Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề độc lập dân tộc; ngược lại, vấn đề xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, vấn đề giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới. Trong xã hội có giai cấp, vấn đề giai cấp không phải vấn đề riêng của 1 giai cấp, 1 tầng lớp nào đó, mà là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc bị áp bức là nội dung cơ bản của quá trình giả phóng con người, đưa nhân loại tiến lên. Do vây, không thể tách rời vấn đề giai cấp với vấn đề nhân loại.
Để tìm hiểu sâu hơn, mời bạn đọc tham khảo bài viết về mối quan hệ giai cấp - dân tộc và mối quan hệ giai cấp - nhân loại.
1. Quan hệ giai cấp - dân tộc
+ Nếu giai cấp và quan hệ giai cấp trước hết là quan hệ sản xuất, tức trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội, thì dân tộc và quan hệ dân tộc được hiểu rộng hơn, bền hơn với tư cách là các cộng đồng trong tổng thể các quan hệ cộng đồng xã hội cùng lãnh thổ, cùng ngôn ngữ, cùng truyền thống văn hoá và cùng cộng đồng kinh tế của một quốc gia nhất định trong lịch sử, và cao hơn hẳn các cộng đồng thị tộc, bộ lạc, bộ tộc trước kia.
+ Giai cấp và dân tộc không đồng thời sinh ra và mất đi. Trên thế giới, giai cấp từng sinh ra trước dân tộc hàng nghìn năm. Khi giai cấp mất đi trước hết nhờ chín mùi tiền đề kinh tế, tiền đề quan hệ sản xuất, thì dân tộc còn tồn tại lâu hơnnhờ tác động tổng hợp của tổng thể các quan hệ cộng đồng vật chất lẫn tinh thần (lãnh thổ, ngôn ngữ, truyền thống văn hoá và kinh tế).
+ Quan hệ giai cấp là nhân tố quyết định tiến trình hình thành và phát triển của các dân tộc. Với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp, quan hệ giai cấp là nhân tố có vai trò quyết định đối với tiến trình hình thành, tồn tại, biến đổi, phát triển và mất đi của các dân tộc. Nói khác đi, quan hệ giai cấp (hay phương thức sản xuất thống trị) quyết định bản chất dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc. Nếu ở phương Tây, các dân tộc hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất TBCN, với tiến trình cách mạng tư sản hay các cải cách dân chủ tư sản, thì trái lại, ở phương Đông, sự hình thành và phát triển các dân tộc từng diễn ra trước CNTB hàng nghìn năm, gắn liền với một loạt nhân tố địa lý, kinh tế và phi kinh tế (như trị thủy, phương thức sản xuất châu Á [chiếm hữu nô lệ và phong kiến kém điển hình và không phân biệt rõ ràng như phương Tây), hoặc nhu cầu chống ngoại xâm từ đầu lập quốc…])
+ Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc. Do đó, giải phóng dân tộc phải gắn chặt với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; và trái lại, giải phóng giai cấp cùng với giải phóng con người cũng tác động mạnh mẽ trở lại giải phóng dân tộc. Trong lịch sử từ cận –hiện đại, bản chất và xu hướng phát triển của các dân tộc tư sản tuỳ thuộc trước tiên vào phương thức sản xuất TBCN thống trị đương thời là tiến bộ hay lỗi thời về lịch sử. Và lịch sử đã chứng minh rằng, quá trình hình thành và phát triển CNTB sớm ở châu Âu (và sau đó ở Mỹ, Nga, Nhật Bản) cũng là quá trình thực dân hóa lần lượt khắp toàn cầu, dù là dưới hình thức thực dân cũ hay thực dân mới. Khi CNTB phát triển tới CNĐQ, tất cả các quốc gia dân tộc đang phát triển, và chậm phát triển đều trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của một nhóm các nước tư bản phát triển. Trong tình hình đó, mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa vô sản với tư sản đã phát triển thành ba mâu thuẫn cơ bản của CNĐQ – như phân tích của Lênin từ trước Cách mạng tháng 10: mâu thuẫn giữa vô sản với tưsản, giữa đế quốc với đế quốc, giữa đế quốc với thuộc địa. Chính tác động qua lại và ngày càng sâu sắc giữa ba mâu thuẫn cơ bản này đã làm CNTB phát triển không đều dưới CNĐQ, tạo khả năng khách quan cho bùng nổ và thắng lợi của cách mạng vô sản và cách mạng dân tộc dân chủ ở nước này hay nước khác.Mặt khác, sự phát triển của CNTB cũng tạo ra những tiền đề khách quan cho sự liên kết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Tiền đề vật chất có ý nghĩa sâu xa đối với quá trình này là quá trình xã hội hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới liên tục diễn ra ngày càng mạnh mẽ từ đầu thế kỷ XX đến nay.Khác hẳn với các phương thức sản xuất tiền tư bản (mang nặng tính tự nhiên, tự cung tự cấp – khép kín), phương thức sản xuất TBCN vốn mang tính quốc tế, nhất là khi CNTB phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa kể từ đầu thế kỷ 20. Vì vậy, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế, và ở phía đối lập, giai cấp vô sản cũng là một lực lượng quốc tế. