NÓI VÒNG
Nguyễn Hữu Chương
I. NÓI VÒNG LÀ GÌ?
1. Nói vòng là một lối nói thường gặp trong khẩu ngữ hàng ngày, trong kịch nói, thậm chí cũng được dùng trong ngôn ngữ viết nhằm nhấn mạnh một điều gì đó. Thuật ngữ tiếng Anh là: paraphrase, périphrsis; tiếng Pháp là: périphrase; tiếng Nga là: perephraza (nepeFpa?a). Đó là ngữ (cụm từ) giải thích cho một từ. Ví dụ: “Thủ đô nước Việt” thay cho “Hà Nội” [x.11].
Nói vòng làmột lối nói phổ biến trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Bản chất của nó cũng là một phép thế danh ngữ, hay thế đồng sở chỉ. Song khác các phép thế thông thường ở chỗ: người ta có thể suy ra sở chỉ của cụm từ nói vòng dựa vào ý nghĩa của bản thân cụm từ đó mà không cần dựa nhiều vào ngữ cảnh như phép thế các danh ngữ đồng sở chỉ thông thường. Chính vì vậy mà R. Martin (1976) đã xếp lối nói vòng vào loại các câu đồng nghĩa ngữ nghĩa học (paraphrase semantique) còn phép thế cách danh ngữ đồng sở chỉ thông thường thì được xếp vào các loại câu đồng nghĩa ngữ dụng học (paraphrase pragmatique).
Các cặp câu sẽ nêu sau đây là đồng sở chỉ (referent). Người ta sở dĩ biết được các danh ngữ là đồng sở chỉ bởi dựa vào sự suy luận các sự kiện có liên quan với nhau mà suy ra các vật cùng qui chiếu. Giữa chúng không có quan hệ giải thích.
Ví dụ:
(1) a) Viên tướng đã rút lui hoàn toàn năm 1969 thì về Colombey lexdeux –Eglises.
b) De Gaulle đã hoàn toàn rời khỏi chính quyền sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1969.
Viên tướng ? De Gaulle.
(2)a) Người chiến thắng ở Iéna đã chết năm 1821.
b) Người chiến bại ở Waterloo đã chết năm 1821.
Người chiến thắng ở Iéna Người chiến bại ở Waterloo.
(3) a) Sheila đã lấy chồng.
b) Sheila đã lấy Ringo
chồng ? Ringo
Nhưng những cụm từ có gạch dưới sau đây là những cụm từ nói vòng bởi nó có quan hệ giải thích với từ gốc và dựa vào các từ ngữ trong cụm từ có thể suy ra sở chỉ của nó.
Ví dụ 1: Ba ra thăm thủ đô nước Việt Nam.
Thì cụm từ “thủ đô nước Việt Nam” ta suy ra được đó là Hà Nội. Và câu nói thẳng là: Ba ra thăm Hà Nội.
Ví dụ 2: “Thằng Tèo là một đứa hư. Tôi không cần nói chuyện với nó mà sẽ nói chuyện với người đẻ ra nó”.
Lối nói thẳng là: “Tôi sẽ nói chuyện với cha mẹ nó”.
Nghiên cứu phép thế các danh ngữ đồng sở chỉ nói chung, nói vòng nói riêng là một việc làm cần thiết, bởi vì nó không những góp phần nghiên cứu thêm một vấn đề của địa hạt đồng nghĩa cú pháp mà về mặt ứng dụng, nó cũng có lợi ích thiết thực: giúp người ta hiểu biết và xác định đúng các danh ngữ đồng sở chỉ. Nếu không xác định đúng được các danh ngữ đồng sở chỉ thì sẽ không thể hiểu đúng được lời nói hay văn bản.
Với ý nghĩa đó, bài viết này có mục đích nêu ra một số lối nói vòng và bước đầu rút ra những nhận xét về chúng.
II. MỘT SỐ LỐI NÓI VÒNG TRONG TIẾNG VIỆT.
1. Nói vòng thay cho danh từ gốc chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc.
a) “Anh có biết thân sinh ra anh sinh ngày nào không”?
Charles mỉm cười không trả lời trực tiếp, chỉ nói: Có hàng vạn người không quen biết chỉ nhắc đến là tôi biết ngay, huống chi là người đẻ ra tôi”. (Chuyện lạ bốn phương, NXB Tiền Giang 4/1992).
