- Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Hà Nội ) tháng 2.1943 chỉ ra: sau 6.1941, tính chất chiến tranh thế giới thay đổi, chiến tranh sẽ phức tạp, quyết liệt, tàn phá dữ dội; Liên Xô cùng phe dân chủ sẽ thắng; Pháp - Nhật sẽ xung đột, phong trào cách mạng sẽ lớn mạnh “có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao”. Nghị quyết chủ trương mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp, đặc biệt chủ trương đặt mình vào tình thế khẩn cấp, gấp chuẩn bị khởi nghĩa, tích cực tuyên tuyền, tổ chức tranh đấu, vận động các giới công vận, nông vận, thanh vận, binh vận, phụ vận, vận động phú hào, dân tộc thiểu số, chuẩn bị kế hoạch toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp tới. “Quân Anh - Mỹ - Trung Quốc sẽ vào Đông Dương diệt Nhật. Khi ấy ta phải lợi đúng dịp tốt khởi nghĩa giành chính quyền đồng thời giao thiệp với Anh - Mỹ - Trung Quốc để họ công nhận quyền tự do độc lập của nhân dân Đông Dương và rút ra khỏi Đông Dương sau khi đã cùng ta đánh bại phát xít Nhật- Pháp “.
=> Nghị quyết này là bước phát triển mới và thể hiện sự nhạy bén chính trị, tư duy đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.
- Chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.3.1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ra đời trong bối cảnh Nhật đảo chính Pháp 9.3.1945. Chỉ thị của Trung ương đã nhận xét tình hình, chỉ ra nguyên nhân, tính chất và mục đích cuộc đảo chính Nhật - Pháp. Các cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Thời cơ tiền khởi nghĩa đã đến. Kẻ thù trước mắt, duy nhất là phát xít Nhật. Nhiệm vụ của Đảng là phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đảng thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; mạnh dạn xuống đường đấu tranh với khẩu hiệu “phá kho thóc để giải quyết nạn đói”; phương pháp đấu tranh là chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích. Trung ương dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, đã bám chắc, tiến sâu vào đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng Minh, để phía sau sơ hở. Trung ương còn cảnh báo tinh thần chủ động, phải dựa vào sức mình là chính, không được ỷ lại để nếu quân Đồng Minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi. Cần tổ chức Uỷ ban quân sự cách mạng, tổ chức huấn luyện theo Chương trình Việt Minh và sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng Minh.
- Bản Chỉ thị ngày 12.3.1945 thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt, chỉ đạo rất kịp thời của Thường vụ Trung ương Đảng, khích lệ cao độ tinh thần vận dụng sáng tạo của các cấp uỷ Đảng và cán bộ, đảng viên trong cao trào kháng Nhật cứu nước và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Nghị quyết của toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 14,15.8.1945 ra đời trong bối cảnh tình thế cách mạng đã xuất hiện trực tiếp trên đất nước ta... Nghị quyết chỉ r” tình hình thế giới và Đông Dương và nêu ra các chủ trương lớn chỉ đạo khởi nghĩa giành độc lập như thành lập Uỷ ban hành chính nơi ta làm chủ; tránh xung đột, giao thiệp thân thiện với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước taẶ Đảng chủ trương tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc; lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng để tránh đối phó nhiều kẻ thù một lúc; nêu các nhiệm vụ tuyên truyền cổ động, đặt Quốc ca và định Quốc kỳ, quyết định nhiều nhiệm vụ tác chiến quân sự quan trọng.
- Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện trí tuệ sáng suốt, sự nhạy bén chính trị, tầm nhìn chiến lược và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân ta trước giờ phút quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Nghị quyết này của Đảng, sau đó là Đại hội quốc dân Tân Trào (16.8) đã chuẩn bị cụ thể, trực tiếp cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bao hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.Từ ngày 14-8-1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái.
Ngày 18-8-1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hòa giành chính quyền.
Ngày 19-8-1945 dưới sự chỉ đạo của Thành Ủy Hà Nội hàng chục vạn quần chúng sau khi dự míttinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình.
Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, chính quyền đã về tay nhân dân.
Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế.
Ngày 25-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn.
Chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Kết quả thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám, là ngày 02-9-1945 tại cuộc míttinh lớn tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do. Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”
Nguồn:
https://me.zing.vn/apps/blog?params=/quangteo_nb91/blog/detail/id/609869489
https://ntu.edu.vn/vi-vn/tintuc.aspx?macd=662&matin=1160&lang=0