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một thuộc tính bản chất của giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản không thể tách rời sự nghiệp cách mạng của nước mình với sự nghiệp chung của giai cấp vô sản quốc tế. Một mặt, chủ nghĩa Mác dạy rằng, Tổ quốc và Dân tộc là địa bàn trực tiếp của đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mỗi nước, rằng “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” . Mặt khác, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), Mác, Ăngghen đã kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”
+ Ap bức dân tộc đẩy mạnh áp bức giai cấp. Ap bức dân tộc nuôi dưỡng và cổ suý áp bức giai cấp. Từ thực tiễn thống trị của CNTB Anh đối với Ailen (thế kỷ 19), Mác đi tới kết luận rằng, một dân tộc đi áp bức một dân tộc khác, dân tộc ấy không thể có tự do. Điều đó có nghĩa là sự nghiệp đấu tranh cho độc lập và thống nhất dân tộc có tác động mạnh mẽ tới sự nghiệp đấu tranh để giải phóng giai cấp cũng như để phục hưng dân tộc. Nếu một dân tộc chưa được độc lập, thống nhất, thì chỉ giai cấp nào vừa đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ, vừa đi đầu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mới trở thành “giai cấp dân tộc” như Mác từng dạy.Giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò cách mạng một thời như vậy trong sự nghiệp dân chủ – dân tộc, chẳng hạn ở Bắc Mỹ (thế kỷ 18), ở Đức, Ý, Ao, Ba lan (thế kỷ 19) v.v.. Song, với bản chất bóc lột và ích kỷ của mình, một khi lợi ích sống còn của giai cấp tư sản bị đe dọa bởi sự lỗi thời của phương thức sản xuất TBCN hoặc bởi xâm lược từ bên ngoài, thì các chiêu bài “lợi ích quốc gia - dân tộc” hay “bảo vệ Tổ quốc” thực chất chỉ là lợi ích tư bản, nhất là lợi ích của đại tư bản mà thôi.
Dưới chủ nghĩa đế quốc, áp bức, bóc lột và nô dịch các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa (Á, Phi, Mỹ Latinh) là bản chất và lý do sống còn của các tập đoàn tư bản độc quyền của các nước chính quốc. Như phát hiện thiên tài của Lênin, sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị – một quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa đế quốc – có thể và nhất định làm chín muồi các mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa đế quốc ở một vài nước, thậm chí ở một nước mới phát triển trung bình như nước Nga, tạo tình thế và thời cơ cho cách mạng vô sản bùng nổ và thắng lợi ở một nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng 10 (1917) vừa là bằng chứng hùng hồn cho luận điểm nổi tiếng đó của Lênin, vừa mở ra thời đại mới quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Khẩu hiệu chiến lược tập hợp lực lượng cách mạng thời Mác, giờ đây được mở rộng và nâng lên thành khẩu hiện chiến lược mới cho phù hợp với thời đại Lênin – “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Chưa bao giờ giai cấp công nhân có thể và cần phải tập hợp các lực lượng tiến bộ và cách mạng đông đảo xung quanh mình để thúc đẩy tiến trình cách mạng thế giới vì các mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và CNXH như ở thế kỷ 20 đầy bão táp cách mạng vừa qua. Cơ sở lý luận sâu xa chỉ đạo tiến trình này là mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc được các Đảng Cộng sản ở các nước nhận thức và vận dụng sao cho phù hợp với đặc điểm của thời đại và đặc điểm của dân tộc mình. Mọi quan niệm cực đoan, hoặc tuyệt đối hóa dân tộc (như chủ nghĩa bá quyền hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tự ti), hoặc tuyệt đối hóa giai cấp, đều xa lạvới bản chất giai cấp vô sản, và không tránh khỏi làm tổn hại tới lợi ích chân chính của dân tộc và giai cấp.
