ngan trang
New member
- Xu
- 159
PHẢI CHĂNG “ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM LÀ MỘT SỰ ĂN MAY"
Ngô Hoàng - CĐGV
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam thì Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám là một sự kiện quan trọng của lịch sử dân tộc, nó diễn ra và thắng lợi hết sức nhanh chóng. Nó nhanh chóng đến mức nhiều người phải kinh ngạc! Nhà sử học Pháp Devillers có nói: Cách mạng thành công “Nhanh chóng đến mức làm cho người ta sững sờ” hay Stein Tonnesson cũng đã viết “Cuộc cách mạng đã thành công dễ dàng đến thế” và nhiều nhà sử học cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn may”. Đây là một quan điểm sai lầm, thiện cận mà chúng ta cần phải làm sáng tỏ bằng chính thực tiễn sinh động của cách mạng tháng Tám năm 1945.
Sở dĩ các sử gia tư sản cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn may” vì họ chỉ nhìn nhận một cách thiện cận, họ chỉ thấy rằng từ sau cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương (9/3/1945) thì Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng không còn là thuộc địa của Pháp mà là thuộc địa của Nhật, mà phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai đã bị quân Đồng Minh đánh cho tơi tả, phải chịu thất bại thảm hại và phải tuyên bố đầu hàng. Như vậy ở Đông Dương xuất hiện “khoảng trống quyền lực” ( Pháp đã bị Nhật đánh bại, Nhật bị Đồng Minh đánh bại ), cho nên cách mạng tháng Tám chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi. Chính vì cách nhìn nhận như vậy mà người ta cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn may”. Nhưng thực ra cách mạng tháng Tám ở Việt Nam không hoàn toàn giống như những gì họ nhìn nhận.
Phát xít Nhật đã bị Đồng Minh và Liên Xô đánh bại, điều này chỉ tạo ra điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng Việt Nam mà thôi, bởi vì nhìn về toàn thể thì phát xít Nhật bị đánh bại nhưng ở Việt Nam thì lực lượng của Nhật còn rất mạnh vì chúng vừa mới tăng cường vào đầu năm 1945 và hơn nữa chúng xác định Việt Nam là đầu cầu liên lạc cuối cùng của Nhật đối với vùng Đông Nam Á cho nên chúng kiên quyết giữ lấy. Do vậy việc Liên Xô và Đồng Minh đánh bại phát xít Nhật chỉ làm cho tinh thần lính Nhật ở Đông Dương bị sa sút thôi chứ sức mạnh quân sự của chúng còn rất mạnh.
Tuy nhiên ta cũng phải thừa nhận việc Liên Xô và Đồng Minh đánh bại phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo điều kiện khách quan rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Nhưng để cách mạng tháng Tám nổ ra và thắng lợi thì ngoài yếu tố khách quan đóng vai trò quan trọng thì cần có hai điều kiện chủ quan đóng vai trò quyết định là quá trình chuẩn bị trực tiếp lâu dài, chu đáo của toàn Đảng, toàn dân ta và việc dự đoán thời cơ chính xác, chớp thời cơ kịp thời để phát động Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Đảng ta đã chuẩn bị trực tiếp cho cách mạng tháng Tám ngay từ năm 1939, đó là chúng ta đã có sự chuẩn bị về đường lối, chuẩn bị căn cứ địa và chuẩn bị lực lượng cách mạng.
Đảng ta đã đề ra đường lối ngay trong Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VI(11/1939) và phát triển trong Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VII(1940) và hoàn chỉnh trong Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VIII(5/1941), đó là đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu và đưa vấn đề khởi nghĩa vũ trang lên bàn nghị sự. Hội nghị xác định khởi nghĩa vũ trang là con đường duy nhất của cách mạng Việt Nam và đề ra hình thái vận động cách mạng là đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhấn mạnh: “Chúng ta phải tích cực chuẩn bị lực lượng, để nay mai đây khi cuộc chiến tranh châu Á – Thái Bình Dương và cuộc chiến tranh chống Nhật của nhân dân Trung Quốc thắng lợi, thì với lực lượng hiện có chúng ta có thể tiến hành khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương giành thắng lợi, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước”. Như vậy Đảng đã đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Sự đúng đắn này đã được thực tiễn cách mạng tháng Tám khẳng định.