Thân sinh ? người đẻ ra tôi.
b) “Mục sư –Cô nói thế nào? Cô Engxtrand, đây là ông đẻ ra cô kia mà” (Kịch Íp Xen)
cha ? ông đẻ ra cô
c) “Trong nhà có đám tang? Phải, bà cụ sinh ra ông chủ mới tạ thế hồi đêm” (Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, t.1, tr.147).
mẹ ? bà cụ sinh ra ông chủ
d) “Nhưng mưa, giá, rét có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô “con cọp”. (Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, t.1. tr.139)
bố (ông chủ) ? ông cụ đẻ ra ông chủ.
Trong cuộc sống, khi nói năng chửi rủa mạt sát lẫn nhau, người ta cũng dùng lối nói vòng để trút nỗi căm tức lên người khác. Chẳng hạn, người ta không chửi: “Chém cha bà mày”, “Chém cha ông mày”, “Chém cha cụ mày”, “Chém cha bố mày” mà chửi :”Chém cha con đẻ ra mẹ mày”, “Chém cha cái thằng đẻ ra bố mày”, “Chém cha cái thằng đẻ ra ông mày”, “Chém cha cái thằng đẻ ra mày” …
đ) “Cô ấy đã làm lành với bố của con trai mình” (Phim đơn giản tôi là Maria)
Chồng ?Hoan Cáclốt
Bố của con trai mình.
e) “Mục sư –Sống với…mẹ của những đứa con mình”. (Kịch Íp Xen).
Vợ ? mẹ của những đứa con của mình.
f) “Hiaalmar, chắp hai tay – đấy là mẹ của con đấy” . (Kịch Íp Xen)
Vợ ? mẹ của con tôi.
g) “Ông Cả – (gọi vào nhà)- Mẹ cái Phương cầm cho tôi cái chổi ra đây nhè” (bà Cả cầm chổi ra). (Sân chung –tập kịch ngắn, tr.96).
vợ ?Bà Cả ? Mẹ cái Phương.
2. Lối nói vòng thay cho tên riêng.
a) Nam: Tiếng ai như…(gọi to). Thảo ơi !
Mẹ thằng cu Tuấn đấy phải không ? (tập kịch: Những người mở bến. Vở Chuyến phà đêm, tr.13)
Thảo ?Mẹ thằng cu Tuấn.
(Ở đây nếu không có ngữ cảnh rõ ràng thì người ta không suy ra được tên riêng (Thảo) nhưng vẫn suy ra được sở chỉ (referent) của cụm “Mẹ thằng cu Tuấn” ).
b) “Bà cụ Phương…cả cái tổng này có ai như vợ anh thằng Sáng không? (Kịch Bắc Sơn, Nguyễn Huy Tưởng, tr.57)
Đây là một lối nói cũ có trước 1954 ở miền Bắc Việt Nam. Người mẹ gọi con trai bằng: thằng +tên, anh +tên hoặc anh thằng +tên Vợ anh thằng Sáng = Vợ của Sáng.
Ngọc ?vợ anh thằng Sáng.
c) “Tự nhiên tôi sinh hoài nghi cái sức Hán học của tác giả Nho giáo”. (Ngô Tất Tố tác phẩm, t.1, tr.334).
Trần Trọng Kim ?tác giả Nho giáo.
3. Nói vòng thay cho “Tôi” –người đangnói.
“Bà Alvinh, hạ thấp giọng nhưng cương nghị, -Bắt đầu ngay từ ngày kia tôi sẽ hành động như thể người quá cố chưa hề bao giờ sống trong nhà này. Ở đây, sẽ không còn ai khác ngoài thằng con của tôi và mẹ nó” (Kịch Íp Xen, tr 52).
Tôi ? mẹ nó
4. Nói vòng thay cho các danh từ chỉ đối tượng.
“Con này, hễ đã lên tiếng thì y như có kẻ gian vào nhà. Nó chồm hẳn lên mặt mà cắn, thằng trộm nào vô phúc vào nhà này thì hẳn là mất chỗ đội nón”. (tuyển tập Nguyễn Công Hoan, t.1, tr.77)
đầu ?chỗ đội nón.