2. Quan hệ giai cấp – nhân loại
+ Khái niệm nhân loại được hiểu là toàn bộ cộng đồng người sống trên trái đất hàng triệu năm.
Dù chưa có hay có giai cấp và dân tộc, nhân loại vẫn tồn tại như một thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất đó là bản chất người tồn tại ở mỗi cá thể người cho đến cả cộng đồng; nó quy định quy luật tồn tại và phát triển chung nhất cùng với các lợi ích và giá trị chung nhất của cả cộng đồng.Từ xa xưa, con người nguyên thủy từng bước tách khỏi giới động vật nhờ lao động cải tạo tự nhiên và nhờ hoạt động giao tiếp có tính xã hội. Nhưng ở thời tiền sử này, chưa thể hình thành nên mối liên hệ toàn nhân loại; và con người cũng chưa có ý thức về loài của mình. Chỉ đến một giai đoạn phát triển nhất định của văn minh, con người mới đặt ra cho mình những câu hỏi ở tầm triết học: Con người là gì, quan hệ giữa mỗi người với đồng loại như thế nào, loài người có vận mệnh chung hay không? v.v..
+ Từ khi phân chia giai cấp, và sau đó hình thành nên các cộng đồng dân tộc, nói chung các giai cấp bóc lột – thống trị, vì đặc quyền đặc lợi của mình, không thể và không muốn thừa nhận sự thống nhất trên nền tảng bản chất người của cộng đồng nhân loại. Ví dụ, giai cấp chủ nô coi quảng đại quần chúng nô lệ chỉ là “công cụ biết nói”, “động vật biết nói”, mà không phải là “động vật xã hội”, lại càng không phải là “động vật chính trị”. Trái với xu hướng này, các nhà tư tưởng tư sản tiến bộ (ở thời Phục hưng- Cận đại) đã từng bước nhận ra các giá trị chung của nhân loại, của quyền con người như những quyền tự nhiên, đối lập với chế độ đẳng cấp và thần quyền đương thời. Nhưng do hạn chế của lịch sử, những tư tưởng tiến bộ ấy của họ vẫn còn trừu tượng, phiến diện, phi lịch sử. Triết học nhân bản của L.Phoiơbắc – đại diện cuối cùng của triết học duy vật trước Mác –là ví dụ điển hình.
Từ “thời đại dã man” nguyên thủy chuyển sang thời đại văn minh, sự phát triển của loài người diễn ra trong các đối kháng giai cấp, sau đó lại thêm đối kháng dân tộc, kèm theo sự tha hóa bản chất người không tránh khỏi ở cả phía bị bóc lột lẫn phía bóc lột. Chính cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ và cách mạng cùng với quảng đại quần chúng lao động bị bóc lột là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất để từng bước giải phóng con người khỏi các tha hóa, khỏi các đối kháng giai cấp và dân tộc, phát triển nền văn minh nhân loại lên những nấc thang mới. Với ý nghĩa đó, vấn đề giai cấp hay vấn đề dân tộc quyết không phải là vấn đề riêng của giai cấp nào hay dân tộc nào, mà cũng chính là vấn đề nhân loại. Xét đến cùng, nội dung cơ bản của quá trình giải phóng con người khỏi mọi tha hóa tất yếu đòi hỏi nỗ lực chung của loài người để tiến tới xóa bỏ mọi đối kháng giai cấp và dân tộc trên toàn thế giới.