Đảng ta đã nhận thấy tầm quan trọng, vai trò của căn cứ địa cách mạng: Đó là nơi đóng quân của lực lượng cách mạng, là nơi đánh địch, là nơi rút lui để bảo vệ mặt trận và là nơi cung cấp người và của cho cách mạng. Đảng ta kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc trong việc xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong lịch sử cha ông ta đã từng xây dựng căn cứ địa cách mạng như căn cứ địa Lạng Sơn (khởi nghĩa Lạng Sơn), Tây Sơn(phong trào nông dân Tây Sơn), Hố Chuối (khởi nghĩa Yên Thế), cha ông ta xây dựng căn cứ địa dựa trên ba yếu tố là thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Tuy nhiên trong giai đoạn này Đảng ta xây dựng căn cứ địa ngoài việc đảm bảo ba yếu tố trên đây thì cần đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc.
Thực hiện chủ trương đó, chúng ta đã xúc tiến xây dựng các căn cứ địa cách mạng như căn cứ địa Bắc Sơn, căn cứ địa Cao Bằng. Trên cơ sở phát triển của cách mạng chúng ta đã xây dựng được 7 căn cứ địa cách mạng như: Căn cứ địa Hoàng Hoa Thám, Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trưng Trắc, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng. Đặc biệt là xây dựng căn cứ địa Việt Bắc(4/6/1945) thành căn cứ địa hoàn chỉnh, là “hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam”.
Đảng ta quan tâm trong việc xây dựng lực lượng cách mạng. Đảng ta đã chủ trương xây dựng lực lượng gắn liền với xây dựng căn cứ địa, từ việc xây dựng căn cứ địa chúng ta tiến hành xây dựng lực lượng chính trị rồi phát triển xây dựng lực lượng bán vũ trang quần chúng rồi từ đó xây dựng lực lượng vũ trang cho cách mạng. Trong thực tế, chúng ta đã xây dựng được lực lượng quần chúng đông đảo tham gia vào các Hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Trong xây dựng lực lượng vũ trang, chúng ta đã xây dựng được hai bộ phận: Lực lượng bán vũ trang của quần chúng và lực lượng vũ trang tập trung. Thực tế ta đã xây dựng được 3 trung đội cứu quốc quân: Trung đội cứu quốc quân I(2/1941), Trung đội cứu quốc quân II(9/1941), Trung đội cứu quốc quân III(2/1944) và đến ngày 15/5/1945 Việt Nam Giải phóng quân ra đời.
Về vấn đề thời cơ và chớp thời cơ có kịp thời đòi hỏi sự nhạy bén của Đảng ta. Thời cơ trong cách mạng tháng Tám là thời cơ “ngàn năm có một” nghĩa là chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn từ khi Nhật đầu hàng Đồng Minh đến khi quân Đồng Minh vào nước ta. Vì vậy vấn đề nhận định thời cơ và chớp lấy thời cơ là vấn đề cực kì quan trọng, nếu không nhận định đúng và chớp thời cơ nhanh chóng thì thời cơ sẽ trôi qua khi đó cách mạng nổ ra khó mà thắng lợi được. Do vậy vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng Tám là sự thể hiện tài tình của Đảng.
Với đòn đánh quyết định của Hồng Quân Liên Xô vào đội quân Quan Đông của Nhật đã làm cho quân Nhật bị thất bại thảm hại và đến ngày 15/8/1945 Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện. Ở Việt Nam bọn tay sai của chúng là chính phủ Trần Trọng Kim cũng đã hoang mang đến cực độ.
Trong những ngày sôi động của cách mạng tháng Tám, Bác Hồ lại ốm nặng nhưng người vẫn theo dõi sát tình hình, Bác nói “đây là một thời cơ quý và hiếm nếu bỏ qua thì không bao giờ có nữa”, Bác ra lời kêu gọi “dù thiêu cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”.
Với chủ trương đó của Đảng và Bác Hồ cùng với sự chuẩn bị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cách mạng tháng Tám đã nổ ra và giành thắng lợi nhanh chóng.
Có thể khẳng định rằng, cách mạng tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi nhanh chóng đó là nhờ sự tài tình của Đảng và Bác Hồ trong nghệ thuật chỉ đạo và lãnh đạo cách mạng. Đó là sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, căn cứ địa, lực lượng cách mạng và việc dự đoán thời cơ, chớp lấy thời cơ...Tất cả những luận chứng khoa học trên đây cùng với thực tiễn diễn ra sinh động của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 cho thấy “Cách mạng tháng Tám không phải là một sự ăn may” như các sử gia tư sản đã nói.
