Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Nội dung xã hội trong Truyện Kiều (Trần Đức Thảo)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 38437" data-attributes="member: 28779"><p><strong><span style="color: Blue">III - Kiều tìm lối thoát trong thành phần phú thương</span></strong></p><p> </p><p>Gia đình họ Thúc thuộc về thành phần phú thương – “Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Chuy” -, nhưng đến đời con thì đã kết hôn với một nhà đại phong kiến, “Thiên quan chủng tế”, “họ Hoạn danh gia”. Trong hoàn cảnh ấy, việc Kiều hoàn lương không phải là dễ. Kiều đã thấy rõ những trở ngại và đặt điều kiện với Thúc sinh:</p><p> </p><p><em>“Thương sao cho vẹn thì thương,</em></p><p><em>Tính sao cho trọn mọi đường, thì vâng”.</em></p><p> </p><p>Sở dĩ Thúc sinh, lợi dụng lúc cha đi vắng, đã cả gan tự ý đưa nàng về nhà, là vì lễ giáo phong kiến đã mất uy thế rất nhiều trong giai cấp thương nhân. Những quan hệ mua bán hàng hoá gây một hình thức tự do cá nhân mà Thúc sinh đã phát triển một cách bừa bãi: “Trăm nghìn đổ một trận cười như không!”. Vì vậy mà đến lúc Thúc ông về nhà thấy một cô dâu bất ngờ, “Phong lôi nổi trận bời bời”, Thúc sinh đã có thái độ kiên quyết:</p><p> </p><p><em>“Lượng trên quyết chẳng thương tình,</em></p><p><em>Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”</em></p><p> </p><p>Trên kia đã nhận định rằng Nguyễn Du nói chung không thấy vai trò tiến bộ của đồng tiền. Nhưng riêng đây thì thi sĩ rõ ràng thông cảm với con người bướng bỉnh, tán thành cái tinh thần tự do xây dựng trên cơ sở thương nghiệp. Nhưng thực tế thì với tình trạng phong kiến hoá của họ Thúc, cái tinh thần ấy không thể nào bền bỉ. Trước những thủ đoạn nham hiểm của người vợ quý tộc, Thúc sinh sẽ tỏ thái độ nhu nhược khác hẳn với những “Lời sắt đá tri tri” mà anh ta đã dám dùng với bố. </p><p> </p><p>Trong suốt đoạn này, tính chất giai cấp của tâm lý cá nhân được bộc lộ một cách đặc biệt rõ rệt. Tâm trạng và tính tình của mỗi vai trò chỉ là hình thức chủ quan phản ánh quan hệ giai cấp khách quan trong xã hội.</p><p> </p><p>Sở dĩ Thúc sinh sợ vợ, không phải là vì bản thân có tính nhu nhược - bằng chứng là anh ta không nhu nhược đối với cha -, mà cũng không phải vì lễ giáo – trong chế độ đa thê thì vợ cả cũng phải phục tùng chồng, và việc lấy lẽ cũng là thông thường. Rõ ràng rằng cái mà Thúc sinh sợ, là cương vị chính trị và xã hội của họ Hoạn. Mà vì chính anh ta cũng muốn leo lên cái cương vị ấy, anh ta lại càng nhu nhược. Ví dụ như hôm gặp Kiều lần cuối cùng ở Quan Âm các, chùa nhà của Hoạn thư, anh ta giải thích rằng đã phải chịu nhục với vợ cả vì chưa có con. Thực ra nếu chỉ muốn có con thì cũng có thể có với Kiều, chứ không bắt buộc phải bám lấy họ Hoạn. Nhưng đứa con mà Thúc sinh muốn, lại là đứa con của một nhà quý tộc. Nghĩa là đời anh ta thì còn phải mang tiếng là lái buôn, nhưng đến đời con thì họ Thúc sẽ chuyển lên thành phần đại phong kiến. Đấy là lý do làm tiêu hết ý chí phản kháng:</p><p> </p><p><em>“Quản chi lên thác xuống ghềnh,</em></p><p><em>Cũng toan sống thác với tình cho xong.</em></p><p><em>Tông đường chút chửa cam lòng,</em></p><p><em>Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai”.