Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu
Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình C
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 125903" data-attributes="member: 7"><p><strong>Bài làm 2</strong></p><p></p><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'arial'">BÀI LÀM 2</span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định, Pháp đánh úp Cần Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23 km về phia Tây Nam. Ngày 16 tháng 12 năm 1861, nghĩa quân tập kích đồn giặc, hi sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiều dùng ngòi bút của mình truy điệu những nghĩa quân hi sinh. Qua bài văn tế này, lần đầu tiên hình ảnh người nông dân Việt Nam đi vào văn hoạc thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử vốn có của mình.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ta hãy cùng phần tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – một hình tượng nông dân bình thường mà vĩ đại, vì nước hy sinh, rực rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Những người nghĩa sĩ ấy xuất thân là nông dân nghèo khó. Câu văn mở đầu giới thiệu cuộc đời họ là <em>cui cút</em>, khép lại là <em>nghèo khó</em>.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trọn vẹn trong đó là hình ảnh những người làm ăn cần mẫn với những lo toan nhọc nhằn. Họ cũng rất chất phác, thật thà:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Chưa quen cung ngựa, đầu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Những con người ấy suốt cuộc đời tầm mắt chưa nhìn qua khỏi lũy tre làng, quanh năm cạm cụi với ruộng đồng, con trâu lưỡi cày. Câu kế tiếp liệt kê những công việc nặng nhọc phủ vây con người lam lũ này:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Họ không biết chút gì về chiến trận:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, những người nông dân hiền lành, tăm tối ấy, dù hoàn toàn xa lạ với chiến trận binh đao, bỗng trở thành người nghĩa sĩ anh hùng đánh Tây. Đó là sự phi thường với bản thân họ, nhưng cũng là lẽ bình thường khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ <em>đã hơn mươi tháng</em>. Người dân mong chờ triều đình đánh giặc, nhưng <em>trông tin quan như trời hạn trông mưa</em>. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, <em>mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm</em>, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như <em>nhà nông ghét cỏ</em>, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ cho sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mắt, toàn màu gay gắt, các lều trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả khói đen xì, lòng căm ghét chuyển thành căm thù, nên họ <em>muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ</em>. Những động từ mạnh mẽ “<em>muốn ăn</em>”, “<em>muốn cắn</em>” diễn tả mức độ căm thù đến tột đỉnh:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Bữa thấy bòng bong che trắng lốp; muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì muốn ra cắn cổ.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bên cạnh sự căm thù củ tình cảm là sự căm thù của lí trí. Giặc Pháp lộ nguyên hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo, khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ treo đầu dê bán thịt chó. Đất nước văn hiến của ta không phải là vùng đất vô chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu, cho nên dân ta há để chúng yên, thiên lí chói lào đâu dung tha bọn xâm lược. Cả tình cảm lẫn lí trí đều nổi giận, và do ý thức trách nhiệm, người nông dân tự nguyện đứng lên đánh giặc. Họ ra sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kình, bộ hổ:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trong trận tập kích đồn Cần Giuộc này, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn <em>mười tám ban võ nghệ</em>, cũng không chờ bày bố <em>chín chục trận binh thư</em>. Những người nông dân ấy cũng không chuẩn bị quân trang, <em>nào đợi mang báo tấu bầu ngòi, chi nài sắm dao tu nón gõ.</em> Vũ khí chỉ là ngọn tầm vông vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay, vốn là những vật dụng dùng trong sinh hoạt hàng ngày; nhưng khi ở trong tay người nghĩa sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô cùng lợi hại; <em>đốt xong nhà dạy đạo kia, chém rớt đầu quan hai nọ</em>. Biện pháp đối lập (giặc thì đạn nhỏ đạn to, tàu sắt, tàu đồng, còn ta thì ngọn tầm vông, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn ta gấp nhiều lần:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rao lướt tới, coi giặc cũng như không;</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có/</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>…; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nhiều cụm động từ diễn tả những động tác lileen tục chống đỡ, công thủ mọi hướng; đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế đối nhau chan chát, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ phút căng thẳng cao độ của trận đánh được mô tả cực kỳ sinh động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hi sinh gan dạ của người nghĩa sĩ.