Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Truyện Kiều - Nguyễn Du
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="thich van hoc" data-source="post: 139441" data-attributes="member: 271810"><p><span style="font-family: 'arial'"><strong>Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích để cho thấy nỗi lòng cô đơn buồn nhớ và tâm trạng đau khổ sợ hãi của nàng Kiều khi bị Tú Bà nhốt ở lầu Ngưng Bích.</strong></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><strong></strong></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><strong><em>Bài làm</em></strong></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><strong><em></em></strong></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích dài hai mươi câu trích trong Truyện Kiều là những “Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình” (Tố Hữu). Bao biến cố khủng khiếp đã diễn ra : tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị bọn sai nha “đầu trâu mặt ngựa” cướp “sạch sành sanh…”, phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sauk hi ‘thất thân’ bởi Mã Giám Sinh , bị mụ Tú Bà làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Người còn thì của hãy còn,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà…</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Kiều được Tú bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa “con hãy thong dong”, nhưng thật ra là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt mười lăm năm trời.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Đoạn thơ không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'">1. Sáu câu đầu của đoạn thơ là một không gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có ‘non xa’ và ‘tấm trăng gần’ ; có ‘cát vàng cồn nọ’ và ‘bụi hồng dặm kia’. Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết ‘bốn bề bát ngát xa trông’. Một cảm giác cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho thân phận mình, duyên số mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với ‘mây sớm đèn khuya’, nỗi lòng người con gái lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán vô cùng:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bốn chữ ‘như chia tấm lòng’ diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần – nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kiều sao không khỏi cô đơn, bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy bi kịch:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Chung quanh những nước non người,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">2. Tám câu thơ tiếp theo nói lên niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương, cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều ‘Tưởng người…”. Với mẹ cha thì nàng đã ‘xót người…’, mỗi đối tượng Kiều có mỗi nỗi thương nhớ riêng.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Truy, Kiều thương Kim Trọng cô đơn, đau khổ “Một trời thu để riêng ai một người”. Đối với cha mẹ, Kiều khắc khoải “nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn”. Lần này, Kiều tưởng nhớ chàng Kim, nhớ lời thề dưới trăng đêm tình tự “dưới nguyệt chén đồng”, thương người yêu đau khổ “rày trông mai chờ” và “bơ vơ” cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi, mới ‘phai’ được nỗi thương nhớ ấy?. Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như : “dưới nguyệt chén đồng”, “tin sương”, ‘rày trông mai chờ’,’bên trời góc bể’,’tấm son gột rửa…’ – đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc cảm động tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Tin sương luống những rày trông mai chờ.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Bên trời góc bể bơ vơ,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Các động từ - vị ngữ : “tưởng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho một mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ!</span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nhớ chàng Kim rồi Kiều đau xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách : “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa”, các thi liệu điển cố văn học Trung Hoa như : “sân Lai”, “gốc tử”, và thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, đặc biệt hình ảnh mẹ già “tựa cửa hôm mai” đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ , nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi “gốc tử đã vừa người ôm”.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa “ trâm gãy thương nhớ” nàng vẫn dành cho “người tình chung” bao tình thương nhớ “muôn vàn ái ân”. Là một đứa con chí hiếu, giàu đức hy sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng. Kiều càng nhớ thương càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Xót người tựa cửa hôm mai,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Sân Lai cách mấy nắng mưa,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Có khi gốc tử đã vừa người ôm.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">3. Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ “buồn trông” xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ “buồn trông” là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng “tê tái” đau thương; thương mình và thương người thân, thương cho thân phận và duyên số…. “Buồn trông” thì càng buồn trông, càng trông lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “truyện Kiều”. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng “buồn trông”. Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Buồn trông cửa bể chiều hôm,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp người lưu lạc. “Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện “thấp thoáng cánh buồm xa xa” đầy ám ảnh. “Buồn trông” con thuyền “ai” xa lạ, cánh buồm xa xa “thấp thoáng”, Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Rồi nàng lại “buồn trông” về phía “ngọn nước mới sa”, dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi “về đâu”, đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu, đến đâu – Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Buồn trông ngọn nước mới sa,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Hoa trôi man mác biết là về đâu?.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Sau hai câu hỏi tu từ về ‘thuyền ai”, về hoa trôi “biết là về đâu?”, Kiều “buồn trông” về bốn phía ‘chân mây mặt đất’ về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo “dầu dầu” của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Buồn trông nội cỏ dầu dầu,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">“Nội cỏ dầu dầu” tàn úa hiện lên giữa màu “xanh xanh” nhạt nhòa của ‘chân mây mặt đất’ chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình. Sắc cỏ “dầu dầu” ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Sè sè nấm đất bên đường,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa “buồn trông” vừa lắng tai nghe . Nghe tiếng gió, gió gào, “gió cuốn” trên mặt duềnh. Nghe tiếng “ầm ầm” của sóng, không phải sóng reo mà “sóng kêu”. Gió và sóng đang bủa vây “xung quanh ghế ngồi”. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái ‘nhỏ bé’ đáng thương?. Kiều ‘buồn trông’ mà lo âu sợ hãi:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bức tranh ‘nước non người’ , cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa màu xanh xanh chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh…mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy ,âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la mờ mịt, vừa dữ dội , tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng , lẻ loi.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có “ma đưa lối, quỷ dẫn đường”,…đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” như chứa đầy ước lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ ,xót xa vì thương nhớ cha mẹ, lo sợ thân phận, số phận mình ; Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Các từ láy : “bát ngát”, bẽ bàng, bơ vơ, thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm, kết hợp với điệp ngữ “buồn trông” đã tạo nên sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo. Đó là giá trị văn chương đích thực trong đoạn thơ ‘Kiều ở lầu Ngưng Bích”.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Theo 100 bài văn hay lớp 9*</em></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="thich van hoc, post: 139441, member: 271810"] [FONT=arial][B]Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích để cho thấy nỗi lòng cô đơn buồn nhớ và tâm trạng đau khổ sợ hãi của nàng Kiều khi bị Tú Bà nhốt ở lầu Ngưng Bích. [/B] [B][I]Bài làm [/I][/B] Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích dài hai mươi câu trích trong Truyện Kiều là những “Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình” (Tố Hữu). Bao biến cố khủng khiếp đã diễn ra : tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị bọn sai nha “đầu trâu mặt ngựa” cướp “sạch sành sanh…”, phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sauk hi ‘thất thân’ bởi Mã Giám Sinh , bị mụ Tú Bà làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều: [I]Người còn thì của hãy còn,[/I] [I]Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà… [/I] Kiều được Tú bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa “con hãy thong dong”, nhưng thật ra là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt mười lăm năm trời. Đoạn thơ không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. 1. Sáu câu đầu của đoạn thơ là một không gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có ‘non xa’ và ‘tấm trăng gần’ ; có ‘cát vàng cồn nọ’ và ‘bụi hồng dặm kia’. Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết ‘bốn bề bát ngát xa trông’. Một cảm giác cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho thân phận mình, duyên số mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với ‘mây sớm đèn khuya’, nỗi lòng người con gái lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán vô cùng: [I]Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,[/I] [I]Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. [/I] Bốn chữ ‘như chia tấm lòng’ diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần – nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kiều sao không khỏi cô đơn, bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy bi kịch: [I]Chung quanh những nước non người,[/I] [I]Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu. [/I] 2. Tám câu thơ tiếp theo nói lên niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương, cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều ‘Tưởng người…”. Với mẹ cha thì nàng đã ‘xót người…’, mỗi đối tượng Kiều có mỗi nỗi thương nhớ riêng. Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Truy, Kiều thương Kim Trọng cô đơn, đau khổ “Một trời thu để riêng ai một người”. Đối với cha mẹ, Kiều khắc khoải “nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn”. Lần này, Kiều tưởng nhớ chàng Kim, nhớ lời thề dưới trăng đêm tình tự “dưới nguyệt chén đồng”, thương người yêu đau khổ “rày trông mai chờ” và “bơ vơ” cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi, mới ‘phai’ được nỗi thương nhớ ấy?. Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như : “dưới nguyệt chén đồng”, “tin sương”, ‘rày trông mai chờ’,’bên trời góc bể’,’tấm son gột rửa…’ – đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc cảm động tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn: [I]Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,[/I] [I]Tin sương luống những rày trông mai chờ.[/I] [I]Bên trời góc bể bơ vơ,[/I] [I]Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. [/I] Các động từ - vị ngữ : “tưởng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho một mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ! Nhớ chàng Kim rồi Kiều đau xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách : “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa”, các thi liệu điển cố văn học Trung Hoa như : “sân Lai”, “gốc tử”, và thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, đặc biệt hình ảnh mẹ già “tựa cửa hôm mai” đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ , nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi “gốc tử đã vừa người ôm”. Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa “ trâm gãy thương nhớ” nàng vẫn dành cho “người tình chung” bao tình thương nhớ “muôn vàn ái ân”. Là một đứa con chí hiếu, giàu đức hy sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng. Kiều càng nhớ thương càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay: [I]Xót người tựa cửa hôm mai,[/I] [I]Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?[/I] [I]Sân Lai cách mấy nắng mưa,[/I] [I]Có khi gốc tử đã vừa người ôm. [/I] 3. Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ “buồn trông” xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ “buồn trông” là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng “tê tái” đau thương; thương mình và thương người thân, thương cho thân phận và duyên số…. “Buồn trông” thì càng buồn trông, càng trông lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “truyện Kiều”. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng “buồn trông”. Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương: [I]Buồn trông cửa bể chiều hôm,[/I] [I]Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. [/I] Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp người lưu lạc. “Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện “thấp thoáng cánh buồm xa xa” đầy ám ảnh. “Buồn trông” con thuyền “ai” xa lạ, cánh buồm xa xa “thấp thoáng”, Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách. Rồi nàng lại “buồn trông” về phía “ngọn nước mới sa”, dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi “về đâu”, đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu, đến đâu – Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình: [I]Buồn trông ngọn nước mới sa,[/I] [I]Hoa trôi man mác biết là về đâu?. [/I] Sau hai câu hỏi tu từ về ‘thuyền ai”, về hoa trôi “biết là về đâu?”, Kiều “buồn trông” về bốn phía ‘chân mây mặt đất’ về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo “dầu dầu” của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc: [I]Buồn trông nội cỏ dầu dầu,[/I] [I]Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. [/I] “Nội cỏ dầu dầu” tàn úa hiện lên giữa màu “xanh xanh” nhạt nhòa của ‘chân mây mặt đất’ chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình. Sắc cỏ “dầu dầu” ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên: [I]Sè sè nấm đất bên đường,[/I] [I]Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. [/I] Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa “buồn trông” vừa lắng tai nghe . Nghe tiếng gió, gió gào, “gió cuốn” trên mặt duềnh. Nghe tiếng “ầm ầm” của sóng, không phải sóng reo mà “sóng kêu”. Gió và sóng đang bủa vây “xung quanh ghế ngồi”. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái ‘nhỏ bé’ đáng thương?. Kiều ‘buồn trông’ mà lo âu sợ hãi: [I]Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,[/I] [I]Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. [/I] Bức tranh ‘nước non người’ , cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa màu xanh xanh chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh…mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy ,âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la mờ mịt, vừa dữ dội , tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng , lẻ loi. Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có “ma đưa lối, quỷ dẫn đường”,…đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” như chứa đầy ước lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ ,xót xa vì thương nhớ cha mẹ, lo sợ thân phận, số phận mình ; Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh. Các từ láy : “bát ngát”, bẽ bàng, bơ vơ, thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm, kết hợp với điệp ngữ “buồn trông” đã tạo nên sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo. Đó là giá trị văn chương đích thực trong đoạn thơ ‘Kiều ở lầu Ngưng Bích”. [I]Theo 100 bài văn hay lớp 9*[/I][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Truyện Kiều - Nguyễn Du
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Top