</em></p><p> <em></em></p><p>Về phần Hoạn thư thì nhất định lòng ghen không phải là do “chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Vì cái ghen thường tình là ghen vì yêu, vì muốn. Nhưng rõ ràng rằng Hoạn thư không yêu, trái lại khinh chồng, không thiết gì tranh thủ lòng yêu của chồng, đồng thời cũng rất khinh người vợ lẽ. Cả vấn đề đối với nó là vấn đề ngôi thứ. Ví thử như Thúc sinh xin phép nó trước khi lấy Kiều, thì chắc nó cũng để cho làm, để giữ cương vị người trên. Nhưng việc cưới trộm ở Lâm Chuy đã phạm đến trật tự xã hội phong kiến:</p><p> </p><p><em>“Ví bằng thú thật cùng ta,</em></p><p><em>Cũng dong kẻ dưới, mới là lượng trên.</em></p><p><em>… Lại còn bưng bít giấu quanh,</em></p><p><em>Làm chi những thói trẻ ranh nực cười”.</em></p><p> </p><p>Lòng ghen của Hoạn thư xuất phát từ lòng tự cao, tự đại của con nhà đại phong kiến, từ lòng khinh miệt anh chồng con buôn. Mục đích của nó không phải là gạt người vợ lẽ để lấy lại tình yêu của chồng. Mục đích của nó là lập lại trật tự phong kiến, làm cho Thúc sinh hiểu rằng đã muốn leo lên thành phần thống trị, thì cũng không còn quyền yêu một người thường dân như Kiều, vì đối với bọn thống trị, phận sự của nhân dân chỉ là hầu hạ chúng:</p><p> </p><p><em>“Làm ra con ở, chúa nhà, đôi nơi!”</em></p><p> </p><p>Cũng như tính ghen, tính ác của Hoạn thư có nội dung giai cấp rõ rệt. Chính cái “mưu cao” mà nó bàn với mẹ nó, là một thủ đoạn giặc cướp đúng theo bản chất của chế độ áp bức phong kiến:</p><p> </p><p><em>“Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,</em></p><p><em>Hãy đem dây xích buộc chân nàng về”.</em></p><p> </p><p>Bọn “gia nhân” này chính là “một bọn côn quang”, nhờ chúng mà họ Hoạn tự đặt mình trên hết luật pháp, đi bắt người lương thiện về làm nô tỳ - “Hoa nô truyền dậy đổi tên, Buồng the dậy ép vào phiên thị tỳ”. Đó là tập quán áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến, thực chất cướp bóc của chế độ phong kiến từ đời lãnh chúa quý tộc.</p><p> </p><p>Nhưng đến lúc kinh tế hàng hoá phát triển, nhân dân đã có cơ sở để xây dựng một số tự do nhân quyền. Bọn phong kiến bắt buộc phải công nhận một hình thức pháp lý nào đấy, đồng thời dùng đạo đức giả mạo để mê hoặc nhân tâm. Cấu kết với lái buôn, chúng lại lấy thái độ cao thượng để bóc lột họ. Cụ thể như “họ Hoạn danh gia” mà nhận họ Thúc làm rể, thì tất nhiên đã thu được một số tiền không nhỏ, vậy Hoạn thư cũng khó lòng mà ra mặt sinh sự với chồng. Mà đã lấy một anh con buôn thì lại càng phải giữ tiếng, không có lợi gì mà làm vỡ một cấu chuyện “Xấu chàng mà có ai khen chi mình”. Vì thế mà nó “ngoảnh mặt làm thinh”, rồi dùng âm mưu thâm độc để “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”. Tính ác nham hiểm của Hoạn thư đã đạt một mức quái gở. Nhưng cái quái gở ấy lại rất hiện thực, nó là cái quái gở của bọn phong kiến thống trị cấu kểt với lái buôn, nhưng đồng thời vẫn khinh miệt họ, làm ra vẻ cao thượng mà thực tế thì vẫn dùng những thủ đoạn áp bức tàn nhẫn. Trong con người “quỷ quái tinh ma” của Hoạn thư, Nguyễn Du đã xây dựng một điển hình hiện thực phong kiến thống trị trong thời đại suy đồi:</p><p> </p><p><em>“Chước đâu, có chước lạ đời!</em></p><p><em>Người đâu mà lại có người tinh ma!</em></p><p><em>… Bề ngoài thơn thớt nói cười,</em></p><p><em>Mà trong nham hiểm, giết người không dao”.