Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Ánh Trăng - Nguyễn Duy
Phân tích Ánh Trăng của Nguyễn Duy
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Thandieu2" data-source="post: 142979" data-attributes="member: 1323"><p style="text-align: center"><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Phân tích bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Khổ thơ mở đầu như <em>những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ</em>:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>“Hồi nhỏ sống với đồng</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>với sông rồi với bể</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>hồi chiến tranh ở rừng</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>vầng trăng thành tri kỉ”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Trăng gắn bó</em> với tác giả ngay từ thời <em>thơ ấu</em>. Trăng gắn với <em>đồng ruộng, dòng sông, biển cả</em>. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến <em>khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương, vầng trăng mới thành “tri kỷ”</em>. Trăng với tác giả là <em>đôi bạn</em> không thể thiếu nhau, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ “hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ đã đi nhiều, trải nhiều... Qua những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác giả đã <em>diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng nội...</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'">Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>“Trần trụi với thiên nhiên</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>hồn nhiên như cây cỏ</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>ngỡ không bao giờ quên</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>cái vầng trăng tình nghĩa”</em></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trăng có vẻ <em>đẹp bình dị</em> vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. <em>Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”... Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào:</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>“ngỡ không bao giờ quên</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>cái vầng trăng tình nghĩa”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với con người. <em>Trăng mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh sáng xuống vòm cây, soi tỏ những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những người lính ở rừng núi.</em> Cái “tình nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên được. <em>Cách nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của tác giả đối với trăng biết nhường nào!</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Từ “ngỡ”</em> ở đầu câu thơ thứ ba <em>như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự đoán và suy nghĩ ban đầu...</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p> <span style="font-family: 'arial'">Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã quên:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>“Từ hồi về thanh phố</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>…như người dưng qua đường”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi <em>trường sống đã thay đổi</em>. Tác giả về sống với thành phố. <em>Đời sống cũng thay đổi</em> theo, <em>quen “ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng</em>... dần dần “<em>cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên</em>. Phải chăng “<em>vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian khổ</em> ấy. <em>Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian khổ ấy</em>. “<em>Trăng” bây giờ thành “người dưng</em>”... <em>Hình ảnh nhân hóa</em> ở đây thật sinh động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, <em>trăng vẫn gần gũi thân thương vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng.</em>.. Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con người thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Khổ thơ</em> này có <em>kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ</em>. <em>Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc.</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bài thơ được phát triển đến một <em>tứ thơ có chút kịch tính:</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>“Thình lình đèn điện tắt</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>…đột ngột vầng trăng tròn”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ</em>” lúc bấy giờ chỉ là <em>phản xạ hết sức tự nhiên của một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong</em> <em>có được một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm</em> hơn mà thôi. Nhưng may mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. <em>Trăng trở nên quý giá biết bao vào những khi mất điện</em>. Và riêng tác giả, cái vầng trăng đột ngột hiện trên khoảng trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự cố vừa rồi, mà nó còn <em>làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ:</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">“<em>Ngửa mặt lên nhìn mặt</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>…như là sông, là rừng”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng <em>đối xứng hai từ “mặt” rất hay. </em>Đó là <em>nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng</em>. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Từ gợi <em>tả “rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ</em>... <em>Những kỉ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc:</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>“như là đồng là bể</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>như là sông, là rừng”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng mạnh mẽ...</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời: </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em> “Trăng cứ tròn vành vạnh</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>kể chi người vô tình</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>ánh trăng im phăng phắc</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>đủ cho ta giật mình.”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Hình ảnh <em>“vầng trăng</em>” còn được nhà thơ nhìn lại <em>“tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết.</em> Cái <em>ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ:</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>“ánh trăng im phăng phắc</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>đủ cho ta giật mình”</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối.</em> Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và việc không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả. Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng” không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi!</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em><strong>Sưu tầm</strong></em></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Thandieu2, post: 142979, member: 1323"] [CENTER][B] [SIZE=4][FONT=arial]Phân tích bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy [/FONT][/SIZE][/B][/CENTER] [FONT=arial] Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người. Khổ thơ mở đầu như [I]những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ[/I]: [I]“Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ” [/I] [I]Trăng gắn bó[/I] với tác giả ngay từ thời [I]thơ ấu[/I]. Trăng gắn với [I]đồng ruộng, dòng sông, biển cả[/I]. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến [I]khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương, vầng trăng mới thành “tri kỷ”[/I]. Trăng với tác giả là [I]đôi bạn[/I] không thể thiếu nhau, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ “hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ đã đi nhiều, trải nhiều... Qua những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác giả đã [I]diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng nội...[/I] Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng: [I]“Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”[/I] Trăng có vẻ [I]đẹp bình dị[/I] vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. [I]Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”... Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào:[/I] [I]“ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”[/I] Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với con người. [I]Trăng mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh sáng xuống vòm cây, soi tỏ những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những người lính ở rừng núi.[/I] Cái “tình nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên được. [I]Cách nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của tác giả đối với trăng biết nhường nào![/I] [I]Từ “ngỡ”[/I] ở đầu câu thơ thứ ba [I]như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự đoán và suy nghĩ ban đầu...[/I] Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã quên: [I]“Từ hồi về thanh phố …như người dưng qua đường” [/I] Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi [I]trường sống đã thay đổi[/I]. Tác giả về sống với thành phố. [I]Đời sống cũng thay đổi[/I] theo, [I]quen “ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng[/I]... dần dần “[I]cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên[/I]. Phải chăng “[I]vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian khổ[/I] ấy. [I]Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian khổ ấy[/I]. “[I]Trăng” bây giờ thành “người dưng[/I]”... [I]Hình ảnh nhân hóa[/I] ở đây thật sinh động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, [I]trăng vẫn gần gũi thân thương vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng.[/I].. Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con người thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”. [I]Khổ thơ[/I] này có [I]kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ[/I]. [I]Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc.[/I] Bài thơ được phát triển đến một [I]tứ thơ có chút kịch tính:[/I] [I]“Thình lình đèn điện tắt …đột ngột vầng trăng tròn” [/I] [I]Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ[/I]” lúc bấy giờ chỉ là [I]phản xạ hết sức tự nhiên của một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong[/I] [I]có được một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm[/I] hơn mà thôi. Nhưng may mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. [I]Trăng trở nên quý giá biết bao vào những khi mất điện[/I]. Và riêng tác giả, cái vầng trăng đột ngột hiện trên khoảng trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự cố vừa rồi, mà nó còn [I]làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ: [/I] “[I]Ngửa mặt lên nhìn mặt …như là sông, là rừng” [/I] Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng [I]đối xứng hai từ “mặt” rất hay. [/I]Đó là [I]nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng[/I]. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Từ gợi [I]tả “rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ[/I]... [I]Những kỉ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc:[/I] [I]“như là đồng là bể như là sông, là rừng”[/I] [I]Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng mạnh mẽ...[/I] Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời: [I] “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.” [/I] Hình ảnh [I]“vầng trăng[/I]” còn được nhà thơ nhìn lại [I]“tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết.[/I] Cái [I]ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ: [/I] [I]“ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” [/I] [I]Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối.[/I] Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người. Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc. Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và việc không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả. Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng” không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi! [I][B]Sưu tầm[/B][/I][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Ánh Trăng - Nguyễn Duy
Phân tích Ánh Trăng của Nguyễn Duy
Top