Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học Tổng quát
Phát triển những kỹ năng can thiệp khủng hoảng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="rubi_mos2002" data-source="post: 135182" data-attributes="member: 50878"><p><strong>Tự tử, dưới cái nhìn Tâm bệnh học</strong></p><p></p><p></p><p>Bài này góp phần cung cấp thông tin trả lời xung quanh câu hỏi: đâu là sự khác biệt giữa những người gắng sức tự tử với số đối tượng chỉ mới nghĩ tới chuyện này mà thôi?</p><p></p><p>Hiện tượng tự tử xuất hiện trên lâm sàng của rất nhiều bệnh lý khác nhau: Rối loạn Nhân cách Ranh giới (BPD: Borderline Personality Disorder), Trầm cảm (Depression), Rối loạn Nhân cách Kịch tính (HPD: Histrionic Personality Disorder), Rối loạn Nhân cách Tự mê mình (NPD: Narcissistic Personality Disorder), Rối loạn Hoảng sợ (PD: Panic Disorder),...</p><p></p><p><strong>Hiện tượng tự tử trên lâm sàng các bệnh Tâm thần</strong></p><p></p><p>Chẳng hạn, bệnh kèm khi mắc trầm cảm (Comorbid Depression) cũng khiến tăng lên các ý định và nỗ lực tự tử có liên quan với nỗi hoảng sợ bị tấn công (PA: Panic Attacks) và PD.</p><p></p><p>Nghiên cứu cho thấy, 20% người được chẩn đoán là PD và 12% đối tượng mắc PA mang tiền sử nỗ lực tự tử (Weissman, Klerman, Markowitz, & Ouellette, 1989).</p><p></p><p>Weissman và cs. cũng báo cáo rằng, các cá nhân mắc PD có quyết tâm gắng sức để chết mạnh mẽ gấp 18 lần so với các đối tượng không mắc bất cứ rối loạn tâm thần nào, và nguy cơ tăng cao này xuất hiện ngay cả khi bệnh đi kèm với hội chứng trầm cảm đã được kiểm soát.</p><p></p><p>Sử dụng số liệu điều tra Dịch tễ vùng (ECA survey: Epidemiological Catchment Area survey) ở Canada thông qua các câu hỏi về tự tử với người mắc PD-- dưới dạng bảng tự tường thuật (self-report format)--, nhóm nghiên cứu Cox, Direnfeld, Swinson, & Norton (1994) cho hay là, hầu hết các trường hợp nỗ lực tự tử đều cùng tồn tại các triệu chứng trầm cảm.</p><p></p><p>Với trạng thái cảm xúc thiếu kiên định của người mắc BPD thì khả năng trầm uất đến độ chỉ chực đe doạ tự tử (suicide threats) có thể xảy ra chỉ sau vài giờ đồng hồ đối tượng tỏ vẻ vui mừng, háo hức hết mực cùng ai đó.</p><p></p><p>Một sự kiện đáng chú ý nữa là tỷ lệ tự tử ở người trẻ mắc BPD tăng gấp 3 lần trong vòng 25 năm (Sudak, Ford, & Rushforth, 1984).</p><p></p><p>Mặt khác, các nghiên cứu sử dụng phương pháp tâm lý tử thi (psychological autopsies) như của Runeson & Beskow (1991); Lesage và cs. (1994); Rich & Runeson (1992); Martunnen, Aro, Henrikkson, & Lonnqvist (1991) chứng thực là 1/3 trường hợp tự tử trẻ đều có thể hồi cứu chẩn đoán mắc BPD.</p><p></p><p>Và dù tỷ lệ tự tử nói chung chủ yếu tăng cao ở đàn ông, Martunnen và cs. (1995) đã phát hiện thấy 25% ca nữ vị thành viên tự tử tại Phần Lan cũng có thể được chẩn đoán từng mắc BPD.