Xác định đường lối giải phóng dân tộc và chủ trương khởi nghĩa vũ trang
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam, Hội nghị nêu rõ ở nước ta mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phát xít Pháp-Nhật, bởi vì dưới hai tầng áp bức Nhật – Pháp, “quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”. “Pháp – Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông” mà là kẻ thù chung của cả dân tộc.
Hội nghị khẳng định: "Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, lực lượng giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân Đông Dương…"Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải riêng của của giai cấp vô sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương". Hội nghị chủ trương: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được". Vì vậy, phải tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày". Quyền lợi của nông dân được giải quyết ở một mức độ thích hợp bằng việc thực hiện các khẩu hiệu: tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Hội nghị chủ trương gải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, nhằm thực hiện chính sách “dân tộc tự quyết”. “Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành thành một dân tộc quốc gia tùy ý”. Cách giải quyết đó có tác dụng phát huy sức mạnh của mỗi dân tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, đập tan những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù về vấn đề dân tộc, đồng thời tạo điều kiện đoàn kết ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Về phương pháp cách mạng, Hội nghị đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhấn mạnh đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Nghị quyết hội nghị ghi rõ: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù…". Trong những hoàn cảnh nhất định "với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
Vận dụng “phương pháp làm việc biện chứng” của C. Mác, Hồ Chí Minh đã phân tích thực tiễn xã hội Việt Nam thuộc địa, không máy móc, coi vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề nông dân, cũng không xem quyền lợi cơ bản của nông dân là vấn đề ruộng đất. Người nhấn mạnh yêu cầu khách quan của lịch sử cách mạng ở thuộc địa là giành độc lập dân tộc. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và quan điểm khởi nghĩa dân tộc là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.