5. Nói vòng thay cho các danh từ chỉ địa điểm, nơi chốn.
“Cả vùng Xuân Thới Thượng này, nói đến Tư Ren, người ta dễ biết hơn là anh thương binh Lê Văn Đức, gốc con nhà nông nòi, mang thêm “dòng máu” nhà binh, khi trở về nơi chôn nhau cắt rốn, anh thương binh loại này không cam chịu với số phận”. (Báo Công an TPHCM ngày 28-7-1993 )
Quê ?nơi chốn rau cắt rốn.
6. Nói vòng thay cho danh từ chỉ địa danh.
Hà Nội ?Thủ đô nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
TP Hồ Chí Minh ?Thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu ?Thành phố mang tên Người.
Hải Phòng ?Thành phố Hoa Phượng Đỏ.
Nam định ?Thành phố dệt
Bắc Ninh? Quê hương quan họ
Campuchia? đất nước chùa tháp
Lào ?đất nước triệu voi
Nhật ?đất nước mặt trời mọc.
7.Nói vòng thay cho danh từ chỉ nghề nghiệp.
Giáo viên? Nghề bán cháo phổi ?Nghề gõ đầu trẻ.
Điếm đĩ ?Nghề bán trôn nuôi miệng.
7. Nói vòng thay cho động từ gốc.
8. a) “Anh chàng thường đến nhà chơi toàn những lúc chị Hoa bận bịu với phấn trắng bảng đen ở giảng được” (Báo CATP HCM 17/3/1992).
Dạy học ?bận bịu với phấn trắng bảng đen.
b) “Lân- ai rồi cũng phải trở về với đất. Đất ủ tấm thân má tôi mát mẻ, còn hơn để bả sống quần quật suốt năm tháng” (Tùng Bác-Kịch Phía trước, NXB giải phóng 1972).
Chết ?trở về với đất.
c)“Nếu câu chuyện làm bệ hạ hài lòng thì lúc đó phải chịu điều kiện: cái đầu của bệ hạ không còn ở trên cái cổ của bệ hạ nữa”. (Kịch truyền hình thiếu nhi 26/7/1993)
đứt ?không còn ở trên cái cổ.
d) “Người phế binh …khi tỉnh cơn mê tôi mới biết mình đang nằm tại nhà thương Duy Tân, mới biết cái chân nó đã rời bỏ tôi” (Kịch Phía trước, tr.98)
đứt ?rời bỏ tôi.
9. Nói vòng thay cho danh từ chỉ sự việc.
“Làm từng ấy công việc, thằng Quýt mỗi tháng được hai đồng bạc công. Và ngoài mỗi ngày hai bữa no nê, thỉnh thoảng nó lại được thải chiếc áo cánh, mặc gượng nhẹ thì được một bận, và luôn luôn phát tài hàng chục cái móng giò chối xương hông”.
Cú đá đít ?cái móng giò chối xương hông.
III. NHẬN XÉT
Cơ sở của những suy luận ra từ gốc.
1. Do danh từ gốc có quan hệ phái sinh ngữ nghĩa với vị từ trong cụm nói vòng cho nên người ta có thể suy ra được danh từ gốc là từ nào và nhờ vậy mà xác định đúng sở chỉ của cụm nói vòng.
Chẳng hạn, với cụm từ nói vòng : “Bà cụ sinh ra ông chủ” người ta có thể suy ra được danh từ gốc là từ “mẹ” bởi từ mẹ là danh từ có quan hệ phái sinh ngữ nghĩa với vị từ “sinh” ,”đẻ” [mẹ –sinh –đẻ-con].
Trong tiếng Việt, những danh từ như trên khá nhiều: cha, mẹà sinh, đẻàà sinh, đẻ à bố, mẹ; thày –dạy –trò; trò –học –thầy; thước đo, gậy àà ngồi; chai, lon à đựng; đầu à đội, chứa… con; ông, bà chống; ghế
Lối nói vòng này nhấn mạnh vào vị từ tức nhấn mạnh vai trò, công dụng của chủ thể, đối tượng.
2. Dựa vào ý nghĩa của các danh từ chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc và ý nghĩa của từ chỉ quan hệ sở hữu mà biết được danh từ gốc và sở chỉ của cụm từ nói vòng.