</p><p></p><p>Tỷ lệ hoàn thành việc tự tử ở người mắc BPD rất cao, ước tính 8-9%, theo Both Stone (1990) và Paris (1993). Một nghiên cứu ở Na Uy (Kjelsberg, Eikeseth, & Dahl, 1991) và Canada (Silver, & Cardish, 1991) thì tuyên bố cứ 10 người mắc BPD lại có 1 người rốt cục nhiệt tình tự kết liễu đời mình (eventually commits suicide).</p><p></p><p>Tỷ lệ tổng thể tự tử thành công này tương tự ở đối tượng mắc tâm thần phân liệt/ schizophrenia (Wilkinsson, 1982) và người mắc các rối loạn cảm xúc/ MD: Mood Disorders (Guze & Robins, 1970). Đa phần các trường hợp tự tử xảy ra vào thời kỳ 5 năm đầu tiên mắc bệnh.</p><p></p><p>Mặc dù hầu hết các trường hợp dự tính quyên sinh và tự tử thành công xảy ra ở người mắc các bệnh tâm thần chủ yếu như trầm cảm, tâm thần phân liệt, hoặc các rối loạn lạm dụng chất (SAD: Substance Abuse Disorders), vẫn có bằng chứng lâm sàng khẳng định đối tượng mắc NPD đặc biệt nghiêng hẳn về hành vi tự tử (Perry, 1990; Maltsberger, 1998).</p><p></p><p>Những phản ứng đớn đau, tủi hổ sau thất bại, bị chỉ trích, nhục mạ rất dễ dẫn đến hành vi tự tử ở người mắc NPD. Bệnh kèm NPD với người mắc BPD khiến tỷ lệ tự tử tăng cao hơn, so với người chỉ mắc mỗi BPD (Stone, 1989; McGladshan & Heinssen, 1989).</p><p></p><p>Chẩn đoán sau tử vong (postmortem) một nhóm thanh niên trẻ quyên sinh cho thấy, trên 20% mang kiểu nhân cách tự mê mình NP (Apter và cs., 1993).</p><p></p><p>Cả O. Kernberg (1984) và Kohut (1971) đều nhấn mạnh việc tự tử ở người mắc NPD với các kiểu hành vi tự gây xung hấn với chính mình (self-direction aggression)- hài hoà với cái tôi loạn dâm gây đau thuộc hội chứng tự mê ác tính (egosyntonic sadism in malignant narcissism) và cơn thịnh nộ tự mê trong việc đáp ứng với các tổn thương do chính mình gây ra (narcissistic rage in response to narcissistic injuries).</p><p></p><p>Hai nhà nghiên cứu này cũng khẳng định rằng, hành vi tự tử ở người mắc NPD không cần thiết liên quan tới các trạng thái trầm cảm mang sắc thái tội lỗi mà trái lại, nó có thể tăng cao ở người mắc NPD có lòng tự trọng (self- esteem), cảm thấy mất quyền lực, thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi, kiểm soát đời sống, và chiến thắng cái chết (O. Kernberg, 1984).</p><p></p><p>Những hành động tự tử cũng có thể được hiểu như là nỗ lực gắng sức loại bỏ bản ngã nhằm xoá sạch một thực tại đầy tràn bất mãn và thất bại (Kohut, 1971).</p><p></p><p>Vào cuối độ tuổi trung niên-- đối tượng mắc NPD-- khi tuyệt vọng, hoàn toàn uất ức và nhận ra rằng các sự kiện đời sống là không thể đảo ngược, thì nảy sinh trong họ niềm ao ước mãnh liệt muốn tự hành xác mình (mortification) để quên đi những cảm xúc nhục nhã không thể chịu đựng nổi (Kohut, 1977).