đến văn học đương đại, nên dễ tạo ra đời sống xã hội của văn học. Nó là phản ứng tức thì, là tiếng nói kịp thời của sáng tác văn chương. Một nền văn học không có tiếng nói của báo chí là một nền văn học chết. Nhưng một nền văn học mà chỉ có tiếng nói của báo chí thì cũng là một nền văn học chết, tuy rằng chết theo kiểu khác. Và một khi các sáng tác văn học “sản xuất” ngày càng nhiều, càng phong phú về chủng loại, thì phê bình báo chí càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nhà phê bình là người đọc nhanh, đọc chéo tác phẩm, rồi phát hiện ra những tác phẩm hay, những tác phẩm có vấn đề, “đáng đọc”, đưa ra một vài nhận xét định tính, hướng dẫn người đọc. Như vậy, nhà phê bình đúng là “kẻ đọc dùm” (Thiếu Sơn) cho người khác, cả ở cái nghĩa chọn hộ sách cho độc giả, tiết kiệm thời gian và túi tiền cho họ. Nhờ vậy, tiếng nói của phê bình trở nên có uy tín. Độc giả nói theo, nghĩ theo nhà phê bình ngày càng đông: một công chúng được hình thành. Công chúng lại tạo ra dư luận. Và khi dư luận đã tồn tại, nó cần được nuôi dưỡng và hướng dẫn liên tục bằng những thông tin mới, ngày càng mới, của phê bình. Tuy dư luận là con đẻ của phê bình, phụ thuộc vào phê bình, nhưng, cùng với phê bình và công chúng, dư luận là một “thiết chế” văn học có khả năng tác động mạnh mẽ không chỉ đối với tác phẩm, tác giả, mà cả đối với phê bình.

Phê bình báo chí, do phải cung cấp món ăn kịp thời, “nóng sốt” và “đến hẹn lại lên” cho công chúng, nên không thể đi sâu vào tác phẩm. Nó không có nhiệm vụ tìm kiếm nguồn gốc của cái đẹp mà nó phát hiện được ở tác phẩm, nhất là không có nhiệm vụ lý giải tại sao như thế là đẹp. Bài phê bình, vì thế, thường dừng lại ở cấp độ đọc sách, thậm chí điểm sách. Một điều nữa, do gắn liền với một hoặc vài tờ báo cụ thể, lệ thuộc vào mục đích, tôn chỉ của nó, phê bình báo chí đôi khi buộc phải nói thế này chứ không nói thế kia, phải nói cái này chứ không nói cái kia. Hơn nữa, phê bình báo chí cũng rất dễ bị quảng cáo biến thành quảng cáo, kể cả quảng cáo “vô tư” cho bạn bè, lẫn sự quảng cáo “chí công” cho bộ máy quyền lực.

Trong những thời kỳ văn hóa - xã hội ổn định, “những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt” (Chế Lan Viên), các giá trị thẩm mỹ còn là mẫu mực, thì phê bình báo chí dễ phát huy hết các điểm mạnh của mình. Các phán đoán thẩm mỹ của nó dễ đúng và trúng bởi được bảo hộ bằng một hệ giá trị chuẩn. Đồng thời, hệ giá trị này còn giám sát trở lại nhà phê bình, vừa đo tầm vóc của anh ta, vừa ngăn anh ta không để dính vào sự chi phối của những yếu tố phi thẩm mỹ. Nhưng trong các thời kỳ bất ổn, bảng giá trị bị đảo lộn, hệ quy chiếu biến mất, nhà phê bình lúc này chỉ còn biết tựa vào chính bản thân anh ta hoặc lấy ý kiến số đông làm ý kiến của mình, tùy vào bản lĩnh của mỗi người. Các phán đoán thẩm mỹ, vì thế, dễ trở nên lung tung, nhầm lẫn. Khi đó, một người phê bình kém bản lĩnh sẽ không còn là người hướng dẫn dư luận nữa (bởi, anh ta cũng đang cần được hướng dẫn!), sẽ bị đám đông nuốt chửng, dìm chết hoặc thả nổi theo những con sóng dư luận lên xuống dập dềnh. Đây là lúc hơn hơn lúc nào hết, trên báo chí, trong đời sống văn học, cần đến tiếng nói của một kiểu phê bình khác, phê bình học thuật.

