Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
Phân tích bài thơ "Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 80752" data-attributes="member: 7"><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'arial'"> <span style="font-size: 15px"><em><strong>Bài làm 2</strong></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bài thơ Xuất dương lưu biệt đúng là bài thơ để nói cái chí của mình (thi dĩ ngôn chí) một khúc tráng ca thể hiện rất rõ trong tư thế, trong suy nghĩ cao cả, mới mẻ và sự quyết tâm hăm hở ra đi tìm đường cứu nước của nhà thơ, nhà cách mạng lớn Phan Bội Châu.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngay ở đầu bài thơ, hai câu đề có giá trị như là tuyên ngôn về chí làm trai:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Sinh vi nam tử yếu hi kì</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Khẳng hữu càn khôn tự chuyển di</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>(Làm trai phải lạ ở trên đời</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Há để càn khôn tự chuyển dời)</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh thời phong kiến. Cái phần tích cực, cái tráng khí hùng tâm của chí làm trai đã từng làm cho không ít người đã lập nên công tích ở đời. Thời trước, chí làm trai không mấy khi tách khỏi kỳ vọng công danh. Nếu Phạm Ngũ Lão nghĩ suy Công danh vương tử còn vương nợ (Thuật hoài) thì Nguyễn Công Trứ cũng trăn trở Không công danh thà nát với cỏ cây (Chí làm trai). Nhà thơ họ Nguyễn còn gắn chí làm trai với nợ tang bồng: Chí làm trai nam bắc đông tây. Cho Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí làm trai)…</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ở đây, Phan Bội Châu cũng nghĩ tới chí làm trai. Theo nhà thơ, đã làm trai thì phải làm nên chuyện lạ ở đời:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Làm trai phải lạ ở trên đời</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Chuyện lạ ấy nhấtđịnh không phải là công danh cũng không phải là nợ tang bồng. Chuyện lạ ở bài thơ này chính là xoay chuyển trời đất, lấp biển dời non.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Há để càn khôn tự chuyển dời</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Không thể sống thụ động, câu thơ là một câu hỏi tu từ, khẳng định một tư thế, một tâm thế tuyệt đẹp của nhà cách mạng trong buổi lên đường tự tin vào tài năng của mình muốn làm nên một sự nghiệp to lớn giữa lúc non sông đắm chìm trong cảnh nô lệ lầm than.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Hai câu thực tiếp đó là ý thức tự khẳng định mình, cái tôi trách nhiệm trước thời đại mình đang sống:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Vi bách niên trung tu hữu ngã</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>(Trong khoảng trăm năm cần có tớ</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Sau này muôn thuở, há không ai?)</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Hai câu thơ, câu đầu nói giọng khẳng định. Câu sau nghi vấn, nhưng thực chất cũng là khẳng định. Chí làm trai ở đây gắn liền với nhận thức về sự hiện hữu của cái tôi, cái tôi trách nhiệm và ý muốn sống hữu ích, muôn lưu danh với hậu thế. Theo Nguyễn Đình Chú: “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái tôi như thế, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng cũng như có được một ý thức lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng.|</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Rất đỗi tự hào về trách nhiệm, vai trò của mình trong cuộc đời, “trong khoảng trăm năm”, và hơn thế nữa, trong “sau này muôn thuở”, nhà thơ nêu câu hỏi: “Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy?”. Chửng lẽ ngàn năm sau lại không có ai để lại tên tuổi mình ư? Thoạt nghe là tự hỏi mình, nhưng thực ra cũng là hỏi tất mọi người. Không chỉ hỏi thôi đâu mà chính là giục giã mọi người hành động.