Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 8
Ngữ văn 8
Hai chữ nước nhà - Trần Tuấn Khải
Phân tích đoạn trích "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Đỗ Thị Lan Hương" data-source="post: 194256" data-attributes="member: 317476"><p>Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn… được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi. Đỉnh cao thơ trữ tình yêu nước của Trần Quang Khải là ở "Hai chữ nước nhà"<em>. </em>Có thể nói một đời ông khắc khoải bồi hồi tha thiết với khát vọng về đất nước, dân tộc.</p><p style="text-align: center">[ATTACH=full]6745[/ATTACH]</p> <p style="text-align: center"><strong><span style="font-size: 18px">Phân tích đoạn trích "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải</span></strong></p><p></p><p>Trên văn đàn hợp pháp ba mươi năm đầu thế kỉ XX, Á Nam Trần Tuấn Khải là một tên tuổi để lại nhiều dấu ấn sâu đậm. Thơ Trần Tuấn Khải đã đụng vào dấy đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người (Xuân Diệu).</p><p></p><p>Là một hồn thơ yêu nước lưu hành công khai, hợp pháp, nên nội dung yêu nước trong thơ ông thường được biểu hiện một cách riêng biệt để có thể lọt qua vòng kiểm duyệt khắt khe của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Mượn đề tài lịch sử để kí thác tâm sự yêu nước là một cách thức biểu hiện hữu hiệu và là một thành công lớn của Trần Tuấn Khải. Trong đó có thể xem: Hai chữ nước nhà là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ ấy.</p><p></p><p>"Hai chữ nước nhà" là bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã mượn lời của người cha là Nguyễn Phi Khanh dặn dò con là Nguyễn Trãi để gửi gắm nỗi lòng của mình.</p><p></p><p>Bài thơ mở đầu bằng một cuộc chia li đầy máu và nước mắt:</p><p><em>“Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm</em></p><p><em>Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu</em></p><p><em>Bốn bề hổ thét chim kêu</em></p><p><em>Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình</em>“</p><p></p><p>Bốn câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn. Cuộc chia li của hai cha con diễn ra nơi biên giới xa xôi, ảm đạm, heo hút: “Chẩn ủi Bắc mây sầu ảm đạm”, “bốn bề” chỉ có tiếng “hổ thét chim kêu”. Đây là địa cầu phía bắc của Tổ quốc, và chỉ một vài bước chân nữa thôi là Nguyền Phi Khanh vĩnh viền xa lìa đất nước, quê hương. Tâm trạng ấy phủ lên cảnh vật một màu thê lương, tang tóc.</p><p></p><p>Càng não nùng hơn nữa, Nguyễn Phi Khanh phải xa lìa đất nước trong lúc đất nước đang quằn quại dưới gót giày ngoại xâm. “Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”, câu thơ ấy đâu chỉ miêu tả không gian trong thế đối với “Chốn ải Bắc mây sầu am đạm ”, nó còn gợi lên hiện tình đau buồn của đất nước. Phải đặt vào ý nghĩa ấy thì mới thấy hết được hoàn cảnh éo le và thấm thía được tâm trạng của hai cha con :</p><p></p><p><em>Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước</em></p><p><em>Chút thân tàn lần bước dậm khơi</em></p><p><em>Trông con tầm tã châu rơi</em></p><p><em>Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:</em> “</p><p></p><p>Hoàn cảnh thật éo le: cha bị bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại ; con muốn đi theo phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha phải dặn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Cha con li biệt, nước mất nhà lan, những đau đớn xót xa chồng chất. Tình nhà, nghĩa nước đều sâu đậm và đều tột cùng đớn đau. “Hạt máu nóng” và những giọt châu tầm tã, đó là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ văn xưa nhưng trong tình cảnh này, chúng đã diễn tả chân thật tâm trạng của con người.</p><p></p><p>Gạt đi nước mắt tình nhà, cả hai cha con đã biết đặt nọ nước lên trên. Lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trôi để lại cho con. Nó thiêng liêng, xúc động và đầy sức truyền cảm không chỉ vì đó là lời tâm huyết cuối cùng của một đời người, mà quan trọng hơn, còn vì đó là lời nói chân thành xuất phát từ một trái tim yêu nước, khiến người nghe phái khắc cốt ghi tâm.