Ngô Hoàng - CĐGV
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam thì Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám là một sự kiện quan trọng của lịch sử dân tộc, nó diễn ra và thắng lợi hết sức nhanh chóng. Nó nhanh chóng đến mức nhiều người phải kinh ngạc! Nhà sử học Pháp Devillers có nói: Cách mạng thành công “Nhanh chóng đến mức làm cho người ta sững sờ” hay Stein Tonnesson cũng đã viết “Cuộc cách mạng đã thành công dễ dàng đến thế” và nhiều nhà sử học cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn may”. Đây là một quan điểm sai lầm, thiện cận mà chúng ta cần phải làm sáng tỏ bằng chính thực tiễn sinh động của cách mạng tháng Tám năm 1945.
Sở dĩ các sử gia tư sản cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn may” vì họ chỉ nhìn nhận một cách thiện cận, họ chỉ thấy rằng từ sau cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương (9/3/1945) thì Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng không còn là thuộc địa của Pháp mà là thuộc địa của Nhật, mà phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai đã bị quân Đồng Minh đánh cho tơi tả, phải chịu thất bại thảm hại và phải tuyên bố đầu hàng. Như vậy ở Đông Dương xuất hiện “khoảng trống quyền lực” ( Pháp đã bị Nhật đánh bại, Nhật bị Đồng Minh đánh bại ), cho nên cách mạng tháng Tám chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi. Chính vì cách nhìn nhận như vậy mà người ta cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn may”. Nhưng thực ra cách mạng tháng Tám ở Việt Nam không hoàn toàn giống như những gì họ nhìn nhận.
Phát xít Nhật đã bị Đồng Minh và Liên Xô đánh bại, điều này chỉ tạo ra điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng Việt Nam mà thôi, bởi vì nhìn về toàn thể thì phát xít Nhật bị đánh bại nhưng ở Việt Nam thì lực lượng của Nhật còn rất mạnh vì chúng vừa mới tăng cường vào đầu năm 1945 và hơn nữa chúng xác định Việt Nam là đầu cầu liên lạc cuối cùng của Nhật đối với vùng Đông Nam Á cho nên chúng kiên quyết giữ lấy. Do vậy việc Liên Xô và Đồng Minh đánh bại phát xít Nhật chỉ làm cho tinh thần lính Nhật ở Đông Dương bị sa sút thôi chứ sức mạnh quân sự của chúng còn rất mạnh.
Tuy nhiên ta cũng phải thừa nhận việc Liên Xô và Đồng Minh đánh bại phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo điều kiện khách quan rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Nhưng để cách mạng tháng Tám nổ ra và thắng lợi thì ngoài yếu tố khách quan đóng vai trò quan trọng thì cần có hai điều kiện chủ quan đóng vai trò quyết định là quá trình chuẩn bị trực tiếp lâu dài, chu đáo của toàn Đảng, toàn dân ta và việc dự đoán thời cơ chính xác, chớp thời cơ kịp thời để phát động Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Đảng ta đã chuẩn bị trực tiếp cho cách mạng tháng Tám ngay từ năm 1939, đó là chúng ta đã có sự chuẩn bị về đường lối, chuẩn bị căn cứ địa và chuẩn bị lực lượng cách mạng.
Đảng ta đã đề ra đường lối ngay trong Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VI(11/1939) và phát triển trong Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VII(1940) và hoàn chỉnh trong Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VIII(5/1941), đó là đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu và đưa vấn đề khởi nghĩa vũ trang lên bàn nghị sự. Hội nghị xác định khởi nghĩa vũ trang là con đường duy nhất của cách mạng Việt Nam và đề ra hình thái vận động cách mạng là đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhấn mạnh: “Chúng ta phải tích cực chuẩn bị lực lượng, để nay mai đây khi cuộc chiến tranh châu Á – Thái Bình Dương và cuộc chiến tranh chống Nhật của nhân dân Trung Quốc thắng lợi, thì với lực lượng hiện có chúng ta có thể tiến hành khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương giành thắng lợi, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước”. Như vậy Đảng đã đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Sự đúng đắn này đã được thực tiễn cách mạng tháng Tám khẳng định.