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Hai câu tiếp theo là quan niệm của nhà thơ về lẽ sống trong hoàn cảnh đất nước lầm than, nô lệ:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Giang sơn sử hĩ sinh đồ nhuế</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Hiền thánh liên nhiên tụng diệc si</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>(Non sông đã chết sống thêm nhục</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Hiền thánh còn đâu học cũng hoài).</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trong hai câu thơ này, nhà thơ đề cập một cách thống thiết, đầy xúc động về thực tại đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị bọn thực dân Pháp thống trị. Cách nói này nửa khẳng định dứt khoát vừa chứa đựng nỗi căm tức khôn nguôi của một con người, một tấm lòng sục sôi, nóng bỏng không cam chịu cúi đầu trước cái nhục mất nước. Đối với nhà thơ lúc này, mọi sách vở giáo dục đều là vô ích:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Hiền thánh còn đâu học cũng hoài</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Giọng điệu trang nghiêm, câu thơ ngắn ngọn với ý tưởng sâu sắc táo bạo.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Hai câu kết khép lại bài thơ là một tư thế hăm hở hào hùng, kì vĩ của người ra đi:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Nguyện trục trường phong Đông hải khứ</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nghĩa là:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Muốn vượt bể Đông theo cánh gió</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Muốn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Mượn hình ảnh thơ những ngọn gió dài (trường phong) và ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên vừa thơ mộng vừa hùng tráng, đầy hào khí, Phan Bội Châu đã thể hiện cái hùng tâm tráng khí của mình và đặc biệt là sự khao khát ra đi đến cháy bỏng của tâm hồn nhà thơ.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Người đọc tưởng như nhà thơ đang “cưỡi gió, đạp sóng” hay đang hóa chim bằng vút cánh qua “sóng gió biển khơi” giữa “cao rộng đất trời”…bay lên cùng muôn trùng sóng bạc với chân trời mới, tới thắng lợi.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Xuất dương lưu biệt, bài thơ chỉ 56 từ mà thể hiện một chí khí lớn lao, kì vĩ. Nhà thơ không can tâm làm nô lệ mà nhất quyết ra đi tìm con đường cứu nước. Giọng thơ đầy cảm xúc, sôi sục, tuôn trào, mãi mãi là lời kêu gọi mọi người hãy hành động, hãy cống hiến hết mình vì nhân dân, vì đất nước.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*</em></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 80752, member: 7"] [CENTER][FONT=arial] [SIZE=4][I][B]Bài làm 2[/B][/I][/SIZE][/FONT][/CENTER] [FONT=arial] Bài thơ Xuất dương lưu biệt đúng là bài thơ để nói cái chí của mình (thi dĩ ngôn chí) một khúc tráng ca thể hiện rất rõ trong tư thế, trong suy nghĩ cao cả, mới mẻ và sự quyết tâm hăm hở ra đi tìm đường cứu nước của nhà thơ, nhà cách mạng lớn Phan Bội Châu. Ngay ở đầu bài thơ, hai câu đề có giá trị như là tuyên ngôn về chí làm trai: [I]Sinh vi nam tử yếu hi kì Khẳng hữu càn khôn tự chuyển di (Làm trai phải lạ ở trên đời Há để càn khôn tự chuyển dời)[/I] Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh thời phong kiến. Cái phần tích cực, cái tráng khí hùng tâm của chí làm trai đã từng làm cho không ít người đã lập nên công tích ở đời. Thời trước, chí làm trai không mấy khi tách khỏi kỳ vọng công danh. Nếu Phạm Ngũ Lão nghĩ suy Công danh vương tử còn vương nợ (Thuật hoài) thì Nguyễn Công Trứ cũng trăn trở Không công danh thà nát với cỏ cây (Chí làm trai). Nhà thơ họ Nguyễn còn gắn chí làm trai với nợ tang bồng: Chí làm trai nam bắc đông