Chẳng hạn: -Mục sư sống với …mẹ của những đứa con của mình (1)
-Cô ấy đã làm lành với bố của con trai mình (2).
Khi nghe hai câu trên, người ta có thể suy ra ngay được các danh từ gốc là “vợ” (1) và “chồng” (2). Bên cạnh khả năng suy ra hai danh từ gốc trên, người ta cũng có thể đồng thời suy ra tên của những người đó bởi có cùng sở chỉ.
Lối nói này cung cấp cho người ta thêm những thông tin khác như: người đó không những đã có vợ hay có chồng mà cũng đã có con, thậm chí biết rõ hơn đó là con trai hay con gái, một đứa h ay nhiều đứa (những).
3. Người Việt Nam có một lối gọi vợ hay chồng như sau:
Mẹ, bố +cái, thằng +tên con
Ví dụ: Mẹ cái Phương cầm cái chổi ra đây !
Bố thằng Dũng đi ăn cơm đi !
Nếu nói thẳng thì gọi bằng tên hay đại từ và tên:
Hà ơi cầm cái chổi ra đây !
Anh Hai ơi đi ăn cơm đi !
4. Từ nghĩa của danh từ phái sinh suy ra vị từ và từ đó suy ra tên của người.
“Tác giả Nho giáo” (người) sáng tác ra tác phẩm Nho giáo à đó là Trần Trọng Kim.
5.Tên của các địa danh có thể được gọi bằng những cách khác nhau dựa vào những đặc trưng tiêu biểu nào đó.
Bắc Ninh à nguồn gốc của các điệu hát Quan họàQuê hương quan họ.
Lào à đất nước có rất nhiều voi à đất nước triệu voi.
6.Suy ra danh từ gốc dựa vào thói quen và kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ.
Nghề bán cháo phỗi àNghề dạy học giáo viên.
7.Ở những cụm động từ nói vòng thì có thể suy ra động từ gốc căn cứ vào ý nghĩa của động từ trong cụm từ.
“Cái đầu của bệ hạ không còn ở trên cái cổ của bệ hạ nữa” Nhờ cụm “không còn ở trên cái cổ” mà ta có thể suy ra động từ gốc là “đứt”, “rơi”, “lìa”…
Nhìn chung lại ta thấy nói vòng là một trong những lối nói độc đáo. Nó không phải là một lối nói “dài dòng văn tự”, “dây cà ra dây muống” mà là một lối nói dựa trên những cơ sở và qui tắc ngữ nghĩa cú pháp nhất định, đem lại những sắc thái tu từ, sắc thái biểu cảm riêng cho câu văn, cho lời nói.
Xét về mặt nghĩa thì câu nói vòng và câu nói thẳng là những câu có quan hệ đồng sở chỉ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Yu.D.Aprexian –Ngữ nghĩa học từ vựng hiện đại. Các phương tiện đồng nghĩa của ngôn ngữ và những qui tắc chuyển dạng của câu nói. NXB Khoa học Moskva, 1974, 6-55.
2.M. Clark –Coverb and case in Vietnamese. The Autralian national University, 1978.
3.Nguyễn Hữu Chương, Câu đồng nghĩa phụ thuộc tình huống. Tập san KHXH ĐHTHTPHCM, sô1 1995.
4. Nguyễn Đức Dân –Câu đồng nghĩa. Ngôn ngữ. N3/1995.
5. Cao Xuân Hạo –Tiếng. Sơ thảo Ngữ pháp chức năng. Quyển 1. NXB. KHXH 1991.
6.Hồ Lê- Cú pháp tiếng Việt. Quyển 1. Phương pháp nghiên cứu cú pháp, NXB KHXH 1991.
7.John Lyons – Semantichs.1 và 2 Cambridge university press. Cambridge, London, NewYork. Melbourne.1997.
8.R.Martin –Inférence, antonymie et paraphrase, Paris, Librairie Klincksieck 1976.
9.Hoàng Phê –Lô gích ngôn ngữ học (qua cứ liệu tiếng Việt) .NXB KHXH, Hà Nội, 1989.
10. Trần Ngọc Thêm –Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. NXB KHXH, Hà Nội, 1985.
11. Lê Đức Trọng –Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Việt –Anh –Pháp –Nga) .NXB TPHCM 1993
Theo: Khoavanhoc-ngongnu.edu.vn