Phê bình học thuật, thực ra, không phải đến lúc này mới hình thành. Nó xuất hiện cùng với phê bình báo chí. Nhưng khi trời trong gió lặng, nó ẩn dưới bề sâu, nó là mạch ngầm của đời sống văn học. Đến khi có biến động, hệ giá trị thẩm mỹ hiện hành bị đảo lộn, hoặc giải thể, phê bình học thuật mới nổi lên bình diện thứ nhất của đời sống văn học, cùng với phê bình báo chí lúc này đang lúng túng, để lập lại trật tự bằng việc xây dựng một hệ giá trị thẩm mỹ khác hợp hơn với tinh thần của một thời kỳ văn học mới đang thai.

So với phê bình báo chí, phê bình học thuật ít được ưa chuộng hơn. Người đọc thì chê là quá nặng nề, kém thanh thoát, lại khó hiểu bởi những thuật ngữ xa lạ. Nhà văn thì hoặc bực tức vì mình bị bỏ quên, hoặc vì bị “mổ xẻ” bởi các phương pháp khoa học. Nhưng phê bình học thuật đã giữ cho quá khứ văn chương mang được tính hiện tại, đảm bảo được tính liên tục của văn học. Đồng thời, với cách tiếp cận khoa học của mình, nó miêu tả và lý giải tác phẩm văn học một cách chính xác hơn, sâu sắc hơn, có lý luận hơn và, do đó, thuyết phục hơn. Và, để làm được điều đó, phê bình học thuật phải chú ý đến các lý thuyết và phương pháp.

Phê bình học thuật, theo tôi, hiện nay có hai dạng: phê bình thực hành và phê bình lý thuyết. Phê bình thực hành là vận dụng các thành tựu lý thuyết và phương pháp đã có vào xử lý những hiện tượng văn học, tác phẩm và tác giả cụ thể. Người phê bình báo chí có thể biết hoặc không biết đến các lý thuyết văn học cũng không sao, nhưng người làm phê bình học thuật thì không thể không biết và nhất là không thể không vận dụng. Bởi vậy, để hành nghề phê bình học thuật thì không chỉ dựa vào năng khiếu, một thứ của trời cho, mà trên cơ sở cái vốn tự có ấy, phải học tập, đào tạo và tự đào tạo, tức phải có chuyên môn, phải thành nhà chuyên môn (dẫu không được chuyên nghề). Tuy nhiên, trên đời này không có lý thuyết nào có thể ôm trọn được toàn bộ thực tế văn học, cũng như không có phương pháp nào là chìa khóa vạn năng với mọi hiện tượng văn học. Chính chỗ này là mảnh đất phần trăm cho những sáng tạo cá nhân của nhà phê bình thực hành, không biến anh ta thành kẻ lấy tác phẩm sống để minh họa cho những nguyên lý chết.

Hơn nữa, trong thực tiễn của phê bình thực hành, đứng trước một thế giới nghệ thuật vô cùng rộng lớn và phong phú, lại không bao giờ cạn kiệt thẩm mỹ, nhà phê bình luôn cảm thấy giới hạn của các lý thuyết và phương pháp đang có. Và cảm giác bất lực này càng tăng lên khi phải đối mặt với những hiện tượng văn học cách tân. Nhà phê bình, một mặt vẫn phải dựa vào những nguyên lý cũ, mặt khác phải tự mình mày mò xử lý lấy, tìm ra những nguyên lý mới, khái quát thành lý thuyết mới. Rồi những lý thuyết mới này, đến lượt nó, lại soi sáng cho những hiện tượng văn học khác, chí ít là những hiện tượng ít nhiều tương đồng. Phải chăng phê bình lý thuyết chủ yếu đã ra đời trên một lộ trình như vậy?

Phê bình lý thuyết cũng còn có thể hình thành theo một con đường khác, không phải từ “dưới lên” (như đã nói ở trên), mà từ “trên xuống”, hay đúng hơn, “sang ngang” từ triết học, hoặc từ các khoa học xã hội và nhân văn khác. Như G.Bachelard[8] chẳng hạn. Ông vốn là một nhà triết học khoa học (khoa học luận) chuyển sang phê bình. Phê bình văn học của Bachelard là sự kết hợp của triết học về bốn yếu tố cơ bản đất, nước, không khí, lửa của Aristote, phân tâm học của Jung[9] (lý thuyết siêu mẫu) và hiện tượng luận của Husserl[10]. Và gần đây, một ví dụ khác là J.Derrida. Những nhà phê bình văn học có nhiều đóng góp về lý thuyết thường được nhắc đến hiện nay là các nhà hình thức luận Nga với tính tự trị của tác phẩm, tính văn học, vai trò của ngôn ngữ thơ, nghệ thuật như là thủ pháp, lý thuyết về chủ âm, là Bakhtin[11] với tính đối thoại, tính đa âm của tiểu thuyết, nguyên lý carnaval, là Barthes[12] với sự phân tích cấu trúc truyện kể... Tóm lại, với hầu hết các nhà phê bình kể trên, thì phê bình văn học của họ đã không còn phân biệt nổi với lý luận văn học nữa. Có lẽ với bất cứ ngành nghề nào cũng vậy, sự phân biệt chỉ ở những tầm thấp.

Hiện nay, phê bình lý thuyết rất được coi trọng. Hợp tuyển các công trình phê bình nổi tiếng thế giới đều không thể vắng mặt những tên tuổi như R. Jakobson[13], M. Bakhtin, R.Barthes, J. Derrida, M.Foucault[14], T. Adorno[15], H.R. Jauss, W. Iser... Người ta yêu thích những tác giả có đóng góp về lý thuyết, hoặc những công trình giàu sáng tạo lý thuyết. Có điều đáng lưu ý là loại phê bình này không nhất thiết phải viết về những tác giả đương đại, mà chủ yếu là những tác giả đã được khẳng định, kể cả những nhà văn tưởng như đã “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, như Bakhtin về Dostoievski và Rabelais, Barthes về Sarrasine của Balzac, không phải để “ăn mày dĩ vãng” mà cốt để làm rõ hiệu quả của phương pháp mới trên một tác phẩm cũ tưởng đã cạn kiệt thông tin. Như vậy, ở đây tính thời sự mà người ta vẫn coi như một thuộc tính của phê bình cần phải được hiểu khác, rộng hơn: không chỉ phê bình các tác phẩm đương đại, mà cả dùng lý thuyết và phương pháp hiện đại để phê bình những tác phẩm quá khứ. Bởi, xét cho cùng, làm chết một tác phẩm sống và làm sống một tác phẩm chết thì cũng như nhau.

Tuy nhiên, cuộc phiêu lưu lý thuyết của phê bình văn học hiện nay, theo tôi, đôi khi đi quá đà. Phê bình văn học, xét cho cùng, bao giờ cũng phải lấy nghiên cứu tác phẩm làm trung tâm. Mọi tìm kiếm lý thuyết cuối cùng cũng chỉ để đưa ra những kiến giải mới cho tác phẩm. Nhưng, nếu phê bình văn học chỉ là những phiêu lưu lý thuyết thuần túy, như M. Foucault đọc sách chỉ là làm một cuộc “khảo cổ học tri thức”, hoặc như J. Culler cho rằng phê bình văn học không phải là để tìm kiếm những kiến giải mới về tác phẩm, mà để tìm hiểu sâu hơn về những quy ước và những thao tác của một thiết chế, một dạng thức hành ngôn, thì tác phẩm văn học, vô hình trung, từ mục đích đã trở thành phương tiện, thành một thứ tài liệu, như số phận trước đây của nó bị hiến trinh cho những nghiên cứu tâm lý hay xã hội. Hoặc giả những nghiên cứu lý thuyết thuần túy, “lý thuyết vì lý thuyết” đó đã vượt ra ngoài khuôn khổ của phê bình văn học để đi vào lĩnh vực lý luận văn học, một bộ môn khác của khoa học văn học.

Phê bình học thuật, như vậy, đã thực hiện chức năng xây dựng hệ giá trị thẩm mỹ. Đồng thời, nó luôn tìm kiếm, xây dựng, mở rộng, nâng cao và hoàn thiện các quy phạm này. Cùng với thời gian, hệ giá trị thẩm mỹ càng trở nên ổn định, vững chắc và chuẩn mực. Đến một lúc nào đó, nó trở thành khuôn vàng thước ngọc, thành chân lý độc tôn, bó trói một thực tiễn văn học sống động, luôn tiến về phía trước. Thế là hệ giá trị thẩm mỹ mới mẻ ngày nào nay đã khô cứng, cũ kỹ và lâm vào khủng hoảng. Lúc này, phê bình văn học phải chuyển đổi hệ chuẩn (paradigme), phủ định những quy phạm cũ, để lại xây dựng những quy phạm mới, bảng giá trị thẩm mỹ mới. Ở đây, có lẽ cần phải nói rõ thêm một điều là phủ định trong phê bình văn học không phải là bảo nó sai, tiêu diệt nó, mà chỉ là xác định rằng hiện nay nó không còn đủ lực để giữ vai trò chủ đạo nữa, hoặc trước đây tưởng nó là chân lý phổ quát thì nay chỉ là cái đúng trường hợp. Bởi vậy, có thể nói, lịch sử phê bình văn học là lịch sử của những khẳng định và phủ định các quy phạm thẩm mỹ.

