Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Phân tích đoạn trích "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 23780" data-attributes="member: 699"><p><strong><p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Blue">Phân tích đoạn trích Đất nước </span></span></p></strong></p><p style="text-align: center"><strong></p><p></strong></p><p></p><p><strong>I.Mở bài </strong></p><p></p><p>Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Cũng như một số nhà thơ hàng đầu của thời kỳ này, Nguyễn Khoa Điềm tâm huyết với chủ đề lớn của thơ ca đương thời là “Đất nước”. Đoạn trích “Đất nước” chiếm gần trọn vẹn chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng . Đây là chương hay nhất tập trung những suy nghĩ cảm nhận mới mẻ về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.</p><p></p><p><strong>II . Thân bài </strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>Giới thiệu chung hoàn cảnh , đề tài .</strong></p><p></p><p> Trường ca “Mặt đường khát vọng”, là thành công không chỉ riêng Nguyễn Khoa Điềm mà của cả nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ trong việc chiếm lĩnh đề tài Tổ quốc.</p><p></p><p>Ra đời 1971 trên chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Trường ca Mặt đường khát vọng thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.</p><p></p><p>Đất nước là chủ đề được quan tâm hàng đầu của nền Văn học Việt Nam - nền văn học của một dân tộc 4000 năm dựng nước , giữ nước. Từ trong lịch sử xa xưa... những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc ta đã từng nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong lịch sử”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi).</p><p></p><p>Các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ đã phát biểu một cách thấm thía cảm nhận mới mẻ về đất nước. Song tư tưởng Đất nước là của nhân dân có lẽ được kết tinh hơn cả trong trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm trong Trường ca Mặt đường khát vọng”.</p><p></p><p>Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp giữa chính luận và trữ tình để trình bày những cảm nhận và suy tưởng về Đất Nước dưới hình thức lời trò chuyện tâm tình giữa đôi lứa yêu nhau. Đất Nước được cảm nhận toàn vẹn từ nhiều bình diện: Trong chiều dài của thời gian lịch sử, trong bề rộng của không gian địa lý, trong tầm cao của đời sống văn hóa, phong tục, tâm hồn tính cách cha ông... Ba phương diện đó gắn bó với nhau làm nổi bật tư tưởng cơ bản: Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. </p><p></p><p><strong>Cảm nhận mới mẻ về Đất Nước</strong></p><p></p><p>Đất nước là sự thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác.</p><p></p><p>Hai chữ Đất nước trong toàn chương và trong đoạn trích được viết như một mĩ từ thể hiện tình cảm thiêng liêng sâu sắc của nhà thơ với đất. Sự vỡ tách và nhập ghép 2 âm tiết: đất nước tạo nên một phát hiện đượm phong vị triết học:</p><p></p><p><em>“Đất là nơi anh đến trường... nồng thắm”</em></p><p></p><p>Anh là đất - phù hợp với khí chất vững vàng kiên định, em là nước thật dịu dàng nữ tính. Khi nói về anh, về em thì Đất - nước tách riêng, khi anh em hò hẹn đại từ nhân xưng chuyển hóa thành “Ta” thì đất nước gắn liền bên nhau hài hòa nồng thắm. Khi tách riêng ra thì “Đất là hòn núi bạc”, Nước là “Biển khơi”, khi hợp nhất lại “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Khi tách riêng ra “Đất là nơi chim về”, “Nước là nơi rồng ở” khi hợp nhất lại “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện đầy xúc động cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đất nước không chỉ bên ta, quanh ta mà cả trong ta. Điệp ngữ Đất Nước vang lên như một khúc nhạc thiêng tấu lên suốt chiều dài đoạn thơ. Đất Nước là 2 tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành.</p><p></p><p> Đất – Nước kết hợp để tạo nên dáng hình xứ sở, đất nước lớn lên trong tình yêu đôi lứa, trong thời gian đằng đẵng. Trong không gian mênh mông, trong nỗ lực của mỗi con người hết lòng yêu thương Tổ quốc mình. Đất nước chân thực , gần gũi như “búi tóc của mẹ, miếng trầu của bà” mà vô cùng huyền ảo với “chim về, rồng ở, Lạc Long Quân và Âu Cơ...