</p><p></p><p></p><p><em>“Giống Hồng Lạc hoàng thiên[3] đã định</em></p><p><em>Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay</em></p><p><em>Trời Nam riêng một cõi này</em></p><p><em>Anh hùng, hiệp nữ[5] xưa nay kém gì!</em></p><p><em></em></p><p><em>Than vận nước gặp khi biến đổi</em></p><p><em>Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng</em></p><p><em>Bốn phương khói lửa bừng bừng</em></p><p><em>Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!</em></p><p><em></em></p><p><em>Nơi đô thị thành tung quách vỡ</em></p><p><em>Chốn dân gian bỏ vợ lìa con</em></p><p><em>Làm cho xiêu tán hao mòn</em></p><p><em>Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!</em></p><p><em></em></p><p><em>Thảm vong quốc kể sao cho xiết</em></p><p><em>Trông cơ đồ[8] nhường xé tâm can</em></p><p><em>Ngậm ngùi khóc đất giời than</em></p><p><em>Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!</em></p><p><em></em></p><p><em>Khói Nùng lĩnh[9] như xây khối uất</em></p><p><em>Sóng Long giang nhường vật cơn sầu</em></p><p><em>Con ơi! càng nói càng đau…</em></p><p><em>Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?”</em></p><p></p><p>Phần 2 gồm 20 câu thơ vẫn là lời của người cha nói về tình cảnh đau thương của đất nước. Nhưng đó cũng chính là những lời thơ bộc bạch tình cảm của tác giả. Nhà thơ nhập vai người trong cuộc – một nạn nhân vong quốc đang đi vào chỗ chết – để miêu tả hiện hình của dân nước và tội ác của quân xâm lược, cho nên cảm xúc chân thành, nỗi đau da diết làm xúc động tâm can người đọc.</p><p></p><p>Bài thơ nói đến tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc Minh ỏ thế kí XV, nhưng thực ra nào có khác gì tình cảnh đất nước ơ những năm 20 của thế kỉ XX đang bị thực dân Pháp cai trị. Nỗi đau mất nước của hai thời đại nào có khác gì nhau ? Vẫn là nỗi đau trước cảnh điêu linh tang tóc dưới bàn tay tàn bạo của bọn người “khác giống”. Tình cảm yêu nước của tác giả trong đoạn thơ biểu hiện thật phong phú : đó là niềm tự hào về giống Hồng Lạc ở cõi trời Nam xưa nay không thiếu anh hùng hiệp nữ ; là nỗi đau trước vận nước lầm than, giống nòi rên xiết ; là nỗi căm giận giặc ngoại xâm bạo tàn…</p><p></p><p>Có thể nhận ra những nỗi niềm ấy qua những dòng thơ tự sự đan xen với những lời cảm thán. Bên cạnh những lời thơ kể về tình cảnh của đất nước, xuất hiện rất nhiều những từ ngữ và hình ảnh thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt, sâu sắc (xiết bao, kể sao xiết kể, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm, khối uất, cơn sầu…). Nỗi đau ở đây không phải là nỗi đau riêng gắn với số phận cá nhân mà là nổi đau thiêng liêng, lớn lao, cao cả, gắn với vận nước cơ đồ, nòi giống, làm kinh động cả đất trời (đất khóc giời than), cả sông núi (Khói Nùng Lĩnh như xây khói uất – Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu)…</p><p></p><p>Giọng điệu thơ nhờ thế mà trở nên lâm li, thống thiết, xen lẫn nỗi phẫn uất, hờn căm, mỗi dòng thơ là một tiếng than, một tiếng nấc xót xa cay đắng. Giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn này là sở trường của Trần Tuấn Khải, nó có sức rung động lớn, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu ở thời đại đó.</p><p></p><p>Phần cuối:</p><p><em>“Cha xót phận tuổi già sức yếu</em></p><p><em>Lỡ sa cơ đành chịu bó tay</em></p><p><em>Thân lươn bao quản vũng lầy</em></p><p><em>Giang sơn gánh vác sau này cậy con”</em></p><p></p><p>Ở phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình (“Cha xót phận tuổi già sức yếu – Lỡ sa cơ dành chịu bó tay – Thân lươn bao quản vùng lầy”) là để trao gửi lại trọng trách “giang sơn gánh vác sau này cậy con”. Bốn câu cuối cùng nói đến sự nghiệp của tổ tông nhằm kích thích, hun đúc ý chí gánh vác giang sơn ở người con. Lời trao gửi vừa đầy sức nặng tình cảm, vừa sôi sục nhiệt huyết cứu nước và tinh thần tự hào dân tộc.