Còn tiếp

Phần 1

Chú thích:

[4] Cụ thể hóa: thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ quá trình người đọc tái tạo tác phẩm nghệ thuật bằng cách làm đầy những điểm trống, những vùng bất định của văn bản bằng cảm xúc và ý niệm của mình. Người đầu tiên đề xuất thuật ngữ này là R. Ingarden (1893-1970) nhà nghiên cứu văn học theo hiện tượng luận người Ba Lan, trong cuốn Tác phẩm văn học (1931), Trương Đăng Dung đã dịch một vài chương in trong Văn học Nước Ngoài.

[5] Kết cấu vẫy gọi: tên tác phẩm của W. Iser, một trong hai người sáng lập minh giải học (tức chú giải học hiện đại) và mỹ học tiếp nhận, người Đức.

[6] Tác phẩm mở: tên cuốn sách của U. Eco, nhà ký hiệu học, nhà văn thuộc trào lưu hậu hiện đại, người Italia.

[7] Thibaudet A. (1874-1936) nhà phê bình văn học Pháp.

[8] Bachelard G. (1884-1962) nhà triết học, nhà phê bình văn học người Pháp. Ông phân tích thơ ca theo lý thuyết siêu mẫu của Jung và triết học về bốn yếu tố cơ bản của vũ trụ. Một số tác phẩm của ông đã dịch sang tiếng Việt như Phân tâm học về lửa, Nước và những giấc mơ trong cuốn Phân tâm học và nghệ thuật, Đỗ Lai Thúy giới thiệu và biên soạn, NXB Văn hóa Thông tin, 1999.

[9] Jung C.G. (1875-1961), nhà phân tâm học người Thụy Sĩ, học trò của S.Freud, sau ly khai thành lập ra trường phái mới. Cống hiến của ông là phát hiện về vô thức tập thể, lý thuyết siêu mẫu, loại hình tâm lý... Một vài tác phẩm của ông đã được dịch in trong cuốn Phân tâm học và nghệ thuật và Phân tâm học và văn hóa tâm linh do Đỗ Lai Thúy giới thiệu và biên soạn, NXB Văn hóa Thông tin, 2002.

[10] Husserl E. (1859-1938), nhà triết học Đức, người sáng lập hiện tượng luận. Thầy của M. Heidegger và J.P. Sartre. Husserl ảnh hưởng lớn đến nhà triết học Việt Nam Trần Đức Thảo trong tác phẩm Phương pháp hiện tượng luận của Husserl và Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng của ông.

[11] Bakhtin M. (1895-1975), nhà triết học nhân học, nhà phê bình văn học Nga. Một số tác phẩm của ông đã được in ở Việt Nam như Lý luận về tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Thi pháp Dostoievski (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch).

[12] Barthes R. (1915-1980), nhà phê bình văn học Pháp. Một số tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt như Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Phân tích cấu trúc truyện kể (Tôn Quang Cường dịch) và Những cơ sở của ký hiệu học (Trịnh Bá Đĩnh dịch).

[13] Jakobson R. (1896-1984), nhà ngôn ngữ học và thi pháp học người Nga, thành viên của chủ nghĩa hình thức Nga, sau 1920 sang sống ở Tiệp và sau đó di cư sang Hoa Kỳ. Tác phẩm chính: Luận về ngôn ngữ học đại cương (1963) và Những vấn đề thi pháp học (1973).

[14] Foucault M. (1926-1984), nhà triết học Pháp, nghiên cứu chủ yếu về tri thức luận và phương pháp luận. Tác phẩm chính Từ và Vật, 1956 ảnh hưởng lớn đến các nhà phê bình văn học theo xu hướng cấu trúc và hậu cấu trúc.

[15] Adorno T. (1903-1969), nhà triết học và âm nhạc học Đức. Tác phẩm chính Cá nhân chuyên quyền (1950). Ông đã làm mới mỹ học nhờ xuất phát từ sự kết hợp học thuyết Freud và chủ nghĩa Marx.

Nguồn: eVăn
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top