Phân tích tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính

hoangphuong

New member
Phân tích tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”của Phạm Tiến Duật

Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội Trường Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ.

Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ “ Trường Sơn đông-Trường Sơn tây, lửa đèn, giửi em cô thanh niên xung phong, nhớ....”đã góp phần trẻ hoá thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “bài thơ về tiểu đội xe không kính” được rút ra trong tập thơ “vầng trăng-quầng lửa” của tác giả. Trong bài thơ tác giả đã xây dựng một hìng tượng độc đáo những “chiếc xe không kính” chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến trường miền Nam ruột thịt.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã giải thích vì sao tất cả xe trong tiểu đội đều “không có kính” vì bom đạn giặc Mỹ làm “kính vỡ đi rồi”. Chỉ một chi tiết nhỏ “không có kính vì xe không có kính-bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi” tác giả đã làm cho người đọc hiểu được sự ác liệt, tàn bạo của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra. Những chiếc xe này đã làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mỹ cứu nước.

Thế mà, những người lính trên những chiếc “xe không kính” vẫn “ung dung buồng lái ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!”

Thái dộ ung dung và “cái nhìn” của anh lái xe như bất chấp, coi thường tất cả nguy hiểm ở phía trước mác dù “bụi phun tóc trắng như người già”, cho dù “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”...các anh vẫn “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hoặc tếu táo “phì phèo châm điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang, dũng cảm, bất chấp mọi nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe, để lái những chiếc xe không kính ra mặt trận với một niềm tin niềm vui của tuổi trẻ.

Khung kính đã bị vỡ, không có gì để chắn gió trời ùa vào, đập thẳng vào mắt. Thế mà, tác giả lại viết: “ nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”.

“ Xoa” là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve âu yếm. Qua cách diễn đạt của câu thơ thì ở đây, gió không làm đau, làm rát mắt của người lái xe mà ngược lại gió còn vỗ về nhè nhẹ vào đôi mắt “đắng”. Và, con đường trước mặt- con đường ra trận trở nên gần sát hơn đang chạy ngược lại “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Vì không có kính chắn, nên người lái xe có cảm giác và ấn tượng “Con đường chạy thẳng vào tim”. Con đường thực trước mặt đó củng chính là con đường được nhà thơ nâng lên thành con đường lý tưởng con đường cách mạng..., con đường ở trong trái tim của người chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp cho cac chiến sĩ lái xe thêm sức mạnh, niềm tin, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tiến lên phía trước: “ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim- như sa như ùa vào buồng lái”. Người lái xe vẫn vui với “ sao trời” và “Cánh chim”, “ sao trời và cánh chim” ngày đêm như bầu bạn với người lính lái xe. Ngày cũng nhưu đêm, thiên nhiên, đất trời luôn sát cánh với người chiến sĩ lái xe trên suốt chặng đường dài ra trận. Với nghệ thuật nhân hoá tài tình, nhà thơ đã biến những khó khăn trở ngại khio lái những chiếc xe không kính trở thành gần gủi gắn bó thân thương hơn. Giọng điệu thơ có khi thật ngang, tự nhiên, bất chấp gian khổ được thể hiện rõ trong cấu trúc đựoc lặp lại “ Ừ thì...”, “Chưa cần rửa”, “Chưa cần thay” ..., “Lái trăm cây số nữa...”. Dường như gian khổ nguy hiểm, ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại, những người lính lái xe xem như là một nhịp để rèn thử thách sức mạnh và ý chí của mình “ chí làm trai” -tuổi trẻ người lính”.

Những người lái xe còn là những chàng trai trẻ, sôi nổi, vui nhộn, lạc quan. Họ “nhìn nhau”, “bát tay nhau”, và trên đường ra trận thì “ bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời- chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, và cứ thế “ võng mắc chong chênh đường xe chạy”, trước mắt họ những chiếc xe lại tiến lê phía trước, là ta cứ đi, lại đi “trời xanh thêm” không có gì ngăn cản đuợc đường ra mặt trận.

Cái gì đẫ làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ bất chấp gian nan như vậy? Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền nam là tình yêu nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ thời đánh Mỹ cứu nước.

Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi, trụi trần ”Không có kính rồi xe không đèn- không có mui xe, thùng xe có xước” Nhưng điều kì lạ là những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một làn nữa lí giải bất ngờ và rất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính cách mạng- trái tim của lòng quả cảm.

Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng điệu thơ gần gủi, vui tươi, dí dỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: dũng cảm hiên ngang, với niềm vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm để ra trận vì Miền Nam ruột thịt thân yêu. Họ luôn đối diện với khó khăn thử thách, mà vẫn cười đùa, tếu táo, hồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài thơ cũng như ngôn ngữ, giọng điệu riêng của thơ Phạm Tiến Duật. Hôm nay đất nước dã hoà bình sau hơn 30 năm giải phóng Miền Nam con đường Trường Sơn đã đi vào lịch sử, đọc lại bài thơ này, chúng ta càng tự hào và khâm phục biết bao các chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp phần vào chiến thắng huy hoàng của dân tộc.

(Sưu tầm)
 
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt .Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người ,sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật .Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ .Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên,sống động,gân guốc,độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .

Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm:những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe.Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .

Cách lý giải đơn giản ,ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc .Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung ”giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất ,nhìn trời ,nhìn thẳng.

Trên những chiếc xe không kính ,dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm .Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ.Trong tư thế ung dung ,trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh ,tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên.Nhịp thơ cân xứng,ý thơ trôi chảy ,lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận .Cái vất vả ,gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái .

Xe không kính ,gió lùa mạnh vào cabin,người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến,dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ .Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành :
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già .
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời .

Điệp từ “ừ thì” , “chưa cần” ,hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”,giọng “cười haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái .Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh .Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái.Đường Trường Sơn gập ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước,mùa khô xe chạy bụi mù trời.Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi.Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi .

Lạ lùng thay ,như một khám phá bất chợt của nhà thơ ,sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau , bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị :
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy .

Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính không chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình . Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng . Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng :

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .

Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra : “không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.Như vậy cả “không có” và “có ”đều là tổn thất ,đều là hư hại.Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn ,đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường . Kì lạ thay :

Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung ,sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến .Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra .Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe .Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ .Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương.Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái .


Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm.Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi,hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ ,đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả.

(nguồn net.sinhvien)
 
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Bài làm

Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm tháng chống Mỹ. Bản thân là anh bộ Trường Sơn nên tác giả cảm và hiểu rất rõ tâm tình của người lính nhất là người chiến sĩ vận tải dọc đường Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với lứa thanh niên hăng hái:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai

Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: Khỏe khoắn, tự nhiên tràn trề sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.

Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lái xe ở chiến trường Trường Sơn hiên ngang dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi . Ta không rõ nhà thơ đã từng bao nhiêu lần trực tiếp cầm lái, hay ngồi trong ca bin bên cạnh người lái mà ngôn ngữ, nhạc điệu cảm hững và suy nghĩ trong bài là hết sức chân thực và sống động. Mở đầu bài thơ là lời kể, lời giới thiệu đoàn xe:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

Lời thơ như câu văn xuôi, ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Cứ y như một đoàn xe đang lừng lững tiến lại. Một hình ảnh thơ thật lạ, thật độc đáo hiện ran gay trong phần mở đầu của bài: “Những chiếc xe không kính”. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ nếu đưa vào thơ thì thường là đã được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực thí dụ như bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, chiếc xe trong bài “Bài ca lái xe đêm” của Tố Hữu. Ngược lại Phạm Tiến Duật thì đưa vào thơ của mình hình ảnh những chiếc xe trần trụi, bị phá hủy gần như là phế thải và tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực “bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.

Từ cách giới thiệu chiếc xe đến cách giải thích nguyên nhân xe không có kính đều rất chân thật, rất tự nhiên, giọng điệu pha chút ngang tàng trong đó càng gây ra sự chú ý về vẻ khác lạ của nó.

Không chỉ có thế , bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa ‘không có kính, rồi xe không có đèn – không có mui xe, thùng xe có nước’ – Dường như những chiếc xe ấy không còn là xe nữa. Hình ảnh kì lạ ấy giúp ta hiểu được rằng chiến tranh lúc ấy thật khốc liệt, sắt thép còn như thế huống gì là con người! phải là con người có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ. Những chiếc xe kì lạ “không có kính chắn gió mà thật anh hùng’.

Hình ảnh những chiếc xe không kính ấy, đã làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe. Bởi trên những chiếc xe ấy người chiến sĩ vẫn vững vàng tay lái. Vừa nhấn ga cho xe lăn bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái…

Đó là những câu thơ tả thực, sự thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh, nên người lái phải đối mặt với biết bao khó khăn nguy hiểm. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi sao trên trời, rồi chim dưới đất đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đập, quăng ném…vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động, cụ thể đầy ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, không hoảng hốt. Trái lại tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng. Các anh vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi- Nhìn đất trời nhìn thẳng”. Hai câu thơ có nhịp thật cân đối diễn tả được sự tự tin của người lái. Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ lái xe phải trải qua. Nhưng trước khó khăn ấy, các anh vẫn bình tĩnh, tự tin vượt qua tất cả. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút bươn trải trên đường. Có chỗ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát, vút cao, vui vẻ.