</p><p></p><p>Qua đoạn trích "Hai chữ nước nhà", Á Nam Trần Tuấn Khải đã mượn mật câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm lớn để bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Tinh câm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà, sự lựa chọn thể thơ thích hợp và giọng điệu trữ tình thống thiết của tác giả đã tạo nên giá trị đoạn thơ trích</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Đỗ Thị Lan Hương, post: 194256, member: 317476"] Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn… được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi. Đỉnh cao thơ trữ tình yêu nước của Trần Quang Khải là ở "Hai chữ nước nhà"[I]. [/I]Có thể nói một đời ông khắc khoải bồi hồi tha thiết với khát vọng về đất nước, dân tộc. [CENTER][ATTACH type="full" width="300px" height="300px"]6745[/ATTACH] [B][SIZE=5]Phân tích đoạn trích "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải[/SIZE][/B][/CENTER] Trên văn đàn hợp pháp ba mươi năm đầu thế kỉ XX, Á Nam Trần Tuấn Khải là một tên tuổi để lại nhiều dấu ấn sâu đậm. Thơ Trần Tuấn Khải đã đụng vào dấy đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người (Xuân Diệu). Là một hồn thơ yêu nước lưu hành công khai, hợp pháp, nên nội dung yêu nước trong thơ ông thường được biểu hiện một cách riêng biệt để có thể lọt qua vòng kiểm duyệt khắt khe của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Mượn đề tài lịch sử để kí thác tâm sự yêu nước là một cách thức biểu hiện hữu hiệu và là một thành công lớn của Trần Tuấn Khải. Trong đó có thể xem: Hai chữ nước nhà là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ ấy. "Hai chữ nước nhà" là bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã mượn lời của người cha là Nguyễn Phi Khanh dặn dò con là Nguyễn Trãi để gửi gắm nỗi lòng của mình. Bài thơ mở đầu bằng một cuộc chia li đầy máu và nước mắt: [I]“Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu Bốn bề hổ thét chim kêu Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình[/I]“ Bốn câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn. Cuộc chia li của hai cha con diễn ra nơi biên giới xa xôi, ảm đạm, heo hút: “Chẩn ủi Bắc mây sầu ảm đạm”, “bốn bề” chỉ có tiếng “hổ thét chim kêu”. Đây là địa cầu phía bắc của Tổ quốc, và chỉ một vài bước chân nữa thôi là Nguyền Phi Khanh vĩnh viền xa lìa đất nước, quê hương. Tâm trạng ấy phủ lên cảnh vật một màu thê lương, tang tóc. Càng não nùng hơn nữa, Nguyễn Phi Khanh phải xa lìa đất nước trong lúc đất nước đang quằn quại dưới gót giày ngoại xâm. “Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”, câu thơ ấy đâu chỉ miêu tả không gian trong thế đối với “Chốn ải Bắc mây sầu am đạm ”, nó còn gợi lên hiện tình đau buồn của đất nước. Phải đặt vào ý nghĩa ấy thì mới thấy hết được hoàn cảnh éo le và thấm thía được tâm trạng của hai cha con : [I]Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước Chút thân tàn lần bước dậm khơi Trông con tầm tã châu rơi Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:[/I] “ Hoàn cảnh thật éo le: cha bị bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại ; con muốn đi theo phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha phải dặn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Cha con li biệt, nước mất nhà lan, những đau đớn xót xa chồng chất. Tình nhà, nghĩa nước đều sâu đậm và đều tột cùng đớn đau. “Hạt máu nóng” và những giọt châu tầm tã, đó là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ văn xưa nhưng trong tình cảnh này, chúng đã diễn tả chân thật tâm trạng của con người. Gạt đi nước mắt tình nhà, cả hai cha con đã biết đặt nọ nước lên trên. Lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trôi để lại cho con. Nó thiêng liêng, xúc động và đầy sức truyền cảm không chỉ vì đó là lời tâm huyết cuối cùng của một đời người, mà quan trọng hơn, còn vì đó là lời nói chân thành xuất phát từ một trái tim yêu nước, khiến