Các giai cấp bóc lột ở thời kỳ đang lên của mình, có thể và cần phải kết hợp lợi ích căn bản của mình với lợi ích chung của dân tộc và nhân loại. Nhưng khi trở nên lỗi thời về lịch sử, lợi ích căn bản ích kỷ của họ đối lập ngày càng sâu sắc với lợi ích chân chính của dân tộc và nhân loại. Và do đó, họ thường đối lập một cách giả tạo “cái giai cấp” với “cái nhân loại”, coi đấu tranh giai cấp là “phá hoại sự thống nhất xã hội”, là “phi nhân tính”. Trên thực tế, vì đặc quyền đặc lợi của mình, họ tiến hành đấu tranh giai cấp hết sức kiên quyết. Các chính khách tư sản phương Tây ngày nay thường nói tới “nhân quyền”, “lợi ích toàn cầu” nhiều nhất, nhưng biết bao sự thật đã chứng minh ngược lại.
Từ trong bản chất cách mạng và nhân đạo cao cả của mình, giai cấp công nhân chỉ được giải phóng khi nó “tiêu diệt mọi điều kiện sinh hoạt phi nhân tính của xã hội hiện đại” như cách nói của Mác, tức là xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột, mọi đối kháng giai cấp và dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất căn bản với lợi ích toàn nhân loại. Lý tưởng XHCN và CSCN của giai cấp công nhân hoàn toàn phù hợp với lý tưởng chân chính của toàn nhân loại. Trong những trường hợp nhất định nếu có mâu thuẫn với lợi ích toàn nhân loại, giai cấpcông nhân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh cục bộ và tạm thời của mình để phục tùng lợi ích toàn nhân loại.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam, thừa hưởng những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được sự lãnh đạo sáng suốt của Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang kết hợp một cách xuất sắc lợi ích của mình với lợi ích của dân tộc và nhân loại qua các giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Tuyệt đối trung thành với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn sát cánh kề vai với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.
Hi vọng với bài viết trên sẽ giúp bạn có thêm kiến thức về hai mối quan hệ trên. Chúc bạn trong quá trình học triết thật tốt !
Để tìm hiểu sâu hơn, mời bạn đọc tham khảo bài viết về mối quan hệ giai cấp - dân tộc và mối quan hệ giai cấp - nhân loại.
1. Quan hệ giai cấp - dân tộc
+ Nếu giai cấp và quan hệ giai cấp trước hết là quan hệ sản xuất, tức trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội, thì dân tộc và quan hệ dân tộc được hiểu rộng hơn, bền hơn với tư cách là các cộng đồng trong tổng thể các quan hệ cộng đồng xã hội cùng lãnh thổ, cùng ngôn ngữ, cùng truyền thống văn hoá và cùng cộng đồng kinh tế của một quốc gia nhất định trong lịch sử, và cao hơn hẳn các cộng đồng thị tộc, bộ lạc, bộ tộc trước kia.
+ Giai cấp và dân tộc không đồng thời sinh ra và mất đi. Trên thế giới, giai cấp từng sinh ra trước dân tộc hàng nghìn năm. Khi giai cấp mất đi trước hết nhờ chín mùi tiền đề kinh tế, tiền đề quan hệ sản xuất, thì dân tộc còn tồn tại lâu hơnnhờ tác động tổng hợp của tổng thể các quan hệ cộng đồng vật chất lẫn tinh thần (lãnh thổ, ngôn ngữ, truyền thống văn hoá và kinh tế).