tây. Cho Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí làm trai)… Ở đây, Phan Bội Châu cũng nghĩ tới chí làm trai. Theo nhà thơ, đã làm trai thì phải làm nên chuyện lạ ở đời: [I]Làm trai phải lạ ở trên đời[/I] Chuyện lạ ấy nhấtđịnh không phải là công danh cũng không phải là nợ tang bồng. Chuyện lạ ở bài thơ này chính là xoay chuyển trời đất, lấp biển dời non. [I]Há để càn khôn tự chuyển dời[/I] Không thể sống thụ động, câu thơ là một câu hỏi tu từ, khẳng định một tư thế, một tâm thế tuyệt đẹp của nhà cách mạng trong buổi lên đường tự tin vào tài năng của mình muốn làm nên một sự nghiệp to lớn giữa lúc non sông đắm chìm trong cảnh nô lệ lầm than. Hai câu thực tiếp đó là ý thức tự khẳng định mình, cái tôi trách nhiệm trước thời đại mình đang sống: [I]Vi bách niên trung tu hữu ngã Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy. (Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này muôn thuở, há không ai?)[/I] Hai câu thơ, câu đầu nói giọng khẳng định. Câu sau nghi vấn, nhưng thực chất cũng là khẳng định. Chí làm trai ở đây gắn liền với nhận thức về sự hiện hữu của cái tôi, cái tôi trách nhiệm và ý muốn sống hữu ích, muôn lưu danh với hậu thế. Theo Nguyễn Đình Chú: “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái tôi như thế, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng cũng như có được một ý thức lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng.| Rất đỗi tự hào về trách nhiệm, vai trò của mình trong cuộc đời, “trong khoảng trăm năm”, và hơn thế nữa, trong “sau này muôn thuở”, nhà thơ nêu câu hỏi: “Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy?”. Chửng lẽ ngàn năm sau lại không có ai để lại tên tuổi mình ư? Thoạt nghe là tự hỏi mình, nhưng thực ra cũng là hỏi tất mọi người. Không chỉ hỏi thôi đâu mà chính là giục giã mọi người hành động. Hai câu tiếp theo là quan niệm của nhà thơ về lẽ sống trong hoàn cảnh đất nước lầm than, nô lệ: [I]Giang sơn sử hĩ sinh đồ nhuế Hiền thánh liên nhiên tụng diệc si (Non sông đã chết sống thêm nhục Hiền thánh còn đâu học cũng hoài).[/I] Trong hai câu thơ này, nhà thơ đề cập một cách thống thiết, đầy xúc động về thực tại đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị bọn thực dân Pháp thống trị. Cách nói này nửa khẳng định dứt khoát vừa chứa đựng nỗi căm tức khôn nguôi của một con người, một tấm lòng sục sôi, nóng bỏng không cam chịu cúi đầu trước cái nhục mất nước. Đối với nhà thơ lúc này, mọi sách vở giáo dục đều là vô ích: [I]Hiền thánh còn đâu học cũng hoài [/I] Giọng điệu trang nghiêm, câu thơ ngắn ngọn với ý tưởng sâu sắc táo bạo. Hai câu kết khép lại bài thơ là một tư thế hăm hở hào hùng, kì vĩ của người ra đi: [I]Nguyện trục trường phong Đông hải khứ Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi [/I] Nghĩa là: [I]Muốn vượt bể Đông theo cánh gió Muốn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.[/I] Mượn hình ảnh thơ những ngọn gió dài (trường phong) và ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên vừa thơ mộng vừa hùng tráng, đầy hào khí, Phan Bội Châu đã thể hiện cái hùng tâm tráng khí của mình và đặc biệt là sự khao khát ra đi đến cháy bỏng của tâm hồn nhà thơ. Người đọc tưởng như nhà thơ đang “cưỡi gió, đạp sóng” hay đang hóa chim bằng vút cánh qua “sóng gió biển khơi” giữa “cao rộng đất trời”…bay lên cùng muôn trùng sóng bạc với chân trời mới, tới thắng lợi. Xuất dương lưu biệt, bài thơ chỉ 56 từ mà thể hiện một chí khí lớn lao, kì vĩ. Nhà thơ không can tâm làm nô lệ mà nhất quyết ra đi tìm con đường cứu nước. Giọng thơ đầy cảm xúc, sôi sục, tuôn trào, mãi mãi là lời kêu gọi mọi người hãy hành động, hãy cống hiến hết mình vì nhân dân, vì đất nước. [I]Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*[/I][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
Phân tích bài thơ "Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu
Top