</em></p><p>Tuy nhiên, phản ứng của Kiều vẫn còn yếu ớt. Nàng cũng chỉ biết tăng cường nghệ thuật than phiền – “Bốn dây như khóc như than, Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng” -, cuối cùng thì “Rắp đem mệnh bạc, xin nhờ cửa Không”. </p><p></p><p>Lòng từ bi của đạo Phật là một công cụ mê hoặc nhân dân, đồng thời cũng có tác dụng dàn xếp những việc tranh chấp giữa mọi phần tử bóc lột. Việc Kiều đi tu là một giải pháp dung hoà. Kiều thực tế đã bị liệt vào thân phận nô tỳ, nhưng về mặt tinh thần thì chưa tách rời giai cấp thống trị. Và tài hoa của nàng lại làm cho bọn thống trị phải trọng, thông cảm với nàng, tức là coi nàng như xứng đáng ở cùng một giai cấp với chúng: </p><p></p><p><em>“Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương,</em></p><p><em>Ví chăng có số giàu sang,</em></p><p><em>Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!”</em></p><p> </p><p>Vì thế mà Kiều đã được đi tụng kinh ở vườn sau nhà họ Hoạn. Nhưng cách dàn xếp này cũng không ổn, vì thực tế thì Kiều vẫn chỉ là một hạng nô tỳ trong tay Hoạn thư, vẫn bị đe doạ ghê gớm. Hôm nó bắt được nàng tâm sự với Thúc sinh, nàng đã thấy rõ: “Miệng hùm, nọc rắn ở đâu chốn này!”.</p><p> </p><p>Kiều chạy trốn lại tìm chỗ ẩn trong một nhà chùa. Nhưng đến lúc Giác Duyên biết câu chuyện của nàng, cái uy thế của họ Hoạn lại bắt bà sư phải đuổi nàng đi, vứt nàng vào tay bợm già: nhà chùa bộc lộ thực chất của nó là một tổ chức trong tay bọn thống trị và phục vụ chúng. </p><p> </p><p>Trở về thanh lâu, Kiều không còn có thể mong chờ gì ở chế độ thống trị. Nàng đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn: kinh nghiệm lý tưởng phong kiến với Kim Trọng, kinh nghiệm lãng mạn tự do với Thúc sinh, kinh nghiệm tôn giáo. Hết cả những đường lối mà chế độ phong kiến đề ra hoặc ra vẻ dung túng, đều đưa đến chỗ tai hoạ. Kiều lại được một thời gian lao động chân tay - “Dãi dầu tóc rối, da chì quản bao”. Đó là một điều kiện tốt để đi vào con đường duy nhất còn lại: con đường nhân dân đấu tranh.</p><p><strong><span style="color: Blue"> </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">IV - Kiều tìm đường giải phóng trong phong trào nông dân khởi nghĩa</span></strong></p><p> </p><p>Việc kết duyên giữa Kiều và Từ Hải có một ý nghĩa chính trị rõ rệt. Nó là một việc kết nạp trong một phong trào khởi nghĩa. Đã hết hy vọng ở chế độ đương thời, Kiều, được gặp anh hùng, tỏ ngay thái độ dứt khoát. Vấn đề bây giờ không phải chỉ là vấn đề cá nhân, thoát khỏi lầu xanh, như ngày kết bạn với Thúc sinh. Kiều đặt rõ ràng tương lai của mình trong tương lai của xã hội: phải đánh đổ triều đình, đua lên một triểu mới, mở hy vọng cho những người bị áp bức bóc lột như nàng:</p><p></p><p><em>“Thưa rằng: Lượng cả bao dong,</em></p><p><em>Tấn Dương được tháy mây rồng có phen.</em></p><p><em>Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,</em></p><p><em>Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”.</em></p><p> </p><p>Từ Hải thoả lòng vì thấy mình được hiểu đến thâm tâm. Tình yêu xuất phát từ ý thức về một mục đích chung, nó là tình yêu giữa những người đồng tâm đồng ý:</p><p> </p><p><em>“Nghe lời vừa ý, gật đầu,</em></p><p><em>Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người?