+ Quan hệ giai cấp là nhân tố quyết định tiến trình hình thành và phát triển của các dân tộc. Với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp, quan hệ giai cấp là nhân tố có vai trò quyết định đối với tiến trình hình thành, tồn tại, biến đổi, phát triển và mất đi của các dân tộc. Nói khác đi, quan hệ giai cấp (hay phương thức sản xuất thống trị) quyết định bản chất dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc. Nếu ở phương Tây, các dân tộc hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất TBCN, với tiến trình cách mạng tư sản hay các cải cách dân chủ tư sản, thì trái lại, ở phương Đông, sự hình thành và phát triển các dân tộc từng diễn ra trước CNTB hàng nghìn năm, gắn liền với một loạt nhân tố địa lý, kinh tế và phi kinh tế (như trị thủy, phương thức sản xuất châu Á [chiếm hữu nô lệ và phong kiến kém điển hình và không phân biệt rõ ràng như phương Tây), hoặc nhu cầu chống ngoại xâm từ đầu lập quốc…])
+ Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc. Do đó, giải phóng dân tộc phải gắn chặt với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; và trái lại, giải phóng giai cấp cùng với giải phóng con người cũng tác động mạnh mẽ trở lại giải phóng dân tộc. Trong lịch sử từ cận –hiện đại, bản chất và xu hướng phát triển của các dân tộc tư sản tuỳ thuộc trước tiên vào phương thức sản xuất TBCN thống trị đương thời là tiến bộ hay lỗi thời về lịch sử. Và lịch sử đã chứng minh rằng, quá trình hình thành và phát triển CNTB sớm ở châu Âu (và sau đó ở Mỹ, Nga, Nhật Bản) cũng là quá trình thực dân hóa lần lượt khắp toàn cầu, dù là dưới hình thức thực dân cũ hay thực dân mới. Khi CNTB phát triển tới CNĐQ, tất cả các quốc gia dân tộc đang phát triển, và chậm phát triển đều trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của một nhóm các nước tư bản phát triển. Trong tình hình đó, mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa vô sản với tư sản đã phát triển thành ba mâu thuẫn cơ bản của CNĐQ – như phân tích của Lênin từ trước Cách mạng tháng 10: mâu thuẫn giữa vô sản với tưsản, giữa đế quốc với đế quốc, giữa đế quốc với thuộc địa. Chính tác động qua lại và ngày càng sâu sắc giữa ba mâu thuẫn cơ bản này đã làm CNTB phát triển không đều dưới CNĐQ, tạo khả năng khách quan cho bùng nổ và thắng lợi của cách mạng vô sản và cách mạng dân tộc dân chủ ở nước này hay nước khác.Mặt khác, sự phát triển của CNTB cũng tạo ra những tiền đề khách quan cho sự liên kết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Tiền đề vật chất có ý nghĩa sâu xa đối với quá trình này là quá trình xã hội hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới liên tục diễn ra ngày càng mạnh mẽ từ đầu thế kỷ XX đến nay.Khác hẳn với các phương thức sản xuất tiền tư bản (mang nặng tính tự nhiên, tự cung tự cấp – khép kín), phương thức sản xuất TBCN vốn mang tính quốc tế, nhất là khi CNTB phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa kể từ đầu thế kỷ 20. Vì vậy, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế, và ở phía đối lập, giai cấp vô sản cũng là một lực lượng quốc tế. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một thuộc tính bản chất của giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản không thể tách rời sự nghiệp cách mạng của nước mình với sự nghiệp chung của giai cấp vô sản quốc tế. Một mặt, chủ nghĩa Mác dạy rằng, Tổ quốc và Dân tộc là địa bàn trực tiếp của đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mỗi nước, rằng “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” . Mặt khác, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), Mác, Ăngghen đã kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”
+ Ap bức dân tộc đẩy mạnh áp bức giai cấp. Ap bức dân tộc nuôi dưỡng và cổ suý áp bức giai cấp. Từ thực tiễn thống trị của CNTB Anh đối với Ailen (thế kỷ 19), Mác đi tới kết luận rằng, một dân tộc đi áp bức một dân tộc khác, dân tộc ấy không thể có tự do. Điều đó có nghĩa là sự nghiệp đấu tranh cho độc lập và thống nhất dân tộc có tác động mạnh mẽ tới sự nghiệp đấu tranh để giải phóng giai cấp cũng như để phục hưng dân tộc. Nếu một dân tộc chưa được độc lập, thống nhất, thì chỉ giai cấp nào vừa đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ, vừa đi đầu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mới trở thành “giai cấp dân tộc” như Mác từng dạy.Giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò cách mạng một thời như vậy trong sự nghiệp dân chủ – dân tộc, chẳng hạn ở Bắc Mỹ (thế kỷ 18), ở Đức, Ý, Ao, Ba lan (thế kỷ 19) v.v.. Song, với bản chất bóc lột và ích kỷ của mình, một khi lợi ích sống còn của giai cấp tư sản bị đe dọa bởi sự lỗi thời của phương thức sản xuất TBCN hoặc bởi xâm lược từ bên ngoài, thì các chiêu bài “lợi ích quốc gia - dân tộc” hay “bảo vệ Tổ quốc” thực chất chỉ là lợi ích tư bản, nhất là lợi ích của đại tư bản mà thôi.