</p><p></p><p>Kiểu hành vi tự sát đột ngột vì các mối đe doạ và stress trong quan hệ liên nhân cách có thể tìm thấy ở người mắc NPD không xuất hiện trầm cảm nhưng lại tỏ thái độ hoang tưởng tự cao (grandiose), bị tổn thương và tính xung khắc. Những cá nhân như thế thiếu năng lực định dạng bản thân, kinh nghiệm và kiềm chế cảm xúc (Ronningstam & Maltsberger, 1998).</p><p></p><p></p><p><strong>Sự khác biệt giữa ý định tự tử và nỗ lực quyên sinh</strong></p><p></p><p>Thực tế, cho thấy rất ít người chỉ nghĩ đến chuyện tự tử rồi lại thật sự quyết tâm, nỗ lực gắng sức đi đến cùng ý định quyên sinh.</p><p></p><p>Nghiên cứu của Kate Fairweather và cộng sự (2006) phát hiện ra rằng, những người gắng sức nỗ lực tự tử, so với đối tượng chỉ mới nghĩ đến chuyện này thôi, có một số đặc điểm rất khác biệt: mắc bệnh hiểm nghèo (serious ill-health), bị thất nghiệp và quan hệ bạn bè, gia đình bất ổn, kém cỏi.</p><p></p><p>Những yếu tố này có hiệu ứng tích luỹ dần-- một đối tượng có 2/3 yếu tố vừa nêu đã tăng gấp 3 lần nỗ lực gắng sức tự tử; một đối tượng khác hội đủ 3 yếu tố thì có khả năng quyết tâm thực hiện chuyện tự tử đến 11 lần.</p><p></p><p>Nghiên cứu tiến hành đại trà trên 522 người (tuổi từ 20 tới 44)-- từng muốn kết thúc cuộc đời vào năm vừa qua và chỉ 10% trong số họ đã có nỗ lực gắng sức tự tử--, cũng nhận thấy có mối liên quan giữa giới tính và độ tuổi.</p><p></p><p>Thí dụ, chỉ tính riêng cánh đàn ông, thì số đối tượng chiếm tỷ lệ chưa tới 20% cho biết mình đã gắng sức tự sát; chính là những người đạt mức "bậc thầy" ("master") trong việc kiểm soát các yếu tố tác động đến cuộc sống của họ.</p><p></p><p>Nguyên tắc đàn ông đòi hỏi tính tự chủ (autonomy), tự tin (self-confident) và hoạt động hướng đến mục tiêu (being goal-orientated). Theo đó, một khi đàn ông nghĩ là mình hẫng hụt, kém cỏi các phẩm chất này thì trong họ nảy sinh cảm giác ngoài lề xã hội (social marginalised) hoặc thiếu năng lực, các nhà nghiên cứu cho biết.</p><p>Với người thuộc độ tuổi từ 40 đến 44, việc mất việc làm, thất nghiệp là nguy cơ riêng biệt khiến cho ước muốn tìm cách tự tử của họ cao gấp 9 lần.</p><p></p><p>Đáng ngạc nhiên hơn cả, tỷ lệ tự báo cáo mắc trầm cảm và lo hãi (anxiety) trong số người nỗ lực gắng sức tự tử lại không lớn, so với các đối tượng chỉ mới nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi.</p><p></p><p>Vậy là, chẳng hề tồn tại những sự khác biệt trong sức khoẻ tâm thần giữa người tìm mọi cách tự tử/ suicide attempters so với người tạm dừng ở ý tưởng/ ideators, nhóm nghiên cứu kết luận.</p><p></p><p>Và công trình của họ khẳng định: các chuyên gia sức khoẻ tâm thần có khả năng phòng chống, ngăn ngừa không để xảy ra tiến trình người mới nảy sinh ý nghĩ tự tử quyết tâm đi tới cùng ý định quyên sinh, nếu họ kịp thời nắm bắt các trường hợp vừa mới mất việc làm (recent job losses), bị chẩn đoán mắc bệnh thiếu khả năng, bất lực về mặt thể lý (diagnosis of a disabling physically illness) hoặc đang phải chịu đựng sứt mẻ trong các tương tác xã hội (upsetting social interactions).