</em></p><p><em>… Một lời đã biết đến ta,</em></p><p><em>Muôn chung, nghìn tứ, cũng là có nhau”. </em></p><p></p><p>Tất nhiên, đời phong kiến, quan hệ lý tưởng giữa người với người chỉ có thể đạt tới mức ân nghĩa cá nhân, cũng như quan nhiệm tiến bộ về xã hội không thoát khỏi phạm vi quân chủ. Kiều đặt hy vọng ở Từ Hải, chỉ mong thay thế triều này bằng một triều khác, và Từ Hải kết nghĩa với Kiều, cũng nhằm một đời phú quý với nàng. Nhưng dưới cái hình thức phong kiến ấy, nội dung tư tưởng vẫn có cơ sở chính nghĩa. Vấn đề hưởng phú quý lúc bấy giờ là phụ. Điểm chính là Kiều đã đứng về phe nhân dân chống chế độ thống trị. Bằng chứng là hôm Từ Hải cưỡi ngựa lên đường, nàng đã không ngần ngại gì trước những sự nguy hiểm của cuộc khởi nghĩa mà tha thiết xin theo: </p><p><em></em></p><p><em>“Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi”.</em></p><p> </p><p>Nhưng Từ Hải không muốn để cho Kiều thấy mình ở những hoàn cảnh khó khăn. Từ Hải muốn hình ảnh của mình trước con mắt người yêu hoàn toàn là hình ảnh lý tưởng của một vị anh hùng chiến thắng:</p><p> </p><p><em>“Làm cho rõ mặt phi thường,</em></p><p><em>Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”.</em></p><p> <em></em></p><p>Không được trải qua kinh nghiệm đấu tranh, Kiều không có điều kiện để chuyển lên một lập trường thực sự tiến bộ. Vì thế mà sau khi được báo ân báo oán cá nhân, Kiều quên căm thù, “thật dạ, tin người”, mà nghe Hồ Tôn Hiến, khuyên Từ Hải đầu hàng.</p><p> </p><p>Từ Hải là một điển hình anh hùng nhân dân đời phong kiến. Trong giới hạn hệ thống tư tưởng thống trị, Từ Hải chưa thể đấu tranh vì nhân dân, với ý thức phục vụ nhân dân. Tư tưởng Từ Hải là chủ nghĩa anh hùng cá nhân, ý chí cương quyền lãng mạn - “Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”. Nhưng cái cá tính anh hùng ấy lại gắn liền với khiếu công lý, và thực tế thì Từ Hải đã đứng hẳn về phe nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân:</p><p> </p><p><em>“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,</em></p><p><em>Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”</em></p><p> </p><p>Về phần giai cấp xuất thân, Nguyễn Du đã cố ý không cho điểm gì cụ thể. Thực ra sức mạnh của Từ Hải là ở cơ sở quần chúng. Từ Hải đại diện cho quần chúng nhân dân, với tư tưởng duy tâm lãng mạn, đồng thời với ý chí chính nghĩa của phong trào nhân dân thời phong kiến. Quân đội Từ Hải là quân đội khởi nghĩa, có căm thù chân chính, quen bênh lẽ phải, phạt những kẻ gian ác. Việc báo ân báo oán cho Kiều rõ ràng theo một thủ tục bắt nguồn từ tác phong tự phát của quần chúng khởi nghĩa. Trước khi gửi quân đi tầm nã những tên đã làm hại đến Kiều, Từ Hải tập trung binh tướng, giải thích rõ ràng những lý do đấu tranh: “Thệ sư kể hết mọi lời, Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy”. Rồi sau khi bọn phạm nhân bị bắt, việc xử tội cũng được thực hiện trước mặt toàn quân: “Ba quân đông mặt pháp trường, Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho coi”. Xét tới cùng, thì như thế cũng là một hình thức “phát động quần chúng”, gây căm thù và ý thức chính nghĩa, sau đấy quân đội Từ Hải lại càng hăng hái chiến đấu:</p><p> </p><p><em>“Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan,</em></p><p><em>Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài.</em></p><p><em>… Đòi cơn gió quét, mưa sa,</em></p><p><em>Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”.</em></p><p> <em></em></p><p>Đời phong kiến không đi xa hơn chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng trong phong trào quần chúng, cái chủ nghĩa cá nhân ấy lại là hình thức đại diện cho lực lượng của nhân dân, chủ yếu là nông dân đấu tranh. Với cá tính anh hùng, Từ Hải cũng xưng bá, xưng vương - “Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương”. Nhưng trong lúc còn chiến đấu chống triều đình, thái độ ngang tàng của Từ Hải tiêu biểu cho phản ứng của nhân dân chống “Những phường giá áo, túi cơm”, chống bọn quan liêu “vào luồn ra cúi”. Trước đề nghị đầu hàng của Hồ Tôn Hiến, tư tưởng kiêu hãnh của Từ Hải biểu hiện tinh thần chiến đấu anh dũng của nông dân vùng dậy:</p><p> </p><p><em>“Chọc trời, quấy nước mặc dầu.</em></p><p><em>Dọc ngang, nào biết trên đầu có ai!”</em></p><p> </p><p>Nhưng vì ý chí giải phóng của nhân dân đã phải thông qua tư tưởng lãng mạn anh hùng cá nhân chủ nghĩa, không thoát khỏi hình thức tư tưởng phong kiến nói chung. Từ Hải đã nghe lời khuyên dụ khéo léo của Kiều. Từ Hải nhất định không thèm thuồng gì những chức tước của triều đình - “Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?” -, nhưng Kiều đã khiêu khích lòng nhân từ cá nhân anh hùng, lợi dụng những thành kiến mà giai cấp thống trị đã gây ra để xuyên tạc và bôi nhọ những phong trào khởi nghĩa của nông dân:</p><p> </p><p><em>“Ngẫm từ dấy việc binh đao,</em></p><p><em>Đống xưong Vô định đã cao bằng đầu.</em></p><p><em>Làm chi để tiếng về sau,</em></p><p><em>Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào”.</em></p><p> </p><p>Từ Hải đã bị quyến rũ vì còn vướng vít với những hình thức duy tâm của tư tưởng phong kiến thống trị. Nhưng căn bản Từ Hải vẫn tiêu biểu cho phong trào nhân dân, và sau khi hy sinh anh dũng, còn đứng giữa chiến trường, tượng trưng cho lực lượng bất khuất của quần chúng:</p><p> </p><p><em>“Khí thiêng khi đã về thần,</em></p><p><em>Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!</em></p><p><em>Trơ như đá, vững như đồng,</em></p><p><em>Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời!”</em></p><p> </p><p>Kiều thì buổi đầu có đứng về phe nhân dân. Nhưng vì không được tham gia đấu tranh, nàng cũng không thay đổi lập trường căn bản. Trong việc báo oán, nàng đã có thái độ giai cấp rõ rệt: tha cho Hoạn thư, đại biểu của thành phần thống trị, chém bọn tay sai. Dưới một hình thức khảng khái - “Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”, Kiều đã bộc lộ tư tưởng nể nang, rụt rè của con người tiểu phong kiến đối với những tầng lớp trên. Với lập trường như thế, một khi được thoả mãn cá nhân, Kiều tất nhiên đã hết căm thù, hết thông cảm với cuộc đấu tranh của quần chúng. Sống trong phong trào khởi nghĩa, Kiều chỉ thấy bản thân mình yếu ớt, không thấy lực lượng hùng cường của nhân dân đương lên:</p><p> </p><p><em>“Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,</em></p><p><em>Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân”.