Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

chipolata_576

New member
Xu
0
Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.

Bài thơ sau đây là bài “Thương vợ” của Tú Xương:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”


Trần Tế Xương lận đận trong thi cử, đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông là một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mà đậu được cái tú tài thì rồi cũng làm “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế là bà Tú gần như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tài hoa của mình mà ghi công cho bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.


Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”


Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mà nuôi một ông Tú, lại là Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.

Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”


Nếu như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giành) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” và “đông”. Người phụ nữ gánh hàng lặn lội trên quãng đường vắng thật là khổ. Mà đến chỗ “đò đông” thì thật là đáng sợ! Nghĩa là nhìn từ phía nào, nhà thơ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.

Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”


Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.

Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”


Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.

Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú giành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử!
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Hãy phân tích bài thơ Thương vợ của nhà thơ Trần Tế Xương

ĐỀ BÀI

Hãy phân tích bài thơ Thương vợ của nhà thơ Trần Tế Xương.

BÀI LÀM

Nói lên tâm trạng đáng thương của ngừơi phụ nữ thời xưa, ca dao có câu:

Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người

Quả thực đó là một lời khẳng định chắc chắn về một tấm lòng thuỷ chung son sắt, một tình cảm thương yêu mà người phụ nữ đã dành cho chồng mình, trải qua nhiều năm, chúng ta lại bắt gặp những tình cảm đó ở bà Tú trong bài thơ Thương vợ của nhà thơ Trần Tế Xương – một bài thơ trữ tình đặc sắc. Nét đặc biệt của bài thơ là tác giả đã khai thác một khía cạnh thật tế nhị khác với phong cách thơ trào phúng, châm biếm.

Có thể nói bài thơ Thương vợ là một bài thơ thế sự và cũng là bài thơ tâm sự, thắm đượm nghĩa tình yêu thương. Mở đầu bài thơ, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh vợ mình với bao vất vả lo toan của công việc bộn bề:

Quanh năm buôn bán ở mom song

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Nếu như người vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất cả chân nam đá chân chiêu vì tớ mà đỡ đần mọi việc” thì bà Tú lại là một người vợ hiền thục, đảm đang, chịu thương, chịu khó. Được mang danh là bà Tú nhưng bà lại phải “quanh năm buôn bán ở mom sông”. Từ “quanh năm” như khẳng định thêm cái vòng xoay của thời gian cũng là vòng quay trong công việc của bà. Công việc của bà cứ ngày theo ngày, tháng theo tháng, liên tiếp và liên tiếp. Cứ thế, bà vẫn tất bật với công việc và phải đối chọi với bao khó khăn. Nó không phải là cái cơ cực, vất vả, giãi nắng dầm mưa đơn thuần mà đôi vai bé nhỏ của bà phải gánh chịu bao mánh khoé của cuộc đời đen bạc. Rồi những khi trời mưa, gió bão thì công việc của bà trở nên nặng nhọc hơn bởi bà buôn bán ở mom sông – nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc bởi sông nứơc, nơi làm ăn trên thế đất chênh vênh. Nhưng có lẽ thời tiết càng khắc nghiệt, địa thế càng khó khăn thì bà lại càng phải cố gắng nhiều hơn để “nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ “nuôi đủ” là một khái niệm thật là trừu tượng: biết thế nào là cho đủ khi nhu cầu và ham muốn của con người là vô tận? Ở đây chúng ta không nói rằng ông Tú có nhiều ham muốn song đã là nhà nho đương thời thì cũng phải có những nhu cầu về cuộc sống nhất định. Không chỉ “nuôi đủ” cho ông Tú mà bà còn phải “nuôi đủ năm con”. Tác giả không nói vợ mình nuôi đủ sáu người mà lại nói “nuôi đủ năm con với một chồng”. Ở đây từ “với” đã làm tăng thêm sự đông đúc trong gia đình. Sự vất vả của bà, do vậy, càng tăng thêm:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Đến lúc này ngôn ngữ thơ đã được tăng cấp, nhiều gam màu nối tiếp nhau đã tô đậm thêm bức chân dung khó nhọc của bà Tú. Hình ảnh “thân cò khi quãng vắng” đã đem đến cho độc giả nhiều liên tưởng xúc động qua ca dao cổ:

Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Hoặc:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Khi màn đêm buông xuống, tất cả đã vào thế tĩnh, vào giấc ngủ say nồng sau một ngày lao động mệt mỏi thì cò ta vẫn phải mò mẫm đi trong đêm tối để kiếm ăn. Phải chăng đây cũng là hình ảnh của bà Tú? Bằng cách sử dụng các từ láy “eo sèo”, “lặn lội” và phép đối đặc sắc, Trần Tế Xương đã làm tăng thêm tính cam go, căng thẳng, dai dẳng trong công việc của vợ mình. Trong hoàn cảnh ấy, con người ta thường có ý nghĩ tiêu cực nhưng đối với bà Tú thì bà không than thân, trách phận mà tự an ủi mình:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công

Duyên là duyên phận, tình duyên, nợ là tơ vương. Bà Tú lấy ông Tú là xuất phát từ cái duyên, cái số, từ dây tơ hồng của ông tơ, bà nguyệt. Chính vì lẽ đó, dù “năm nắng mười mưa” để lo cho gia đình thì bà cũng “âu đành phận” và “chẳng dám quản công”. Hơn nữa bà Tú đã sống với ông Tú, có tới năm mặt con, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, vượt qua bao song gió đời người nên bà rất hiểu ông, do đó bà không hề than vãn. Phải chăng hiểu được vợ mà ông Tú đã “thương” vợ hơn, muốn cùng vợ gánh vác lo toan, nhưng:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

Tác giả đã viết vậy! Cũng có thể hiểu đây là lời chửi của bà Tú nhưng nếu bà Tú đã “một duyên hai nợ âu đành phận” thì chẳng có gì để mà chửi cả. Có lẽ đây là câu hỏi của chính tác giả Trần Tế Xương. Thương vợ, thương cho mình, Tú Xương đã mượn lời vợ mình để chửi cả một xã hội với bao thói đời đen bạc.

Câu thơ chứa đựng một nỗi chua chát, xót xa thế sự cho vợ mình của một thi sĩ có tài nhưng hàng ngày vẫn ăn lương vợ.

Bài thơ Thương vợ là một bài thơ hay của tác giả với phong cách trữ tình. Bài thơ miêu tả một bà Tú nhưng thấp thoáng đâu đây là hình ảnh người bà, người mẹ, người chị, người phụ nữ Việt Nam xưa và nay. Đó là những con người dịu dàng, đảm đang, tháo vát. Họ chỉ biết có làm việc và lo toan cho chồng, cho con rồi nhận chữ “không” về mình. Đối với họ, chồng con là trên hết, trên cả bản thân mình. Bài thơ ấy hay còn ở cách thể hiện của tác giả: mượn lời vợ rất hợp lý để chửi đời, chửi cái xã hội thời đó.

TRẦN THỊ THẮM*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top