người nghe phái khắc cốt ghi tâm. [I]“Giống Hồng Lạc hoàng thiên[3] đã định Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay Trời Nam riêng một cõi này Anh hùng, hiệp nữ[5] xưa nay kém gì! Than vận nước gặp khi biến đổi Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng Bốn phương khói lửa bừng bừng Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông! Nơi đô thị thành tung quách vỡ Chốn dân gian bỏ vợ lìa con Làm cho xiêu tán hao mòn Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu! Thảm vong quốc kể sao cho xiết Trông cơ đồ[8] nhường xé tâm can Ngậm ngùi khóc đất giời than Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này! Khói Nùng lĩnh[9] như xây khối uất Sóng Long giang nhường vật cơn sầu Con ơi! càng nói càng đau… Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?”[/I] Phần 2 gồm 20 câu thơ vẫn là lời của người cha nói về tình cảnh đau thương của đất nước. Nhưng đó cũng chính là những lời thơ bộc bạch tình cảm của tác giả. Nhà thơ nhập vai người trong cuộc – một nạn nhân vong quốc đang đi vào chỗ chết – để miêu tả hiện hình của dân nước và tội ác của quân xâm lược, cho nên cảm xúc chân thành, nỗi đau da diết làm xúc động tâm can người đọc. Bài thơ nói đến tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc Minh ỏ thế kí XV, nhưng thực ra nào có khác gì tình cảnh đất nước ơ những năm 20 của thế kỉ XX đang bị thực dân Pháp cai trị. Nỗi đau mất nước của hai thời đại nào có khác gì nhau ? Vẫn là nỗi đau trước cảnh điêu linh tang tóc dưới bàn tay tàn bạo của bọn người “khác giống”. Tình cảm yêu nước của tác giả trong đoạn thơ biểu hiện thật phong phú : đó là niềm tự hào về giống Hồng Lạc ở cõi trời Nam xưa nay không thiếu anh hùng hiệp nữ ; là nỗi đau trước vận nước lầm than, giống nòi rên xiết ; là nỗi căm giận giặc ngoại xâm bạo tàn… Có thể nhận ra những nỗi niềm ấy qua những dòng thơ tự sự đan xen với những lời cảm thán. Bên cạnh những lời thơ kể về tình cảnh của đất nước, xuất hiện rất nhiều những từ ngữ và hình ảnh thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt, sâu sắc (xiết bao, kể sao xiết kể, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm, khối uất, cơn sầu…). Nỗi đau ở đây không phải là nỗi đau riêng gắn với số phận cá nhân mà là nổi đau thiêng liêng, lớn lao, cao cả, gắn với vận nước cơ đồ, nòi giống, làm kinh động cả đất trời (đất khóc giời than), cả sông núi (Khói Nùng Lĩnh như xây khói uất – Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu)… Giọng điệu thơ nhờ thế mà trở nên lâm li, thống thiết, xen lẫn nỗi phẫn uất, hờn căm, mỗi dòng thơ là một tiếng than, một tiếng nấc xót xa cay đắng. Giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn này là sở trường của Trần Tuấn Khải, nó có sức rung động lớn, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu ở thời đại đó. Phần cuối: [I]“Cha xót phận tuổi già sức yếu Lỡ sa cơ đành chịu bó tay Thân lươn bao quản vũng lầy Giang sơn gánh vác sau này cậy con”[/I] Ở phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình (“Cha xót phận tuổi già sức yếu – Lỡ sa cơ dành chịu bó tay – Thân lươn bao quản vùng lầy”) là để trao gửi lại trọng trách “giang sơn gánh vác sau này cậy con”. Bốn câu cuối cùng nói đến sự nghiệp của tổ tông nhằm kích thích, hun đúc ý chí gánh vác giang sơn ở người con. Lời trao gửi vừa đầy sức nặng tình cảm, vừa sôi sục nhiệt huyết cứu nước và tinh thần tự hào dân tộc. Qua đoạn trích "Hai chữ nước nhà", Á Nam Trần Tuấn Khải đã mượn mật câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm lớn để bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Tinh câm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà, sự lựa chọn thể thơ thích hợp và giọng điệu trữ tình thống thiết của tác giả đã tạo nên giá trị đoạn thơ trích [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 8
Ngữ văn 8
Hai chữ nước nhà - Trần Tuấn Khải
Phân tích đoạn trích "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải
Top