</em></p><p> </p><p>Vì thế mà trước thủ đoạn mua chuộc của Hồ Tôn Hiến “Lại riêng một lễ với nàng” -, Kiều đã hoàn toàn quên cái ý chí lớn lao ngày mới gặp Từ Hải - “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”, Kiều đã trở lại với cái tham vọng hèn hạ của bọn tiểu phong kiến ao ước đi làm quan:</p><p> </p><p><em>“Bằng nay chịu tiếng vương thần,</em></p><p><em>Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì?”</em></p><p> </p><p>Nhưng cái tham vọng này lại vấp phải quy luật mâu thuẫn nội bộ trong giai cấp phong kiến, mâu thuẫn giữa những mơ mộng phú quý hiển vinh của tầng lớp tiểu phong kiến và những thủ đoạn đàn áp tàn nhẫn của bọn phong kiến thống trị:</p><p> </p><p><em>“Ngỡ là phú quý, phụ vinh.</em></p><p><em>Ai ngờ một phút tan tành thịt xương”.</em></p><p> </p><p>Chính mâu thuẫn ấy là nội dung thực tế của số phận bội bạc mà Kiều đã cảm thấy một cách mơ màng từ thuở nhỏ. Với thái độ đểu cáng của Hồ Tôn Hiến - “Bắt nàng thị yến dưới màn” -, vừa sau khi lợi dụng nàng để giết Từ Hải, đời bạc mệnh của Kiều bộc trần cái bí quyết của nó; bằng nghệ thuật đoạn trường, Kiều đã chỉ vào mặt tên đầu sỏ quan liêu:</p><p> </p><p><em>“Một cung gió tủi, mưa sầu,</em></p><p><em>Bốn dây giỏ máu năm đầu ngón tay!</em></p><p><em>… Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?</em></p><p><em>Nghe ra muôn oán, nghìn sầu lắm thay!</em></p><p><em>Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,</em></p><p><em>Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.</em></p><p><em>Cung cầm lựa những ngày xưa,</em></p><p><em>Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!”</em></p><p> </p><p>Với việc gieo mình xuống sông Tiền Đường, đời nàng Kiều đã kết thúc. Đoạn tái hồi Kim Trọng, theo thực chất của nó, là một đoạn thần thoại, giả sử rằng Kiều, sau khi chết, còn sống lại trong một thiên đường phong kiến lý tưởng. Đó là một cách lợi dụng hình ảnh của nàng để xây dựng một nhân sinh quan duy tâm, lấy danh nghĩa đạo đức mà phủ nhận hết giá trị thực tế của đời sống, lấy chữ tâm mà thủ tiêu mâu thuẫn giữa tài và mệnh, biện chính cái mệnh, bác bỏ cái tài, trút hết những tội ác của chế độ phong kiến vào trách nhiệm cá nhân của những nạn nhân của chế độ ấy:</p><p> </p><p><em>“Đã mang lấy nghiệp vào thân,</em></p><p><em>Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa.</em></p><p><em>Thiện căn ở tại lòng ta,</em></p><p><em>Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.</em></p><p> </p><p>Lý luận tôn giáo và triết học của Nguyễn Du hoàn toàn đối lập với nội dung chân chính của Truyện Kiều. Mâu thuẫn giữa lý tính phong kiến và cảm hứng phản phong trong con người nghệ sĩ phản ánh mâu thuẫn sâu sắc trong chế độ phong kiến suy đồi giữa giai cấp thống trị và nhân dân đấu tranh.</p><p> </p><p>Nguyễn Du xuất thân ở thành phần quý tộc, nhưng trải qua nhiều nỗi gian truân, đã phải lưu lạc, ẩn dật lâu năm trong dân gian, sống đời sống một anh nhà nho nghèo. Bản thân Nguyễn Du trong những năm ấy là một hạng quý tộc thất bại, nhưng kinh nghiệm đời sống, xét đến nội dung và thực chất, là kinh nghiệm tiểu phong kiến phá sản. Vì trong quá trình phân hoá giai cấp phong kiến ở thời đại suy đồi, thành phần phá sản nói chung là thành phần tiểu phong kiến, vậy những phần tử phong kiến khác, lúc phá sản, cũng phải đồng hoá với thành phần này. Theo nội dung thực tế khách quan, đời sống của họ là đời sống tiểu phong kiến phá sản, thực chất kinh nghiệm của họ là kinh nghiệm tiểu phong kiến phá sản.