</p><p>------------------------</p><p>*Tài liệu tham khảo chính: Millon, Theodore., Blaney, Paul H., Davis, Roger D. (eds.) (1999). Oxford Textbook of Psychopathology (Giáo khoa Tâm bệnh học Oxford). USA: Oxford University Press, Inc.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="rubi_mos2002, post: 135182, member: 50878"] [B]Tự tử, dưới cái nhìn Tâm bệnh học[/B] Bài này góp phần cung cấp thông tin trả lời xung quanh câu hỏi: đâu là sự khác biệt giữa những người gắng sức tự tử với số đối tượng chỉ mới nghĩ tới chuyện này mà thôi? Hiện tượng tự tử xuất hiện trên lâm sàng của rất nhiều bệnh lý khác nhau: Rối loạn Nhân cách Ranh giới (BPD: Borderline Personality Disorder), Trầm cảm (Depression), Rối loạn Nhân cách Kịch tính (HPD: Histrionic Personality Disorder), Rối loạn Nhân cách Tự mê mình (NPD: Narcissistic Personality Disorder), Rối loạn Hoảng sợ (PD: Panic Disorder),... [B]Hiện tượng tự tử trên lâm sàng các bệnh Tâm thần[/B] Chẳng hạn, bệnh kèm khi mắc trầm cảm (Comorbid Depression) cũng khiến tăng lên các ý định và nỗ lực tự tử có liên quan với nỗi hoảng sợ bị tấn công (PA: Panic Attacks) và PD. Nghiên cứu cho thấy, 20% người được chẩn đoán là PD và 12% đối tượng mắc PA mang tiền sử nỗ lực tự tử (Weissman, Klerman, Markowitz, & Ouellette, 1989). Weissman và cs. cũng báo cáo rằng, các cá nhân mắc PD có quyết tâm gắng sức để chết mạnh mẽ gấp 18 lần so với các đối tượng không mắc bất cứ rối loạn tâm thần nào, và nguy cơ tăng cao này xuất hiện ngay cả khi bệnh đi kèm với hội chứng trầm cảm đã được kiểm soát. Sử dụng số liệu điều tra Dịch tễ vùng (ECA survey: Epidemiological Catchment Area survey) ở Canada thông qua các câu hỏi về tự tử với người mắc PD-- dưới dạng bảng tự tường thuật (self-report format)--, nhóm nghiên cứu Cox, Direnfeld, Swinson, & Norton (1994) cho hay là, hầu hết các trường hợp nỗ lực tự tử đều cùng tồn tại các triệu chứng trầm cảm. Với trạng thái cảm xúc thiếu kiên định của người mắc BPD thì khả năng trầm uất đến độ chỉ chực đe doạ tự tử (suicide threats) có thể xảy ra chỉ sau vài giờ đồng hồ đối tượng tỏ vẻ vui mừng, háo hức hết mực cùng ai đó. Một sự kiện đáng chú ý nữa là tỷ lệ tự tử ở người trẻ mắc BPD tăng gấp 3 lần trong vòng 25 năm (Sudak, Ford, & Rushforth, 1984). Mặt khác, các nghiên cứu sử dụng phương pháp tâm lý tử thi (psychological autopsies) như của Runeson & Beskow (1991); Lesage và cs. (1994); Rich & Runeson (1992); Martunnen, Aro, Henrikkson, & Lonnqvist (1991) chứng thực là 1/3 trường hợp tự tử trẻ đều có thể hồi cứu chẩn đoán mắc BPD. Và dù tỷ lệ tự tử nói chung chủ yếu tăng cao ở đàn ông, Martunnen và cs. (1995) đã phát hiện thấy 25% ca nữ vị thành viên tự tử tại Phần Lan cũng có thể được chẩn đoán từng mắc BPD. Tỷ lệ hoàn thành việc tự tử ở người mắc BPD rất cao, ước tính 8-9%, theo Both Stone (1990) và Paris (1993). Một nghiên cứu ở Na Uy (Kjelsberg, Eikeseth, & Dahl, 1991) và Canada (Silver, & Cardish, 1991) thì tuyên bố cứ 10 người mắc BPD lại có 1 người rốt cục nhiệt tình tự kết liễu đời mình (eventually commits suicide). Tỷ lệ tổng thể tự tử thành công này tương tự ở đối tượng mắc tâm thần phân liệt/ schizophrenia (Wilkinsson, 1982) và người mắc các rối loạn cảm xúc/ MD: Mood Disorders (Guze & Robins, 1970). Đa phần các trường hợp tự tử xảy ra vào thời kỳ 5 năm đầu tiên mắc bệnh. Mặc dù hầu hết các trường hợp dự tính quyên sinh và tự tử thành công xảy ra ở người mắc các bệnh tâm thần chủ yếu như trầm cảm, tâm thần phân liệt, hoặc các rối loạn lạm dụng chất (SAD: Substance Abuse Disorders), vẫn có bằng chứng lâm sàng khẳng định đối tượng mắc NPD đặc biệt nghiêng hẳn về hành vi tự tử (Perry, 1990; Maltsberger, 1998). Những phản ứng đớn đau, tủi hổ sau thất bại, bị chỉ trích, nhục mạ rất dễ dẫn đến hành vi tự tử ở người mắc NPD. Bệnh kèm NPD với người mắc BPD khiến tỷ lệ tự tử tăng cao hơn, so với người chỉ mắc mỗi BPD (Stone, 1989; McGladshan & Heinssen, 1989). Chẩn đoán sau tử vong (postmortem) một nhóm thanh niên trẻ quyên sinh cho thấy, trên 20% mang kiểu nhân cách tự mê mình NP (Apter và cs., 1993). Cả O. Kernberg (1984) và Kohut (1971) đều nhấn mạnh việc tự tử ở người mắc NPD với các kiểu hành vi tự gây xung hấn với chính mình (self-direction aggression)- hài hoà với cái tôi loạn dâm gây đau thuộc hội chứng tự mê ác tính (egosyntonic sadism in malignant narcissism) và cơn thịnh nộ tự mê trong việc đáp ứng với các tổn thương do chính mình gây ra (narcissistic rage in response to narcissistic injuries). Hai nhà nghiên cứu này cũng khẳng định rằng, hành vi tự tử ở người mắc NPD không cần thiết liên quan tới các trạng thái trầm cảm mang sắc thái tội lỗi mà trái lại, nó có thể tăng cao ở người mắc NPD có lòng tự trọng (self- esteem), cảm thấy mất quyền lực, thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi, kiểm soát đời sống, và chiến thắng cái chết (O. Kernberg, 1984). Những hành động tự tử cũng có thể được hiểu như là nỗ lực gắng sức loại bỏ bản ngã nhằm xoá sạch một thực tại đầy tràn bất mãn và thất bại (Kohut, 1971). Vào cuối độ tuổi trung niên-- đối tượng mắc NPD-- khi tuyệt vọng, hoàn toàn uất ức và nhận ra rằng các sự kiện đời sống là không thể đảo ngược, thì nảy sinh trong họ niềm ao ước mãnh liệt muốn tự hành xác mình (mortification) để quên đi những cảm xúc nhục nhã không thể chịu đựng nổi (Kohut, 1977). Kiểu hành vi tự sát đột ngột vì các mối đe doạ và stress trong quan hệ liên nhân cách có thể tìm thấy ở người mắc NPD không xuất hiện trầm cảm nhưng lại tỏ thái độ hoang tưởng tự cao (grandiose), bị tổn thương và tính xung khắc. Những cá nhân như thế thiếu năng lực định dạng bản thân, kinh nghiệm và kiềm chế cảm xúc (Ronningstam & Maltsberger, 1998). [B]Sự khác