Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
Phân tích bài thơ "Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 80751" data-attributes="member: 7"><p><strong>Bài làm 1</strong></p><p></p><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #006400"><strong>Phân tích bài thơ “Xuất Dương lưu biệt” của Phan Bội Châu.</strong></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><span style="font-size: 15px"><strong>Bài làm 1</strong></span></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Phan Bội Châu (1867 – 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu).</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Xuất dương lưu biệt được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><ol> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'arial'">Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:</span></li> </ol><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Sinh nam tử yếu hi kì,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (<em>tử yếu hi kì). </em>Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Mở miệng cười tan cuộc oán thù.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muồn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Lập thân tối hạ thị văn chương.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>(Tùy biên thi thoại – Viên Mai)</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>(Bữa bữa những mong ghi sử sách,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Lập thân xoáng nhất ấy văn chương)</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy…(Ngục trung thư)</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><ol> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'arial'">Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:</span></li> </ol><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Ư bách niên trung tu hữu ngã,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>-…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội có, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng (Trần Quốc Tuấn).</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>- Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên Tường)</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>(Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><ol> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'arial'">Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào còn đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:</span></li> </ol><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Non sông đã chết sống thêm nhục,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Thánh hiền còn đâu học cũng hoài</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><ol> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'arial'">Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn:</span></li> </ol><p><span style="font-family: 'arial'"><em> </em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Nguyên trục trường phong Đông hải khứ,</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết.</span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Xuất dương lưu biệt là bai thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><strong><em>Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*</em></strong></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 80751, member: 7"] [b]Bài làm 1[/b] [CENTER][FONT=arial] [SIZE=4][COLOR=#006400][B]Phân tích bài thơ “Xuất Dương lưu biệt” của Phan Bội Châu.[/B][/COLOR][/SIZE][/FONT][/CENTER] [FONT=arial] [SIZE=4][B]Bài làm 1[/B][/SIZE] Phan Bội Châu (1867 – 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu). Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu. Xuất dương lưu biệt được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước. [/FONT] [LIST=1] [*][FONT=arial]Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:[/FONT] [/LIST] [FONT=arial] [I]Sinh nam tử yếu hi kì,[/I] [I]Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.[/I] Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ ([I]tử yếu hi kì). [/I]Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác: [I]Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,[/I] [I]Mở miệng cười tan cuộc oán thù.[/I] Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muồn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ: [I]Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch, Lập thân tối hạ thị văn chương. (Tùy biên thi thoại – Viên Mai) (Bữa bữa những mong ghi sử sách, Lập thân xoáng nhất ấy văn chương)[/I] Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy…(Ngục trung thư) [/FONT] [LIST=1] [*][FONT=arial]Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:[/FONT] [/LIST] [FONT=arial] [I]Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.[/I] Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: [I]-…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội có, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng (Trần Quốc Tuấn). - Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên Tường)[/I] Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan: [I]Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu! (Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)[/I] [/FONT] [LIST=1] [*][FONT=arial]Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào còn đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:[/FONT] [/LIST] [FONT=arial] [I]Non sông đã chết sống thêm nhục, Thánh hiền còn đâu học cũng hoài[/I] Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên: [I]Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…[/I] Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ. [/FONT] [LIST=1] [*][FONT=arial]Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn:[/FONT] [/LIST] [FONT=arial][I] Nguyên trục trường phong Đông hải khứ, Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi[/I] Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết. Xuất dương lưu biệt là bai thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu. [B][I]Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*[/I][/B][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
Phân tích bài thơ "Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu
Top