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Sự hi sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vô cùng cảm kích:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ!</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người nghĩa sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi <em>gươm hùm treo mộ</em>. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót. Biện pháp ẩn dụ <em>cỏ cây mấy dặm sầu giăng</em> và hình ảnh tả thực <em>già trẻ hai hàng lụy nhỏ</em> đã nói lên tình cảm bi thương đó. Càng thương cảm hơn khi ta hiểu được động cơ hy sinh vô cùng cao quí củ nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của quê hương, hạt cơm manh áo của nhân dân, không chịu làm nô lệ, nên họ quyết tâm đánh giặc, dù phải hy sinh:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Cũng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân. Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, <em>mắc mớ chi ông cha nó</em>, nhưng cũng do triều đình hèn nhát, do bọn người <em>theo dân tả đạo, ở lĩnh Mã tà</em>….Người nghĩa sĩ hi sinh thì mối hờn được trả, tấm lòng son sáng mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo dòng nước đổ. Nhà thơ còn nghĩ đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Tiếng khóc của tác giả có bi thương nhưng không bi lụy. Đây là những dòng nước mắt khóc người anh hùng nhưng đang long lanh hình ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc cũng đánh giặc nên hôn thiêng nghĩa sĩ hãy theo giúp cơ binh để đánh đuổi giặc thù ra khỏi cõi bờ. Lời khấn nguyện như đang thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến đấu giệt thù.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Binh tướng nó hãy đóng dòng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân trở thành người hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé nhỏ, cui cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng vì dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, manh áo vải. Họ càng anh hùng hơn nếu so với thái độ sợ giặc, hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ gánh trên vai cả gánh nặng lịch sử “một thời khổ nhục nhưng vĩ đại”.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*</em></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 125903, member: 7"] [b]Bài làm 2[/b] [CENTER][FONT=arial]BÀI LÀM 2 [/FONT][/CENTER] [FONT=arial] Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định, Pháp đánh úp Cần Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23 km về phia Tây Nam. Ngày 16 tháng 12 năm 1861, nghĩa quân tập kích đồn giặc, hi sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiều dùng ngòi bút của mình truy điệu những nghĩa quân hi sinh. Qua bài văn tế này, lần đầu tiên hình ảnh người nông dân Việt Nam đi vào văn hoạc thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử vốn có của mình. Ta hãy cùng phần tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – một hình tượng nông dân bình thường mà vĩ đại, vì nước hy sinh, rực rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ. Những người nghĩa sĩ ấy xuất thân là nông dân nghèo khó. Câu văn mở đầu giới thiệu cuộc đời họ là [I]cui cút[/I], khép lại là [I]nghèo khó[/I]. [I]Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.[/I] Trọn vẹn trong đó là hình ảnh những người làm ăn cần mẫn với những lo toan nhọc nhằn. Họ cũng rất chất phác, thật thà: Chưa quen cung ngựa, đầu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Những con người ấy suốt cuộc đời tầm mắt chưa nhìn qua khỏi lũy tre làng, quanh năm cạm cụi với ruộng đồng, con trâu lưỡi cày. Câu kế tiếp liệt kê những công việc nặng nhọc phủ vây con người lam lũ này: [I]Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;[/I] Họ không biết chút gì về chiến trận: [I]tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.[/I] Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, những người nông dân hiền lành, tăm tối ấy, dù hoàn toàn xa lạ với chiến trận binh đao, bỗng trở thành người nghĩa sĩ anh hùng đánh Tây. Đó là sự phi thường với bản thân họ, nhưng cũng là lẽ bình thường khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan. Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ [I]đã hơn mươi tháng[/I]. Người dân mong chờ triều đình đánh giặc, nhưng [I]trông tin quan như trời hạn trông mưa[/I]. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, [I]mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm[/I], nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như [I]nhà nông ghét cỏ[/I], thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ cho sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mắt, toàn màu gay gắt, các lều trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả khói đen xì, lòng căm ghét chuyển thành căm thù, nên họ [I]muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ[/I]. Những động từ mạnh mẽ “[I]muốn ăn[/I]”, “[I]muốn cắn[/I]” diễn tả mức độ căm thù đến tột đỉnh: [I]Bữa thấy bòng bong che trắng lốp; muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì muốn ra cắn cổ.[/I] Bên cạnh sự căm thù củ tình cảm là sự căm thù của lí trí. Giặc Pháp lộ nguyên hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo, khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ treo đầu dê bán thịt chó. Đất nước văn hiến của ta không phải là vùng đất vô chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu, cho nên dân ta há để chúng yên, thiên lí chói lào đâu dung tha bọn xâm lược. Cả tình cảm lẫn lí trí đều nổi giận, và do ý thức trách nhiệm, người nông dân tự nguyện đứng lên đánh giặc. Họ ra sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kình, bộ hổ: [I]Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;[/I] [I]Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.[/I] Trong trận tập kích đồn Cần Giuộc này, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn [I]mười tám ban võ nghệ[/I], cũng không chờ bày bố [I]chín chục trận binh thư[/I]. Những người nông dân ấy cũng không chuẩn bị quân trang, [I]nào đợi mang báo tấu bầu ngòi, chi nài sắm dao tu nón gõ.[/I] Vũ khí chỉ là ngọn tầm vông vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay, vốn là những vật dụng dùng trong sinh hoạt hàng ngày; nhưng khi ở trong tay người nghĩa sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô cùng lợi hại; [I]đốt xong nhà dạy đạo kia, chém rớt đầu quan hai nọ[/I]. Biện pháp đối lập (giặc thì đạn nhỏ đạn to, tàu sắt, tàu đồng, còn ta thì ngọn tầm vông, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn ta gấp nhiều lần: [I]Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rao lướt tới, coi giặc cũng như không;[/I] [I]Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có/[/I] [I]…; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.[/I] Nhiều cụm động từ diễn tả những động tác lileen tục chống đỡ, công thủ mọi hướng; đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế đối nhau chan chát, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ phút căng thẳng cao độ của trận đánh được mô tả cực kỳ sinh động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hi sinh gan dạ của người nghĩa sĩ. Sự hi sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vô cùng cảm kích: [I]Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ![/I] Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người nghĩa sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi [I]gươm hùm treo mộ[/I]. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót. Biện pháp ẩn dụ [I]cỏ cây mấy dặm sầu giăng[/I] và hình ảnh tả thực [I]già trẻ hai hàng lụy nhỏ[/I] đã nói lên tình cảm bi thương đó. Càng thương cảm hơn khi ta hiểu được động cơ hy sinh vô cùng cao quí củ nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của quê hương, hạt cơm manh áo của nhân dân, không chịu làm nô lệ, nên họ quyết tâm đánh giặc, dù phải hy sinh: [I]Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh.[/I] Cũng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân. Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, [I]mắc mớ chi ông cha nó[/I], nhưng cũng do triều đình hèn nhát, do bọn người [I]theo dân tả đạo, ở lĩnh Mã tà[/I]….Người nghĩa sĩ hi sinh thì mối hờn được trả, tấm lòng son sáng mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo dòng nước đổ. Nhà thơ còn nghĩ đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương. Tiếng khóc của tác giả có bi thương nhưng không bi lụy. Đây là những dòng nước mắt khóc người anh hùng nhưng đang long lanh hình ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc cũng đánh giặc nên hôn thiêng nghĩa sĩ hãy theo giúp cơ binh để đánh đuổi giặc thù ra khỏi cõi bờ. Lời khấn nguyện như đang thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến đấu giệt thù. [I]Binh tướng nó hãy đóng dòng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.[/I] Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân trở thành người hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé nhỏ, cui cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng vì dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, manh áo vải. Họ càng anh hùng hơn nếu so với thái độ sợ giặc, hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ gánh trên vai cả gánh nặng lịch sử “một thời khổ nhục nhưng vĩ đại”. [I]Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*[/I][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu
Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình C
Top