biệt giữa ý định tự tử và nỗ lực quyên sinh[/B] Thực tế, cho thấy rất ít người chỉ nghĩ đến chuyện tự tử rồi lại thật sự quyết tâm, nỗ lực gắng sức đi đến cùng ý định quyên sinh. Nghiên cứu của Kate Fairweather và cộng sự (2006) phát hiện ra rằng, những người gắng sức nỗ lực tự tử, so với đối tượng chỉ mới nghĩ đến chuyện này thôi, có một số đặc điểm rất khác biệt: mắc bệnh hiểm nghèo (serious ill-health), bị thất nghiệp và quan hệ bạn bè, gia đình bất ổn, kém cỏi. Những yếu tố này có hiệu ứng tích luỹ dần-- một đối tượng có 2/3 yếu tố vừa nêu đã tăng gấp 3 lần nỗ lực gắng sức tự tử; một đối tượng khác hội đủ 3 yếu tố thì có khả năng quyết tâm thực hiện chuyện tự tử đến 11 lần. Nghiên cứu tiến hành đại trà trên 522 người (tuổi từ 20 tới 44)-- từng muốn kết thúc cuộc đời vào năm vừa qua và chỉ 10% trong số họ đã có nỗ lực gắng sức tự tử--, cũng nhận thấy có mối liên quan giữa giới tính và độ tuổi. Thí dụ, chỉ tính riêng cánh đàn ông, thì số đối tượng chiếm tỷ lệ chưa tới 20% cho biết mình đã gắng sức tự sát; chính là những người đạt mức "bậc thầy" ("master") trong việc kiểm soát các yếu tố tác động đến cuộc sống của họ. Nguyên tắc đàn ông đòi hỏi tính tự chủ (autonomy), tự tin (self-confident) và hoạt động hướng đến mục tiêu (being goal-orientated). Theo đó, một khi đàn ông nghĩ là mình hẫng hụt, kém cỏi các phẩm chất này thì trong họ nảy sinh cảm giác ngoài lề xã hội (social marginalised) hoặc thiếu năng lực, các nhà nghiên cứu cho biết. Với người thuộc độ tuổi từ 40 đến 44, việc mất việc làm, thất nghiệp là nguy cơ riêng biệt khiến cho ước muốn tìm cách tự tử của họ cao gấp 9 lần. Đáng ngạc nhiên hơn cả, tỷ lệ tự báo cáo mắc trầm cảm và lo hãi (anxiety) trong số người nỗ lực gắng sức tự tử lại không lớn, so với các đối tượng chỉ mới nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi. Vậy là, chẳng hề tồn tại những sự khác biệt trong sức khoẻ tâm thần giữa người tìm mọi cách tự tử/ suicide attempters so với người tạm dừng ở ý tưởng/ ideators, nhóm nghiên cứu kết luận. Và công trình của họ khẳng định: các chuyên gia sức khoẻ tâm thần có khả năng phòng chống, ngăn ngừa không để xảy ra tiến trình người mới nảy sinh ý nghĩ tự tử quyết tâm đi tới cùng ý định quyên sinh, nếu họ kịp thời nắm bắt các trường hợp vừa mới mất việc làm (recent job losses), bị chẩn đoán mắc bệnh thiếu khả năng, bất lực về mặt thể lý (diagnosis of a disabling physically illness) hoặc đang phải chịu đựng sứt mẻ trong các tương tác xã hội (upsetting social interactions). ------------------------ *Tài liệu tham khảo chính: Millon, Theodore., Blaney, Paul H., Davis, Roger D. (eds.) (1999). Oxford Textbook of Psychopathology (Giáo khoa Tâm bệnh học Oxford). USA: Oxford University Press, Inc. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học Tổng quát
Phát triển những kỹ năng can thiệp khủng hoảng
Top