Vẫn cái âm điệu nhẹ nhàng, trong sáng ấy, hai khổ thơ tiếp theo lại biểu hiện rõ nét hơn tâm tư tình cảm của người chiến sĩ.

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
….
Chưa cần thay lái, trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Lái những chiếc xe không kính người chiến sĩ phải đương đầu với bao trở ngại trên đường đi tới. Đó là bụi đường phun trắng, là mưa tuôn, mưa xối. Trước những thử thách ấy, các anh lại càng bình tĩnh dũng cảm hơn “Không có kính ừ thì … chưa cần…”. Cấu trúc câu được lặp lại đã toát lên một thái độ cứng cỏi, ngang tàng bất chấp mọi khó khăn. Các anh đã xem đây như là sự thử thách mới để thử sức mình. Ta đã thấy trong gian nan lại có tiếng cười đùa vui vẻ, cái lạc quan phớt đời, cái tếu táo của người lính, dường như các anh không biết hiểm nguy là gì vẫn cứ hiên ngang tiến bước. Đoạn thơ như khúc nhạc vui sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Nhạc vui hòa cùng những hình ảnh hóm hỉnh “ phì phèo châm điếu thuốc”, “mặt lấm cười ha ha” làm cho lời thơ thêm rộn rã.

Hơn thế các anh lại sống với nhau rất tình nghĩa yêu thương gắn bó lạc quan yêu đời. Bởi không phải chỉ có môt chiếc xe không kính mà là cả tiểu đội xe từ trong bom rơi hợp cùng nhau. Khi hành quân, các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo “bắt tay qua cửa kính vỡ”, ăn uống chung bát đũa như trong một gia đình. Rồi các anh lại cùng nhau lên đường ‘lại đi, lại đi trời xanh thêm’. Câu thơ bay bay, phơi phới thật lãng mạn, thật mộng mơ.
Bài thơ kết thúc với hình ảnh thật đẹp:

Không có kính, rồi xe không có đèn.
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Ở đây tác giả nêu lên sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, vẻ bên ngoài và bên trong chiếc xe. Chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng đến trơ trụi : Không có kính, không đèn, không mui…nhưng điều kì lạ là chiếc xe trần trụi ấy vẫn chạy và tác giả lý giải bất ngờ mà rất chí lí : “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ quốc tình thương đồng bào, đồng chí ở Miền Nam đã khích lệ động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc “vô lăng”, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích? Ngữ điệu của câu thơ “chỉ cần … một trái tim” thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc họa hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật sâu đắm, trìu tượng. Đằng sau những ý nghĩa ấy câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: Sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ mà là con người – Con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Câu thơ cuối cùng này là câu thơ hay nhất trong bài. Nó là “nhãn tụ” , là con mắt của cả bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ.

Đọc bài thơ ta dễ dàng nhận rõ cái chất giọng rất trẻ, rất lính của nhà thơ. Cái nghịch nghợm ngang tàng , cái tếu táo ấy là những cái rất riêng trong thơ của Phạm Tiến Duật. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự linh hoạt của nhạc điệu, sự sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, chi tiết…đã tạo nên chất thơ trong bài. Và chính từ thực tế cuộc sống chiến đấu, từ niềm vui sống của con người thời đại đã giúp cho nhà thơ xây dựng nên hình tượng thơ độc đáo để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng người đọc, ta như bị cuốn hút trong những lời thơ thật mạnh mẽ, vui tươi của tác giả.

Tóm lại, đây là một bài thơ độc đáo tiêu biểu cho giọng thơ trẻ thời chống Mỹ,. Bài thơ đi vào lòng người với những cảm xúc đầy tự hào về anh chiến sĩ Trường Sơn năm xưa: Kiên cường dũng cảm, hiên ngang bất chấp mọi gian khổ chiến đầu vì lý tưởng “độc lập tự do”. Lịch sử đã sang trang mới nhưng có lẽ hình ảnh những chiếc xe không kính cùng anh chiến sĩ lái xe vẫn sống mãi trong lòng bao thế hệ mai sau.

Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top