Đảng ta đã nhận thấy tầm quan trọng, vai trò của căn cứ địa cách mạng: Đó là nơi đóng quân của lực lượng cách mạng, là nơi đánh địch, là nơi rút lui để bảo vệ mặt trận và là nơi cung cấp người và của cho cách mạng. Đảng ta kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc trong việc xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong lịch sử cha ông ta đã từng xây dựng căn cứ địa cách mạng như căn cứ địa Lạng Sơn (khởi nghĩa Lạng Sơn), Tây Sơn(phong trào nông dân Tây Sơn), Hố Chuối (khởi nghĩa Yên Thế), cha ông ta xây dựng căn cứ địa dựa trên ba yếu tố là thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Tuy nhiên trong giai đoạn này Đảng ta xây dựng căn cứ địa ngoài việc đảm bảo ba yếu tố trên đây thì cần đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc.
Thực hiện chủ trương đó, chúng ta đã xúc tiến xây dựng các căn cứ địa cách mạng như căn cứ địa Bắc Sơn, căn cứ địa Cao Bằng. Trên cơ sở phát triển của cách mạng chúng ta đã xây dựng được 7 căn cứ địa cách mạng như: Căn cứ địa Hoàng Hoa Thám, Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trưng Trắc, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng. Đặc biệt là xây dựng căn cứ địa Việt Bắc(4/6/1945) thành căn cứ địa hoàn chỉnh, là “hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam”.
Đảng ta quan tâm trong việc xây dựng lực lượng cách mạng. Đảng ta đã chủ trương xây dựng lực lượng gắn liền với xây dựng căn cứ địa, từ việc xây dựng căn cứ địa chúng ta tiến hành xây dựng lực lượng chính trị rồi phát triển xây dựng lực lượng bán vũ trang quần chúng rồi từ đó xây dựng lực lượng vũ trang cho cách mạng. Trong thực tế, chúng ta đã xây dựng được lực lượng quần chúng đông đảo tham gia vào các Hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Trong xây dựng lực lượng vũ trang, chúng ta đã xây dựng được hai bộ phận: Lực lượng bán vũ trang của quần chúng và lực lượng vũ trang tập trung. Thực tế ta đã xây dựng được 3 trung đội cứu quốc quân: Trung đội cứu quốc quân I(2/1941), Trung đội cứu quốc quân II(9/1941), Trung đội cứu quốc quân III(2/1944) và đến ngày 15/5/1945 Việt Nam Giải phóng quân ra đời.
Về vấn đề thời cơ và chớp thời cơ có kịp thời đòi hỏi sự nhạy bén của Đảng ta. Thời cơ trong cách mạng tháng Tám là thời cơ “ngàn năm có một” nghĩa là chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn từ khi Nhật đầu hàng Đồng Minh đến khi quân Đồng Minh vào nước ta. Vì vậy vấn đề nhận định thời cơ và chớp lấy thời cơ là vấn đề cực kì quan trọng, nếu không nhận định đúng và chớp thời cơ nhanh chóng thì thời cơ sẽ trôi qua khi đó cách mạng nổ ra khó mà thắng lợi được. Do vậy vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng Tám là sự thể hiện tài tình của Đảng.
Với đòn đánh quyết định của Hồng Quân Liên Xô vào đội quân Quan Đông của Nhật đã làm cho quân Nhật bị thất bại thảm hại và đến ngày 15/8/1945 Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện. Ở Việt Nam bọn tay sai của chúng là chính phủ Trần Trọng Kim cũng đã hoang mang đến cực độ.
Trong những ngày sôi động của cách mạng tháng Tám, Bác Hồ lại ốm nặng nhưng người vẫn theo dõi sát tình hình, Bác nói “đây là một thời cơ quý và hiếm nếu bỏ qua thì không bao giờ có nữa”, Bác ra lời kêu gọi “dù thiêu cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”.
Với chủ trương đó của Đảng và Bác Hồ cùng với sự chuẩn bị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cách mạng tháng Tám đã nổ ra và giành thắng lợi nhanh chóng.
Có thể khẳng định rằng, cách mạng tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi nhanh chóng đó là nhờ sự tài tình của Đảng và Bác Hồ trong nghệ thuật chỉ đạo và lãnh đạo cách mạng. Đó là sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, căn cứ địa, lực lượng cách mạng và việc dự đoán thời cơ, chớp lấy thời cơ...Tất cả những luận chứng khoa học trên đây cùng với thực tiễn diễn ra sinh động của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 cho thấy “Cách mạng tháng Tám không phải là một sự ăn may” như các sử gia tư sản đã nói.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: