Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Đề thi, ôn tập vào 10
Ôn thi vào lớp 10 phần tác giả, tác phẩm
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 26280" data-attributes="member: 699"><p><strong><p style="text-align: center"><span style="color: Blue">Bài 9: "Con cò" - Chế Lan Viên </span></p></strong></p><p style="text-align: center"><strong><span style="color: Blue"></span></p><p></strong><strong>1. Tác giả:</strong></p><p></p><p> Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ - Quảng trị. Trước CM tháng 8, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới qua tập Điêu tàn, Chế Lan Viên đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của văn học kháng chiến, ông là một trong những tên tuổi hành đầu ở nền thơ Viết Nam thế kỉ XX .</p><p> </p><p> "17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế lan Viên đã làm nên "một niềm tin kinh dị "trên thi đài của Việt Nam đầu thế kỉ. Bộc lộ bằng một cảm xúc khác thường, quay lưng lại với thực lại hiện hữu: "hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh - Một vì sao trơ trọi cuối trời xa - Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh - những ưu phiền đau khổ với buồn lo". Chế Lan Viên tìm về quá khứ của dân tộc Chăm cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình về hiện thực của dân tộc.</p><p> </p><p>Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên giao thao trên những nội buồn, giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại của chính mình. Khi những quan điểm Điêu tàn đến Vàng sao đã không còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ còn một cách lựa chọn là hướng cảm xúc của chủ thể sáng tạo và yêu cầu mới, Chế Lan Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo sau CM tháng 8 1945.</p><p> </p><p> Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp Chế </p><p>Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiện thực cách mạng. Những ở đây, con người công dân và con người nghệ sĩ vẫn chưa gặp nhau, bản sắc thi sĩ chưa kịp định hình. Chỉ đến ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên mới thực sự "từ thung lũng đau thương đến cánh đông vui", làm nên một gương mặt thi nhân tài hoa vào độc đáo trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ đây cho những bài thơ cuối đời, cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên luôn vận động vào phát triển, thống nhất trong đa dạng. Thơ Chế Lan Viên đã tạo được một sức mạnh ám ảnh đối với người đọc trên cả hai phương diện cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cáh mạng, phục vụ cuộc sống bằng thi ca, thơ Chế lan Viên đã muốn là tiếng nói thi ca lịc sử đất nước trong thời đại mới. Trong những cảm hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả chim báo bão, có cả hai ngày thường, có đối thoại mới lẫn độc thoại với chính mình.</p><p> </p><p>Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt Nam. Ông đã làm một cuộc cách mạng về câu thơ, dòng thơ, khuôn khổ, phạm vi câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câu thơ dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối lập nhằm biểu đạt ý tưởng lớn của bài thơ. Chế lan Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở chiều sâu, ở tần triết lí, có sự gặp gỡ của hai nền thơ ca phương Tây và phương Đông.Chế Lan Viên còn là một trong số những nhà thơ hiếm hoi là thơ tứ tuyệt thành công nhất trong thơ ca Việt Nam hiên đại, kết hợp hài hòa giữa cái đẹp truyền thống và hiện đại" (từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường,sdd)</p><p> </p><p> Các tác phẩm chính: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường,Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăng Người (1976); Hái theo mùa (1977); HoaTrên đáTuyển tập Chế Lan Viên (hai tập 1985); Di cảo I (1994); Di cảo II (1995). Về văn xuôi có các tập ký: Thăm Trung Quốc (1963); Những ngày nổi giận (1966); Giờ của số thành (1977); Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình Văn học (1962); Vào nghề (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê văn đến quán trung tân ( 1981); ...</p><p> </p><p> Tác giả đã nhận được huân chương độc lập hạng 2 (năm 1988) Giả thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996); Giải A giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1985( Tâp thơ Hoa trên đá ); Giải thưởng hội nhà Văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo II ).</p><p></p><p><strong>2. Tác phẩm : </strong></p><p></p><p> Bài thơ Con cò được rút trong tập Hoa ngày thường ,Chim báo bão (1967). thông qua hình tượng con cò- một hình ảnh quên thuộc của những lời hát ru trong ca dao - tác giả muốn đề cao ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và muốn khẳng định ý nghĩa lời ru đối vơí cuộc đời mỗi con người.</p><p></p><p style="text-align: center">*** </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">Bài 10: "Mùa xuân nho nhỏ"- Thanh Hải </span></strong></p><p></p><p><strong>1. Tác giả :</strong></p><p></p><p> Nhà thơ Thanh Hải (1930 - 1980) quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mĩ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở mirnf Nam thời kì đầu.</p><p></p><p> Các tác phẩm chính: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (tập 1, 1970; tập 2, 1975); Dấu võng Trường Sơn (1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh Hải thơ tuyển tập (1982);...</p><p></p><p><strong>2. Tác phẩm:</strong></p><p> </p><p>Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ thể hiện niềm yêu mến thiết thavới cuộc sống, với đất nướcvà ước nguyện chân thành của tác giả về một cuộc sống hàng ngày càng tươi đẹp hơn.</p><p></p><p></p><p style="text-align: center">***</p><p></p><p><strong><p style="text-align: center"><span style="color: Blue">Bài 11: "Viếng lăng Bác"- Viễn Phương </span></p></strong></p><p style="text-align: center"><strong><span style="color: Blue"></span></p><p></strong><strong>1. Tác giả:</strong></p><p> </p><p> Nhà thơ Viễn Phương sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút ccó mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ Giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Viễn Phương còn nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, khá quen thuộc với bạn đọc thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ.</p><p> </p><p> Các tác phẩm chính: Chiến thắng Hòa Bình (trường ca, 1953); Anh hùng mìn gạt (tập truyện kí, 1968); Mắt sáng học trò (tập thơ, 1970); Lời di chúc </p><p>(trường ca, 1972); Như mây màu xuân (tập thơ, 1978); Sắc lụa Trữ la (tập truyện, 1988); Phù sa quê mẹ (tập thơ, 1991); Quê hương địa đạo (tập truyên và kí);...</p><p> </p><p>Tác giả đã được nhận: Giải Nhì Giải thưởng Cửu Long Nam Bộ (1954); Giải Nhì Cuộc thi viết cho thiếu nhi do Mặt trận tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức; Giải thưởng Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh; Tăng thưởng ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nam.</p><p></p><p><strong>2. Tác phẩm:</strong></p><p> </p><p>- Bài thơ Viếng lăng Bác được viết khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng xong, đất nước thống nhất, đồng bào miền Nam đã có thể thực hiện được mong ước ra viếng Bác. Trong niềm xúc động vô bờ của đoàn người vào lăng viếng Bác, Viễn Phương đã viết bài thơ này.</p><p></p><p></p><p style="text-align: center">*** </p><p></p><p><strong><p style="text-align: center"><span style="color: Blue">Bài 12: "Sang thu"- Hữu Thỉnh </span></p><p></strong></p><p><strong>1. Tác giả:</strong></p><p> </p><p> Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở huyên Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho </p><p>học. Đã trải qua tuổi ấu thơ không dễ dàng, chỉ thực sự được đi học từ sau hòa bình lập lại(1954). Tốt nghiệp phổ thông (1963), sau đó vào bộ đội Tăng - thiết giáp và nhiều năm tham gia chiến đấu tại các chiến trường Đường 8- Nam Lào (1970-1971) , Quảng Trị (1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh.</p><p> </p><p> Năm 1981, sau khi tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du( khóa 1), Hữu Thỉnh về làm phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. ông được bầu vào Ban Chấp hành Hội nhà Văn Việt Nam từ khóa III(1983) đến nay. Hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Phó Chủ t5ịch Hội liên hiệpVăn học - Nghệ thuậtViệt Nam, đại biểu Quốc hội khóa X, XI.</p><p> </p><p> "Trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính, sống thậy sự cuộc sóng của mình giữa lòng cuộc chiến đấu của dân tộc, Hình tượng người lính và hiện thực lớn lao, sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các tập thơ của Hữu Thỉnh. Ngay ở tập thơ âm vang chiến hào, Hữu Thỉnh đã có một giọng điệu riêng chân thật trong cảm xúc, tinh tế và có nhiều tìm tòi trong cách biểu hiện. Sức bền của đất, Trên một chiếc xe tăng và Chuyến đò đêm giáp ranh là những bài thơ được nhiều người biết tiếng. Một trong những đặc điểm đưa đến sự thành công trong thơ Hữu Thỉnh là sự vận dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt những câu tục ngữ , ca dao dân gian. Nét đặc trưng này cũng là một điểm mạnh và là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ Hữu Thỉnh làm nên nét đặc sắc cho thơ ông. Trường ca Đường tới thành phố đời đã thực sự đánh dấu một giai đoạn trưởng thành của thơ Hữu Thỉnh. Hiện thực của mỗi thời chiến trận đã được thể hiện với một quy môvà chiều dày hơn hẳn những tác phẩm ở những giai đoạn trước. Bằng những hình tượng tiêu biểu đầy cảm xúc, chặng đường dẫn đến chiền thắng của dân tộc được miêu tả và lí giải hợp lí, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, trong đó có khá nhiều những câu thơ tài hoa xúc động. Trường ca Biển viết về đảo Trường Sa là một cuộc đối thoại khôn cùng giữa con người và biển cả. Nhiều suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu sắcvề cuộc đời đã được thể hiện trong đó. Trước đây những câu thơ hay của Hữu Thỉnh thiên về cảm. Bây giờ câu thơ của ông đậm màu triết luận, có sức nặng của suy nghĩ và chiêm nghiệm. Chất lượng thơ Hữu Thỉnh thể hiện một quá trình phấn đấu không ngừng. Tập Thư mùa đông là một nỗ lực tự vươn lên mình của ông"(từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường Sđđ)</p><p></p><p>Các tác phẩm chính: âm vang chiến hào (in chung 1975); Đường tới thành </p><p>phố (trường ca, 1979); Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung); Thư mùa </p><p>đông (1984) ; Trường ca Biển (1984); Từ chiến hào đến thành phố (1985);..</p><p> </p><p> Tác giả đã được nhận : Giải nhất cuộc thi thơ báoVăn nghệ(1976), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam(1980,1995); Giải thưởng văn học ASEAN</p><p>(1999); Giải thưởng Nhà nước (2001);...</p><p> </p><p> Hữu Thỉnh có nhiều bài thơ hay về con người và cuộc sống nông thôn.</p><p><strong></strong></p><p><strong>2. Tác phẩm:</strong></p><p> </p><p> Bài thơ Sang thu được tác giả sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước biến thái của thiên nhiên từ hạ sang thu.</p><p></p><p style="text-align: center">*** </p><p></p><p><strong><p style="text-align: center"><span style="color: Blue">Bài 13: "Nói với con"- Y Phương </span></p><p></strong></p><p><strong>1. Tác giả: </strong></p><p></p><p> Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, tại xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, hiện ở Hà Nội. Ông là Hội viên hộI Nhà văn Việt Nam(1988).</p><p> </p><p>Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn hóa-Thông tin Cao Bằng.</p><p> </p><p>Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩmđan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong có màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nết độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt nam nói chung, có thêm một giọng điệu mới, một phong cach mới. (Từ điển tác giá tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường).</p><p> </p><p>Các tác phẩm chính: Người hoa núi(kịch bản sân khấu, 1982);Tiếng hát tháng giêng(thơ, 1986); Lửa hồng một góc( thơ in chung, 1987);Lời chúc </p><p>(thơ,1991); Đàn then (thơ, 1996)....</p><p> </p><p> Tác giả đã nhận được: giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân dội; Giải thưởng loại A Giải thưởng văn học 1987 của hội nhà văn Việt Nam....</p><p></p><p><strong>2. Tác phẩm:</strong> </p><p> </p><p>Về hoàn cảnh ra đời bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương cho biết: </p><p></p><p> Những năm cuối bảy mươi đầu tám mươi của thế kỉ XX , đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân ta cả nước nói chung, nhân đan cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cục kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượi qua để duy trì đời sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lượng siêu nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời mà ông cha ta để lại.</p><p></p><p>Cuối năm 1975, tôi cũng mới từ mắt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa </p><p>nhà nay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của </p><p>toàn xã hội. Nhìn cách con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà lòng xót đau khôn tả. Bởi chúng tôi cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hoá khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị tha hóa biến chất. Họ buôn bán lận, lợi dụng khẽ hở của nhà nước móc lối làm ăn phi pháp. ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới thời ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước ngoài.</p><p> </p><p>Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này.” </p><p></p><p style="text-align: center">*** </p><p></p><p><strong><p style="text-align: center"><span style="color: Blue">Bài 14: "Bến quê"- Nguyễn Minh Châu </span></p><p></strong></p><p><strong>1.Tác giả:</strong></p><p> </p><p> - Nhà văn Nguyễn Minh Châu ( 1930- 1989) sinh tại làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là hội viên hội nhà văn Việt Nam (1972).</p><p> </p><p> - Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú và có những thành công đáng trân trọng. Chỉ riêng về lĩnh vực sáng tac, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành đề tài tìm hiểu của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những chuyên luận khoa học trong và ngoài nước. Đọc lại những trang viết cảu ông, đọc lại những bài viết về ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và sự nghiệp vă học của Nguyễn Minh Châu còn tiềm ẩn nhiều vấn, nhiều ngợi ý có khả năng hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận mới.” (Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Minh Châu- về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục 2001).</p><p> </p><p> Các tác phẩm chính : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) ; Những vùng trời khác nhau ( Tập truyện ngắn, 1970) ; Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) ; Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974) ; Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) ; Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết,1977) ; Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981); Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) ; Người đàn bà trên chiến tàu tốc hành ( Tập truyện ngắn, 1983) ; Đảo đá kì lạ ( 1985) ; Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) ; Chiếc thuyền ngoài xa ( Tập truyện ngắn, 1987) ; Cỏ lau ( Tập truyện vừa, 1989) ; Trang giấy chiếc đèn ( tiểu luận phê bình, 1994) ; ...</p><p> </p><p>Tác giả đã được nhận : Giải thưởng bộ quốc phòng ( 1984, 1989) ; Giải thưởng hội nhà văn Việt Nam ( 1988, 1989) ; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật ( 2000) .</p><p></p><p><strong>2. Tác phẩm:</strong></p><p></p><p> Truyện ngắn Bến Quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh </p><p>Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày với những xhi tiết sinh hoạt đời để phát hiện được chiều sâu của cuộc sống với bao quy luật và nghịch lý, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả. </p><p></p><p></p><p style="text-align: center">*** </p><p></p><p><strong><p style="text-align: center"><span style="color: Blue">Bài 15: "Những ngôi sao xa xôi"- Lê Minh Khuê</span></p><p></strong></p><p><strong>1.Tác giả :</strong></p><p> </p><p>Nhà văn Lê Minh Khuê sinh năm 1949 tại xã An Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa ; Hội viên hội nhà văn Việt Nam ( 1980). </p><p> </p><p> Tốt nghiệp phổ thông trung học, Lê Minh Khuê tham gia đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước. Những năm tháng vất vả gian nan mà hào hùng ở ngoài tuyến lửa đã tạo cảm hứng chính những sáng tác của chị sau này. Năm 1969 , chị là phóng viên Tiền phong. Năm 19723- 1977, phóng viên đài phát thanh Giải phóng và sau đó là đài truyền hình Việt Nam.Từ 1978 đến nay, nhà văn Lê Minh Khuê là biên tập viên nhà xuất bản Hội Nhà văn.</p><p></p><p>Là nhà văn sở trường về truyện ngắn, từ sau năm 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê đã bám sát những biến chuyển của đời sống, đề cập đến nhiếu vấn đề bức xúc của xã hội thời điểm mới. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Lê Minh Khuê khá sắc sảo, nhất là khi miêu tả tâm lí phụ nữ.</p><p></p><p>Các tác phẩm chính: Cao điểm mùa hạ ( 1978) ; Đoàn kết (1980) ; Thiếu nữ mặc áo dài xanh (1984) ; Một chiều xa thành phố (1987) ; Em đã không quên (1990) ; Bi khịch nhỏ (1993) ; Trong làn gió heo may (1998) ; ...</p><p> </p><p> Tác giả đã được nhận: Giải thưởng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 ( tập truyện ngắn: Mội chiều xa thành phố). </p><p></p><p><strong>2. Tác phẩm:</strong></p><p> </p><p>Truyện Những ngôi sao xa xôi viết về ba cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ phá bom ở một cao điểm trong thời kì cuộc chiền tranh trống đế quốc Mĩ đang diễm ra khốc liệt. Miêu tả các cô gắi hằng ngày, hằng giờ đối mặt với nguy hiểm nhưng hấ dẫn của truyện không phải ở những chi tiết, sự kiện hòi hộp, nóng bỏng mà ở khả năng miêu tả đời sống tâm hồn con người khá sinh động, sâu sắc của tác giả.</p><p></p><p><em><strong><p style="text-align: right">(Sưu tầm)</p><p></strong></em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 26280, member: 699"] [B][CENTER][COLOR="Blue"]Bài 9: "Con cò" - Chế Lan Viên [/COLOR][/CENTER][/B] [B]1. Tác giả:[/B] Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ - Quảng trị. Trước CM tháng 8, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới qua tập Điêu tàn, Chế Lan Viên đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của văn học kháng chiến, ông là một trong những tên tuổi hành đầu ở nền thơ Viết Nam thế kỉ XX . "17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế lan Viên đã làm nên "một niềm tin kinh dị "trên thi đài của Việt Nam đầu thế kỉ. Bộc lộ bằng một cảm xúc khác thường, quay lưng lại với thực lại hiện hữu: "hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh - Một vì sao trơ trọi cuối trời xa - Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh - những ưu phiền đau khổ với buồn lo". Chế Lan Viên tìm về quá khứ của dân tộc Chăm cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình về hiện thực của dân tộc. Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên giao thao trên những nội buồn, giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại của chính mình. Khi những quan điểm Điêu tàn đến Vàng sao đã không còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ còn một cách lựa chọn là hướng cảm xúc của chủ thể sáng tạo và yêu cầu mới, Chế Lan Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo sau CM tháng 8 1945. Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp Chế Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiện thực cách mạng. Những ở đây, con người công dân và con người nghệ sĩ vẫn chưa gặp nhau, bản sắc thi sĩ chưa kịp định hình. Chỉ đến ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên mới thực sự "từ thung lũng đau thương đến cánh đông vui", làm nên một gương mặt thi nhân tài hoa vào độc đáo trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ đây cho những bài thơ cuối đời, cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên luôn vận động vào phát triển, thống nhất trong đa dạng. Thơ Chế Lan Viên đã tạo được một sức mạnh ám ảnh đối với người đọc trên cả hai phương diện cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cáh mạng, phục vụ cuộc sống bằng thi ca, thơ Chế lan Viên đã muốn là tiếng nói thi ca lịc sử đất nước trong thời đại mới. Trong những cảm hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả chim báo bão, có cả hai ngày thường, có đối thoại mới lẫn độc thoại với chính mình. Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt Nam. Ông đã làm một cuộc cách mạng về câu thơ, dòng thơ, khuôn khổ, phạm vi câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câu thơ dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối lập nhằm biểu đạt ý tưởng lớn của bài thơ. Chế lan Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở chiều sâu, ở tần triết lí, có sự gặp gỡ của hai nền thơ ca phương Tây và phương Đông.Chế Lan Viên còn là một trong số những nhà thơ hiếm hoi là thơ tứ tuyệt thành công nhất trong thơ ca Việt Nam hiên đại, kết hợp hài hòa giữa cái đẹp truyền thống và hiện đại" (từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường,sdd) Các tác phẩm chính: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường,Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăng Người (1976); Hái theo mùa (1977); HoaTrên đáTuyển tập Chế Lan Viên (hai tập 1985); Di cảo I (1994); Di cảo II (1995). Về văn xuôi có các tập ký: Thăm Trung Quốc (1963); Những ngày nổi giận (1966); Giờ của số thành (1977); Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình Văn học (1962); Vào nghề (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê văn đến quán trung tân ( 1981); ... Tác giả đã nhận được huân chương độc lập hạng 2 (năm 1988) Giả thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996); Giải A giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1985( Tâp thơ Hoa trên đá ); Giải thưởng hội nhà Văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo II ). [B]2. Tác phẩm : [/B] Bài thơ Con cò được rút trong tập Hoa ngày thường ,Chim báo bão (1967). thông qua hình tượng con cò- một hình ảnh quên thuộc của những lời hát ru trong ca dao - tác giả muốn đề cao ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và muốn khẳng định ý nghĩa lời ru đối vơí cuộc đời mỗi con người. [CENTER]*** [/CENTER] [B][COLOR="Blue"]Bài 10: "Mùa xuân nho nhỏ"- Thanh Hải [/COLOR][/B] [B]1. Tác giả :[/B] Nhà thơ Thanh Hải (1930 - 1980) quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mĩ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở mirnf Nam thời kì đầu. Các tác phẩm chính: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (tập 1, 1970; tập 2, 1975); Dấu võng Trường Sơn (1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh Hải thơ tuyển tập (1982);... [B]2. Tác phẩm:[/B] Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ thể hiện niềm yêu mến thiết thavới cuộc sống, với đất nướcvà ước nguyện chân thành của tác giả về một cuộc sống hàng ngày càng tươi đẹp hơn. [CENTER]***[/CENTER] [B][CENTER][COLOR="Blue"]Bài 11: "Viếng lăng Bác"- Viễn Phương [/COLOR][/CENTER][/B] [B]1. Tác giả:[/B] Nhà thơ Viễn Phương sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút ccó mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ Giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Viễn Phương còn nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, khá quen thuộc với bạn đọc thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Các tác phẩm chính: Chiến thắng Hòa Bình (trường ca, 1953); Anh hùng mìn gạt (tập truyện kí, 1968); Mắt sáng học trò (tập thơ, 1970); Lời di chúc (trường ca, 1972); Như mây màu xuân (tập thơ, 1978); Sắc lụa Trữ la (tập truyện, 1988); Phù sa quê mẹ (tập thơ, 1991); Quê hương địa đạo (tập truyên và kí);... Tác giả đã được nhận: Giải Nhì Giải thưởng Cửu Long Nam Bộ (1954); Giải Nhì Cuộc thi viết cho thiếu nhi do Mặt trận tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức; Giải thưởng Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh; Tăng thưởng ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nam. [B]2. Tác phẩm:[/B] - Bài thơ Viếng lăng Bác được viết khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng xong, đất nước thống nhất, đồng bào miền Nam đã có thể thực hiện được mong ước ra viếng Bác. Trong niềm xúc động vô bờ của đoàn người vào lăng viếng Bác, Viễn Phương đã viết bài thơ này. [CENTER]*** [/CENTER] [B][CENTER][COLOR="Blue"]Bài 12: "Sang thu"- Hữu Thỉnh [/COLOR][/CENTER][/B] [B]1. Tác giả:[/B] Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở huyên Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học. Đã trải qua tuổi ấu thơ không dễ dàng, chỉ thực sự được đi học từ sau hòa bình lập lại(1954). Tốt nghiệp phổ thông (1963), sau đó vào bộ đội Tăng - thiết giáp và nhiều năm tham gia chiến đấu tại các chiến trường Đường 8- Nam Lào (1970-1971) , Quảng Trị (1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh. Năm 1981, sau khi tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du( khóa 1), Hữu Thỉnh về làm phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. ông được bầu vào Ban Chấp hành Hội nhà Văn Việt Nam từ khóa III(1983) đến nay. Hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Phó Chủ t5ịch Hội liên hiệpVăn học - Nghệ thuậtViệt Nam, đại biểu Quốc hội khóa X, XI. "Trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính, sống thậy sự cuộc sóng của mình giữa lòng cuộc chiến đấu của dân tộc, Hình tượng người lính và hiện thực lớn lao, sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các tập thơ của Hữu Thỉnh. Ngay ở tập thơ âm vang chiến hào, Hữu Thỉnh đã có một giọng điệu riêng chân thật trong cảm xúc, tinh tế và có nhiều tìm tòi trong cách biểu hiện. Sức bền của đất, Trên một chiếc xe tăng và Chuyến đò đêm giáp ranh là những bài thơ được nhiều người biết tiếng. Một trong những đặc điểm đưa đến sự thành công trong thơ Hữu Thỉnh là sự vận dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt những câu tục ngữ , ca dao dân gian. Nét đặc trưng này cũng là một điểm mạnh và là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ Hữu Thỉnh làm nên nét đặc sắc cho thơ ông. Trường ca Đường tới thành phố đời đã thực sự đánh dấu một giai đoạn trưởng thành của thơ Hữu Thỉnh. Hiện thực của mỗi thời chiến trận đã được thể hiện với một quy môvà chiều dày hơn hẳn những tác phẩm ở những giai đoạn trước. Bằng những hình tượng tiêu biểu đầy cảm xúc, chặng đường dẫn đến chiền thắng của dân tộc được miêu tả và lí giải hợp lí, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, trong đó có khá nhiều những câu thơ tài hoa xúc động. Trường ca Biển viết về đảo Trường Sa là một cuộc đối thoại khôn cùng giữa con người và biển cả. Nhiều suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu sắcvề cuộc đời đã được thể hiện trong đó. Trước đây những câu thơ hay của Hữu Thỉnh thiên về cảm. Bây giờ câu thơ của ông đậm màu triết luận, có sức nặng của suy nghĩ và chiêm nghiệm. Chất lượng thơ Hữu Thỉnh thể hiện một quá trình phấn đấu không ngừng. Tập Thư mùa đông là một nỗ lực tự vươn lên mình của ông"(từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường Sđđ) Các tác phẩm chính: âm vang chiến hào (in chung 1975); Đường tới thành phố (trường ca, 1979); Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung); Thư mùa đông (1984) ; Trường ca Biển (1984); Từ chiến hào đến thành phố (1985);.. Tác giả đã được nhận : Giải nhất cuộc thi thơ báoVăn nghệ(1976), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam(1980,1995); Giải thưởng văn học ASEAN (1999); Giải thưởng Nhà nước (2001);... Hữu Thỉnh có nhiều bài thơ hay về con người và cuộc sống nông thôn. [B] 2. Tác phẩm:[/B] Bài thơ Sang thu được tác giả sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước biến thái của thiên nhiên từ hạ sang thu. [CENTER]*** [/CENTER] [B][CENTER][COLOR="Blue"]Bài 13: "Nói với con"- Y Phương [/COLOR][/CENTER][/B] [B]1. Tác giả: [/B] Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, tại xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, hiện ở Hà Nội. Ông là Hội viên hộI Nhà văn Việt Nam(1988). Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn hóa-Thông tin Cao Bằng. Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩmđan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong có màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nết độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt nam nói chung, có thêm một giọng điệu mới, một phong cach mới. (Từ điển tác giá tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường). Các tác phẩm chính: Người hoa núi(kịch bản sân khấu, 1982);Tiếng hát tháng giêng(thơ, 1986); Lửa hồng một góc( thơ in chung, 1987);Lời chúc (thơ,1991); Đàn then (thơ, 1996).... Tác giả đã nhận được: giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân dội; Giải thưởng loại A Giải thưởng văn học 1987 của hội nhà văn Việt Nam.... [B]2. Tác phẩm:[/B] Về hoàn cảnh ra đời bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương cho biết: Những năm cuối bảy mươi đầu tám mươi của thế kỉ XX , đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân ta cả nước nói chung, nhân đan cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cục kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượi qua để duy trì đời sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lượng siêu nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời mà ông cha ta để lại. Cuối năm 1975, tôi cũng mới từ mắt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa nhà nay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của toàn xã hội. Nhìn cách con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà lòng xót đau khôn tả. Bởi chúng tôi cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hoá khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị tha hóa biến chất. Họ buôn bán lận, lợi dụng khẽ hở của nhà nước móc lối làm ăn phi pháp. ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới thời ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước ngoài. Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này.” [CENTER]*** [/CENTER] [B][CENTER][COLOR="Blue"]Bài 14: "Bến quê"- Nguyễn Minh Châu [/COLOR][/CENTER][/B] [B]1.Tác giả:[/B] - Nhà văn Nguyễn Minh Châu ( 1930- 1989) sinh tại làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là hội viên hội nhà văn Việt Nam (1972). - Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú và có những thành công đáng trân trọng. Chỉ riêng về lĩnh vực sáng tac, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành đề tài tìm hiểu của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những chuyên luận khoa học trong và ngoài nước. Đọc lại những trang viết cảu ông, đọc lại những bài viết về ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và sự nghiệp vă học của Nguyễn Minh Châu còn tiềm ẩn nhiều vấn, nhiều ngợi ý có khả năng hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận mới.” (Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Minh Châu- về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục 2001). Các tác phẩm chính : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) ; Những vùng trời khác nhau ( Tập truyện ngắn, 1970) ; Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) ; Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974) ; Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) ; Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết,1977) ; Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981); Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) ; Người đàn bà trên chiến tàu tốc hành ( Tập truyện ngắn, 1983) ; Đảo đá kì lạ ( 1985) ; Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) ; Chiếc thuyền ngoài xa ( Tập truyện ngắn, 1987) ; Cỏ lau ( Tập truyện vừa, 1989) ; Trang giấy chiếc đèn ( tiểu luận phê bình, 1994) ; ... Tác giả đã được nhận : Giải thưởng bộ quốc phòng ( 1984, 1989) ; Giải thưởng hội nhà văn Việt Nam ( 1988, 1989) ; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật ( 2000) . [B]2. Tác phẩm:[/B] Truyện ngắn Bến Quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày với những xhi tiết sinh hoạt đời để phát hiện được chiều sâu của cuộc sống với bao quy luật và nghịch lý, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả. [CENTER]*** [/CENTER] [B][CENTER][COLOR="Blue"]Bài 15: "Những ngôi sao xa xôi"- Lê Minh Khuê[/COLOR][/CENTER][/B] [B]1.Tác giả :[/B] Nhà văn Lê Minh Khuê sinh năm 1949 tại xã An Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa ; Hội viên hội nhà văn Việt Nam ( 1980). Tốt nghiệp phổ thông trung học, Lê Minh Khuê tham gia đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước. Những năm tháng vất vả gian nan mà hào hùng ở ngoài tuyến lửa đã tạo cảm hứng chính những sáng tác của chị sau này. Năm 1969 , chị là phóng viên Tiền phong. Năm 19723- 1977, phóng viên đài phát thanh Giải phóng và sau đó là đài truyền hình Việt Nam.Từ 1978 đến nay, nhà văn Lê Minh Khuê là biên tập viên nhà xuất bản Hội Nhà văn. Là nhà văn sở trường về truyện ngắn, từ sau năm 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê đã bám sát những biến chuyển của đời sống, đề cập đến nhiếu vấn đề bức xúc của xã hội thời điểm mới. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Lê Minh Khuê khá sắc sảo, nhất là khi miêu tả tâm lí phụ nữ. Các tác phẩm chính: Cao điểm mùa hạ ( 1978) ; Đoàn kết (1980) ; Thiếu nữ mặc áo dài xanh (1984) ; Một chiều xa thành phố (1987) ; Em đã không quên (1990) ; Bi khịch nhỏ (1993) ; Trong làn gió heo may (1998) ; ... Tác giả đã được nhận: Giải thưởng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 ( tập truyện ngắn: Mội chiều xa thành phố). [B]2. Tác phẩm:[/B] Truyện Những ngôi sao xa xôi viết về ba cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ phá bom ở một cao điểm trong thời kì cuộc chiền tranh trống đế quốc Mĩ đang diễm ra khốc liệt. Miêu tả các cô gắi hằng ngày, hằng giờ đối mặt với nguy hiểm nhưng hấ dẫn của truyện không phải ở những chi tiết, sự kiện hòi hộp, nóng bỏng mà ở khả năng miêu tả đời sống tâm hồn con người khá sinh động, sâu sắc của tác giả. [I][B][RIGHT](Sưu tầm)[/RIGHT][/B][/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Đề thi, ôn tập vào 10
Ôn thi vào lớp 10 phần tác giả, tác phẩm
Top