Dưới chủ nghĩa đế quốc, áp bức, bóc lột và nô dịch các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa (Á, Phi, Mỹ Latinh) là bản chất và lý do sống còn của các tập đoàn tư bản độc quyền của các nước chính quốc. Như phát hiện thiên tài của Lênin, sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị – một quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa đế quốc – có thể và nhất định làm chín muồi các mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa đế quốc ở một vài nước, thậm chí ở một nước mới phát triển trung bình như nước Nga, tạo tình thế và thời cơ cho cách mạng vô sản bùng nổ và thắng lợi ở một nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng 10 (1917) vừa là bằng chứng hùng hồn cho luận điểm nổi tiếng đó của Lênin, vừa mở ra thời đại mới quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Khẩu hiệu chiến lược tập hợp lực lượng cách mạng thời Mác, giờ đây được mở rộng và nâng lên thành khẩu hiện chiến lược mới cho phù hợp với thời đại Lênin – “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Chưa bao giờ giai cấp công nhân có thể và cần phải tập hợp các lực lượng tiến bộ và cách mạng đông đảo xung quanh mình để thúc đẩy tiến trình cách mạng thế giới vì các mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và CNXH như ở thế kỷ 20 đầy bão táp cách mạng vừa qua. Cơ sở lý luận sâu xa chỉ đạo tiến trình này là mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc được các Đảng Cộng sản ở các nước nhận thức và vận dụng sao cho phù hợp với đặc điểm của thời đại và đặc điểm của dân tộc mình. Mọi quan niệm cực đoan, hoặc tuyệt đối hóa dân tộc (như chủ nghĩa bá quyền hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tự ti), hoặc tuyệt đối hóa giai cấp, đều xa lạvới bản chất giai cấp vô sản, và không tránh khỏi làm tổn hại tới lợi ích chân chính của dân tộc và giai cấp.
2. Quan hệ giai cấp – nhân loại
+ Khái niệm nhân loại được hiểu là toàn bộ cộng đồng người sống trên trái đất hàng triệu năm.
Dù chưa có hay có giai cấp và dân tộc, nhân loại vẫn tồn tại như một thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất đó là bản chất người tồn tại ở mỗi cá thể người cho đến cả cộng đồng; nó quy định quy luật tồn tại và phát triển chung nhất cùng với các lợi ích và giá trị chung nhất của cả cộng đồng.Từ xa xưa, con người nguyên thủy từng bước tách khỏi giới động vật nhờ lao động cải tạo tự nhiên và nhờ hoạt động giao tiếp có tính xã hội. Nhưng ở thời tiền sử này, chưa thể hình thành nên mối liên hệ toàn nhân loại; và con người cũng chưa có ý thức về loài của mình. Chỉ đến một giai đoạn phát triển nhất định của văn minh, con người mới đặt ra cho mình những câu hỏi ở tầm triết học: Con người là gì, quan hệ giữa mỗi người với đồng loại như thế nào, loài người có vận mệnh chung hay không? v.v..
+ Từ khi phân chia giai cấp, và sau đó hình thành nên các cộng đồng dân tộc, nói chung các giai cấp bóc lột – thống trị, vì đặc quyền đặc lợi của mình, không thể và không muốn thừa nhận sự thống nhất trên nền tảng bản chất người của cộng đồng nhân loại. Ví dụ, giai cấp chủ nô coi quảng đại quần chúng nô lệ chỉ là “công cụ biết nói”, “động vật biết nói”, mà không phải là “động vật xã hội”, lại càng không phải là “động vật chính trị”. Trái với xu hướng này, các nhà tư tưởng tư sản tiến bộ (ở thời Phục hưng- Cận đại) đã từng bước nhận ra các giá trị chung của nhân loại, của quyền con người như những quyền tự nhiên, đối lập với chế độ đẳng cấp và thần quyền đương thời. Nhưng do hạn chế của lịch sử, những tư tưởng tiến bộ ấy của họ vẫn còn trừu tượng, phiến diện, phi lịch sử. Triết học nhân bản của L.Phoiơbắc – đại diện cuối cùng của triết học duy vật trước Mác –là ví dụ điển hình.
Từ “thời đại dã man” nguyên thủy chuyển sang thời đại văn minh, sự phát triển của loài người diễn ra trong các đối kháng giai cấp, sau đó lại thêm đối kháng dân tộc, kèm theo sự tha hóa bản chất người không tránh khỏi ở cả phía bị bóc lột lẫn phía bóc lột. Chính cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ và cách mạng cùng với quảng đại quần chúng lao động bị bóc lột là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất để từng bước giải phóng con người khỏi các tha hóa, khỏi các đối kháng giai cấp và dân tộc, phát triển nền văn minh nhân loại lên những nấc thang mới. Với ý nghĩa đó, vấn đề giai cấp hay vấn đề dân tộc quyết không phải là vấn đề riêng của giai cấp nào hay dân tộc nào, mà cũng chính là vấn đề nhân loại. Xét đến cùng, nội dung cơ bản của quá trình giải phóng con người khỏi mọi tha hóa tất yếu đòi hỏi nỗ lực chung của loài người để tiến tới xóa bỏ mọi đối kháng giai cấp và dân tộc trên toàn thế giới.
Các giai cấp bóc lột ở thời kỳ đang lên của mình, có thể và cần phải kết hợp lợi ích căn bản của mình với lợi ích chung của dân tộc và nhân loại. Nhưng khi trở nên lỗi thời về lịch sử, lợi ích căn bản ích kỷ của họ đối lập ngày càng sâu sắc với lợi ích chân chính của dân tộc và nhân loại. Và do đó, họ thường đối lập một cách giả tạo “cái giai cấp” với “cái nhân loại”, coi đấu tranh giai cấp là “phá hoại sự thống nhất xã hội”, là “phi nhân tính”. Trên thực tế, vì đặc quyền đặc lợi của mình, họ tiến hành đấu tranh giai cấp hết sức kiên quyết. Các chính khách tư sản phương Tây ngày nay thường nói tới “nhân quyền”, “lợi ích toàn cầu” nhiều nhất, nhưng biết bao sự thật đã chứng minh ngược lại.
Từ trong bản chất cách mạng và nhân đạo cao cả của mình, giai cấp công nhân chỉ được giải phóng khi nó “tiêu diệt mọi điều kiện sinh hoạt phi nhân tính của xã hội hiện đại” như cách nói của Mác, tức là xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột, mọi đối kháng giai cấp và dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất căn bản với lợi ích toàn nhân loại. Lý tưởng XHCN và CSCN của giai cấp công nhân hoàn toàn phù hợp với lý tưởng chân chính của toàn nhân loại. Trong những trường hợp nhất định nếu có mâu thuẫn với lợi ích toàn nhân loại, giai cấpcông nhân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh cục bộ và tạm thời của mình để phục tùng lợi ích toàn nhân loại.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam, thừa hưởng những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được sự lãnh đạo sáng suốt của Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang kết hợp một cách xuất sắc lợi ích của mình với lợi ích của dân tộc và nhân loại qua các giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Tuyệt đối trung thành với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn sát cánh kề vai với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.
Hi vọng với bài viết trên sẽ giúp bạn có thêm kiến thức về hai mối quan hệ trên. Chúc bạn trong quá trình học triết thật tốt !