</p><p></p><p>Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm có khả năng đánh thức tình cảm cội nguồn trong đáy tâm linh Việt: </p><p></p><p>“<em>Hàng năm ăn đâu làm đâu</em></p><p><em>Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”</em></p><p><em></em></p><p>Bằng những câu thơ cấu tạo như định nghĩa Nguyễn Khoa Điềm đã tổng kết lịch sử trong quá trình sinh thành đất nước, tạo nên địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua. Nhà thơ đã chỉ rõ chủ nhân chân chính của đất nước là nhân dân. Đằng sau mỗi tên đất tên sông là mỗi cuộc đời và kì tích cha ông. Chính nhân dân đã xây dựng mở mang và giữ gìn đất nước. Họ là những con người bình dị, vô danh:</p><p></p><p><em>“Họ đã sống và đã chết</em></p><p><em>Giản dị và bình tâm</em></p><p><em>Không ai nhớ mặt đặt tên</em></p><p><em>Nhưng họ đã làm ra Đất nước”.</em></p><p></p><p>Đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của nhân dân dưới ánh sáng của hệ tưt tưởng mới: Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Lần theo những địa danh suốt 3 miền Bắc, Trung, Nam, Nguyễn Khoa Điềm dã dựng nên diện mạo non sông dáng hình xứ sở qua cuộc đời con người: nhất là những con người bình thường, vô danh... Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một thành công trong dàn hợp xướng về đất nước của thơ ca thời chống Mĩ, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân và Đất nước của Văn hóa thời kỳ này.</p><p></p><p><strong>Chất liệu văn hóa dân gian góp phần thể hiện tư tưởng: đất nước của nhân dân.</strong></p><p></p><p>Đoạn trích thành công ở việc tạo ra một không khí, giọng điệu không gian nghệ thuật giàu sức bay bổng của ca dao truyền thống, của văn hóa dân gian, nhưng lại mới mẻ qua cảm nhận và tư¬duy hiện đại.</p><p></p><p>Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ bình dị vừa thân thiết gần gũi vừa huyền diệu thiêng liêng: “Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi”. Nó tạo mối liên hệ máu thịt giữa mỗi con người với đất nước. Tình cảm mỗi con người đối với đất nước lớn lên theo năm tháng, sự trưởng thành của mỗi người làm đất nước thêm lớn mạnh. Từ không gian huyền thoại, thời gian cổ tích: “từ ngày xửa ngày xa” chuyển hóa nhanh chóng sang không gian đời thường, thời gian hiện tại “Miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ bây giờ”. Sự co giãn trong từng câu thơ (ngắn, dài xen kẽ), cách mở rộng nghĩa trong trường liên tưởng, lối đối xứng xưa nay để tương sinh, cái huyền ảo và đời thường đặt cạnh nhau khiến Đất nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.</p><p></p><p>Thành công của đoạn thơ ở chỗ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để làm nên các hình ảnh thơ của mình. Không chỉ sử dụng vẹn nguyên mà tác giả còn sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa dân gian lâu đời, cho chúng một sức sống mới, một ý nghĩa mới. Những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyền thuyết quen thuộc nhưng khi đi vào bài thơ đã lấp lánh ánh sáng tài năng, tâm hồn tình cảm Nguyễn Khoa Điềm: </p><p></p><p><em>“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn</em></p><p><em>Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nối nhớ thầm”</em></p><p></p><p>Đất nước có trong tình yêu thương của mẹ cha trong khoảnh khắc bồi hồi thầm thương trộm nhớ của mỗi người. Sự đậm đặc của yếu tố dân gian và cách nhìn cách thể hiện mới mẻ đã tạo ra một bầu khí quyển độc đáo huyền ảo bao trùm suốt đoạn thơ với những câu thơ có khả năng ngân vang trong cõi tiềm thức và cả vô thức của người Việt. </p><p></p><p>Ngày xưa khi định nghĩa về đất nước, Lý Thường Kiệt phải thiêng hóa qua “đế cư” “thiên thư” Nguyễn Đình Chiểu phải mượn hình ảnh kì vĩ “Nhật nguyệt chói lòa”, “xa thư đồ sộ” để trang trọng hóa đất nước. Còn ở đây, trong trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, ngôn từ đậm chất liệu văn hóa dân gian đã nỗ lực bình dị đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có công đưa đất nước từ trời cao thượng đế, ngai vàng đế vương xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng hai sương nuôi dưỡng cộng đồng Việt, cái cột cái kèo trong mái ấm thân thương của mỗi gia đình... Đất nước thân thương giản dị xiết bao. Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian không còn là thủ pháp nghệ thuật mà là một khám phá mới mẻ sâu xa của tình yêu về hình tư¬ợng Đất nước. Văn hóa dân gian là của nhân dân... Chất liệu văn hóa dân gian trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ đã tập trung thể hiện chủ đề của toàn tác phẩm: Đất nư¬ớc này là đất nước của nhân dân.</p><p></p><p>Tư tưởng đó đã khẳng định những thắng cảnh thiên nhiên kì thú: Núi vọng phu, hòn trống mái... có mối liên hệ máu thịt với đời sống dân tộc. Tác giả đã khái quát sâu sắc đầy sức thuyết phục: </p><p></p><p><em>“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi </em></p><p><em>Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống của ông cha</em></p><p><em>Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy</em></p><p><em>Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” </em></p><p><em></em></p><p>Khi nghĩ về lịch sử 4000 của đất nước, tác giả không điểm lại các vương triều phong kiến, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh công đức những con người bình dị vô danh: “Trong 4000 lớp người... ra đất nước” chính những người vô danh bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho đời sau bó đuốc truyền thống trong cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ các giá trị văn hóa, văn minh tinh thần vật chất của Đất nước, dân tộc: Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ, Nguyễn Khoa Điềm trở về với cội nguồn văn hóa dân gian để định nghĩa một cách bất ngờ .</p><p></p><p><em>Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại</em></p><p></p><p>Nguyễn Khoa Điềm sử dụng hai vế song song đồng đẳng nhân dân - ca dao thần thoại. Bằng cách đó đã định nghĩa đất nước là kết tinh cao quý nhất đời sống trí tuệ, tình cảm của nhân dân. Bởi vẻ đẹp tinh thần của nhân dân kết tinh hơn đâu hết là ở ca dao dân ca, cổ tích. Câu thơ với 2 vế song song đồng đẳng đã khiến định nghĩa Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vừa giản dị vừa huyền ảo. </p><p></p><p>Tác giả chọn trong kho tàng dân gian 3 câu nói về 3 phương diện quan trọng nhất của Đất nước được tác giả cảm nhận và phát hiện trong cái nhìn tổng hợp toàn vẹn mang đậm tư tưởng truyền thống dân tộc: Rất say đắm trong tình yêu (yêu em). Rất quí trọng tình nghĩa (Quý công cầm vàng...) nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (biết trống tre... lâu.)</p><p></p><p>Trách nhiệm bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất nước khi Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh hóa thân trong cuộc sống mỗi con người: </p><p></p><p><em>“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình</em></p><p><em>Phải biết gắn bó và san sẻ</em></p><p><em>Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở</em></p><p><em>Làm nên Đất nước muôn đời...”</em></p><p><em></em></p><p>Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ thiết tha. Mở đầu bằng tiếng gọi tha thiết: Em ơi em ... khiến tính chính luận không mang màu sắc giáo huấn mà như một lời tự nhủ tự dặn chân thành: sự sống của mỗi cá nhân không phải là chỉ riêng của cá nhân mà còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần vật chất của dân tộc, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. </p><p></p><p>Trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ là bổn phận bảo vệ biên cương địa giới, tiếp nối truyền thống lịch sử, mà còn ở việc bảo lưu văn hóa phong tục, giữ gìn nét đẹp tâm hồn tính cách dân tộc. Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước trong hiện tại là sự trân trọng đối với quá khứ là xây dựng nền tảng cho tương lai, tạo sức sống trường cửu của dân tộc. Đất nước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, sự sống của mỗi con người. Sự sống của mỗi cá nhân chỉ có ý nghĩa trong sự trường tồn của đất nước.</p><p></p><p><strong>III.Kết luận</strong></p><p></p><p>Đất nước là đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này. Tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được Nguyễn Khoa Điềm phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian được nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn, biến ảo đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ. </p><p></p><p>(Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 23780, member: 699"] [B][CENTER] [SIZE=4][COLOR=Blue]Phân tích đoạn trích Đất nước [/COLOR][/SIZE] [/CENTER] [/B] [B]I.Mở bài [/B] Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Cũng như một số nhà thơ hàng đầu của thời kỳ này, Nguyễn Khoa Điềm tâm huyết với chủ đề lớn của thơ ca đương thời là “Đất nước”. Đoạn trích “Đất nước” chiếm gần trọn vẹn chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng . Đây là chương hay nhất tập trung những suy nghĩ cảm nhận mới mẻ về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân. [B]II . Thân bài Giới thiệu chung hoàn cảnh , đề tài .[/B] Trường ca “Mặt đường khát vọng”, là thành công không chỉ riêng Nguyễn Khoa Điềm mà của cả nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ trong việc chiếm lĩnh đề tài Tổ quốc. Ra đời 1971 trên chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Trường ca Mặt đường khát vọng thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đất nước là chủ đề được quan tâm hàng đầu của nền Văn học Việt Nam - nền văn học của một dân tộc 4000 năm dựng nước , giữ nước. Từ trong lịch sử xa xưa... những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc ta đã từng nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong lịch sử”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi). Các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ đã phát biểu một cách thấm thía cảm nhận mới mẻ về đất nước. Song tư tưởng Đất nước là của nhân dân có lẽ được kết tinh hơn cả trong trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm trong Trường ca Mặt đường khát vọng”. Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp giữa chính luận và trữ tình để trình bày những cảm nhận và suy tưởng về Đất Nước dưới hình thức lời trò chuyện tâm tình giữa đôi lứa yêu nhau. Đất Nước được cảm nhận toàn vẹn từ nhiều bình diện: Trong chiều dài của thời gian lịch sử, trong bề rộng của không gian địa lý, trong tầm cao của đời sống văn hóa, phong tục, tâm hồn tính cách cha ông... Ba phương diện đó gắn bó với nhau làm nổi bật tư tưởng cơ bản: Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. [B]Cảm nhận mới mẻ về Đất Nước[/B] Đất nước là sự thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác. Hai chữ Đất nước trong toàn chương và trong đoạn trích được viết như một mĩ từ thể hiện tình cảm thiêng liêng sâu sắc của nhà thơ với đất. Sự vỡ tách và nhập ghép 2 âm tiết: đất nước tạo nên một phát hiện đượm phong vị triết học: [I]“Đất là nơi anh đến trường... nồng thắm”[/I] Anh là đất - phù hợp với khí chất vững vàng kiên định, em là nước thật dịu dàng nữ tính. Khi nói về anh, về em thì Đất - nước tách riêng, khi anh em hò hẹn đại từ nhân xưng chuyển hóa thành “Ta” thì đất nước gắn liền bên nhau hài hòa nồng thắm. Khi tách riêng ra thì “Đất là hòn núi bạc”, Nước là “Biển khơi”, khi hợp nhất lại “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Khi tách riêng ra “Đất là nơi chim về”, “Nước là nơi rồng ở” khi hợp nhất lại “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện đầy xúc động cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đất nước không chỉ bên ta, quanh ta mà cả trong ta. Điệp ngữ Đất Nước vang lên như một khúc nhạc thiêng tấu lên suốt chiều dài đoạn thơ. Đất Nước là 2 tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành. Đất – Nước kết hợp để tạo nên dáng hình xứ sở, đất nước lớn lên trong tình yêu đôi lứa, trong thời gian đằng đẵng. Trong không gian mênh mông, trong nỗ lực của mỗi con người hết lòng yêu thương Tổ quốc mình. Đất nước chân thực , gần gũi như “búi tóc của mẹ, miếng trầu của bà” mà vô cùng huyền ảo với “chim về, rồng ở, Lạc Long Quân và Âu Cơ... Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm có khả năng đánh thức tình cảm cội nguồn trong đáy tâm linh Việt: “[I]Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” [/I] Bằng những câu thơ cấu tạo như định nghĩa Nguyễn Khoa Điềm đã tổng kết lịch sử trong quá trình sinh thành đất nước, tạo nên địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua. Nhà thơ đã chỉ rõ chủ nhân chân chính của đất nước là nhân dân. Đằng sau mỗi tên đất tên sông là mỗi cuộc đời và kì tích cha ông. Chính nhân dân đã xây dựng mở mang và giữ gìn đất nước. Họ là những con người bình dị, vô danh: [I]“Họ đã sống và đã chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất nước”.[/I] Đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của nhân dân dưới ánh sáng của hệ tưt tưởng mới: Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Lần theo những địa danh suốt 3 miền Bắc, Trung, Nam, Nguyễn Khoa Điềm dã dựng nên diện mạo non sông dáng hình xứ sở qua cuộc đời con người: nhất là những con người bình thường, vô danh... Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một thành công trong dàn hợp xướng về đất nước của thơ ca thời chống Mĩ, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân và Đất nước của Văn hóa thời kỳ này. [B]Chất liệu văn hóa dân gian góp phần thể hiện tư tưởng: đất nước của nhân dân.[/B] Đoạn trích thành công ở việc tạo ra một không khí, giọng điệu không gian nghệ thuật giàu sức bay bổng của ca dao truyền thống, của văn hóa dân gian, nhưng lại mới mẻ qua cảm nhận và tư¬duy hiện đại. Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ bình dị vừa thân thiết gần gũi vừa huyền diệu thiêng liêng: “Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi”. Nó tạo mối liên hệ máu thịt giữa mỗi con người với đất nước. Tình cảm mỗi con người đối với đất nước lớn lên theo năm tháng, sự trưởng thành của mỗi người làm đất nước thêm lớn mạnh. Từ không gian huyền thoại, thời gian cổ tích: “từ ngày xửa ngày xa” chuyển hóa nhanh chóng sang không gian đời thường, thời gian hiện tại “Miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ bây giờ”. Sự co giãn trong từng câu thơ (ngắn, dài xen kẽ), cách mở rộng nghĩa trong trường liên tưởng, lối đối xứng xưa nay để tương sinh, cái huyền ảo và đời thường đặt cạnh nhau khiến Đất nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Thành công của đoạn thơ ở chỗ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để làm nên các hình ảnh thơ của mình. Không chỉ sử dụng vẹn nguyên mà tác giả còn sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa dân gian lâu đời, cho chúng một sức sống mới, một ý nghĩa mới. Những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyền thuyết quen thuộc nhưng khi đi vào bài thơ đã lấp lánh ánh sáng tài năng, tâm hồn tình cảm Nguyễn Khoa Điềm: [I]“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nối nhớ thầm”[/I] Đất nước có trong tình yêu thương của mẹ cha trong khoảnh khắc bồi hồi thầm thương trộm nhớ của mỗi người. Sự đậm đặc của yếu tố dân gian và cách nhìn cách thể hiện mới mẻ đã tạo ra một bầu khí quyển độc đáo huyền ảo bao trùm suốt đoạn thơ với những câu thơ có khả năng ngân vang trong cõi tiềm thức và cả vô thức của người Việt. Ngày xưa khi định nghĩa về đất nước, Lý Thường Kiệt phải thiêng hóa qua “đế cư” “thiên thư” Nguyễn Đình Chiểu phải mượn hình ảnh kì vĩ “Nhật nguyệt chói lòa”, “xa thư đồ sộ” để trang trọng hóa đất nước. Còn ở đây, trong trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, ngôn từ đậm chất liệu văn hóa dân gian đã nỗ lực bình dị đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có công đưa đất nước từ trời cao thượng đế, ngai vàng đế vương xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng hai sương nuôi dưỡng cộng đồng Việt, cái cột cái kèo trong mái ấm thân thương của mỗi gia đình... Đất nước thân thương giản dị xiết bao. Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian không còn là thủ pháp nghệ thuật mà là một khám phá mới mẻ sâu xa của tình yêu về hình tư¬ợng Đất nước. Văn hóa dân gian là của nhân dân... Chất liệu văn hóa dân gian trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ đã tập trung thể hiện chủ đề của toàn tác phẩm: Đất nư¬ớc này là đất nước của nhân dân. Tư tưởng đó đã khẳng định những thắng cảnh thiên nhiên kì thú: Núi vọng phu, hòn trống mái... có mối liên hệ máu thịt với đời sống dân tộc. Tác giả đã khái quát sâu sắc đầy sức thuyết phục: [I]“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống của ông cha Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” [/I] Khi nghĩ về lịch sử 4000 của đất nước, tác giả không điểm lại các vương triều phong kiến, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh công đức những con người bình dị vô danh: “Trong 4000 lớp người... ra đất nước” chính những người vô danh bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho đời sau bó đuốc truyền thống trong cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ các giá trị văn hóa, văn minh tinh thần vật chất của Đất nước, dân tộc: Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ, Nguyễn Khoa Điềm trở về với cội nguồn văn hóa dân gian để định nghĩa một cách bất ngờ . [I]Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại[/I] Nguyễn Khoa Điềm sử dụng hai vế song song đồng đẳng nhân dân - ca dao thần thoại. Bằng cách đó đã định nghĩa đất nước là kết tinh cao quý nhất đời sống trí tuệ, tình cảm của nhân dân. Bởi vẻ đẹp tinh thần của nhân dân kết tinh hơn đâu hết là ở ca dao dân ca, cổ tích. Câu thơ với 2 vế song song đồng đẳng đã khiến định nghĩa Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vừa giản dị vừa huyền ảo. Tác giả chọn trong kho tàng dân gian 3 câu nói về 3 phương diện quan trọng nhất của Đất nước được tác giả cảm nhận và phát hiện trong cái nhìn tổng hợp toàn vẹn mang đậm tư tưởng truyền thống dân tộc: Rất say đắm trong tình yêu (yêu em). Rất quí trọng tình nghĩa (Quý công cầm vàng...) nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (biết trống tre... lâu.) Trách nhiệm bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất nước khi Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh hóa thân trong cuộc sống mỗi con người: [I]“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất nước muôn đời...” [/I] Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ thiết tha. Mở đầu bằng tiếng gọi tha thiết: Em ơi em ... khiến tính chính luận không mang màu sắc giáo huấn mà như một lời tự nhủ tự dặn chân thành: sự sống của mỗi cá nhân không phải là chỉ riêng của cá nhân mà còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần vật chất của dân tộc, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ là bổn phận bảo vệ biên cương địa giới, tiếp nối truyền thống lịch sử, mà còn ở việc bảo lưu văn hóa phong tục, giữ gìn nét đẹp tâm hồn tính cách dân tộc. Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước trong hiện tại là sự trân trọng đối với quá khứ là xây dựng nền tảng cho tương lai, tạo sức sống trường cửu của dân tộc. Đất nước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, sự sống của mỗi con người. Sự sống của mỗi cá nhân chỉ có ý nghĩa trong sự trường tồn của đất nước. [B]III.Kết luận[/B] Đất nước là đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này. Tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được Nguyễn Khoa Điềm phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian được nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn, biến ảo đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ. (Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Phân tích đoạn trích "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm
Top