</p><p> </p><p>Vì thế mà trừ đoạn tái hồi Kim Trọng, trong ấy tư tưởng phong kiến thống trị lại thắng thế một cách rõ rệt, kinh nghiệm xã hội biểu hiện trong Truyện Kiều, lập trường tư tưởng Truyện Kiều, nói chung, là kinh nghiệm, lập trường tiểu phong kiến phá sản. Trên lập trường ấy, mâu thuẫn phát triển giữa tư tưởng phong kiến thống trị và ảnh hưởng của phong trào nhân dân mà những phần tử tiểu phong kiến bắt buộc phải tiếp thu trong quá trình phá sản của họ.</p><p> </p><p>Ảnh hưởng nhân dân đây gồm hai hướng chính: hướng thương nhân, tự do chủ nghĩa, và hướng nông dân và dân nghèo thành thị, công bình chủ nghĩa.</p><p> </p><p>Nguyễn Du, trên lập trường phong kiến nói chung, khinh và ghét giai cấp thương nhân, nhưng nhờ kinh nghiệm tiếp xúc với nhân dân, lại thông cảm với những xu hướng giải phóng cá nhân xuất hiện trên cơ sở kinh tế hàng hoá. Ví dụ như chuyện luyến ái giữa Kiều và Kim Trọng nằm rõ ràng trong bầu không khí thành thị, vì chỉ có ở thành thị hay gần thành thị thì mới có những di tích tài hoa và nổi tiếng như mả Đạm Tiên, những học sinh giàu có từ xa đến học, những “nhà Ngô Việt thương gia”. Nguyễn Du khi tán thành những hành động tự do của Kiều đi tìm Kim Trọng, đã chịu ảnh hưởng của những đòi hỏi mở rộng phong hoá, do đời sống thành thị gây ra. Rõ hơn nữa là việc tranh chấp giữa hai cha con họ Thúc, trong ấy Nguyễn Du đã đứng hẳn về bên Thúc sinh, chê trách Thúc ông, người thương nhân lạc hậu:</p><p> </p><p><em>“Dâu con trong đạo gia đình,</em></p><p><em>Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!”</em></p><p> </p><p>Giai cấp thương nhân Đông phương yếu ớt và phức tạp, dễ phong kiến hoá, không phải là lực lượng chính trong nhân dân. Trong thời đại phong kiến suy đồi ở bên ta, nó không đi xa hơn mức phát triển của giai cấp thương nhân Âu Tây vào thế kỷ thứ XIV, đầu XV. Yêu cầu tự do cá nhân của nó chỉ có một tầm quan trọng rất tương đối. Yêu cầu chủ yếu của phong trào nhân dân là yêu cầu của quần chúng cơ bản, nông dân và dân nghèo thành thị: nó là yêu cầu công lý. Công lý đây không phải chỉ là cái pháp lý hình thức mà bọn quan liêu lợi dụng để cấu kết với bọn lái buôn. Nó là cái quyền sinh sống căn bản của nhân dân. Chính tinh thần công lý chính nghĩa của quần chúng nhân dân đã ảnh hưởng sâu sắc đến Truyện Kiều, gây cảm hứng cho những lời sắt đá lên án những nỗi bất công của xã hội phong kiến, biểu dương người anh hùng khởi nghĩa.</p><p> </p><p>Trong lúc gia đình họ Vương còn đương “Êm đềm trướng rủ màn che”, bọn sai nha kéo đến một cách bất ngờ như một cơn bão giữa một bầu trời xanh. Nhưng đối với nhân dân lao động, đấy lại là một hiện tượng thường xuyên trong đời sống hàng ngày. Những nét điển hình mà Nguyễn Du vạch ra chính là những nét đã được tích luỹ trong kinh nghiệm xương máu lâu dài của quần chúng, mà cũng vì thế bức tranh của thi sĩ đạt được một giá trị hiện thực chân chính, có tác dụng đấu tranh chống phong kiến: </p><p> </p><p><em>“Người nách thước, kẻ tay đao,</em></p><p><em>Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi,</em></p><p><em>Già giang một lão một trai,</em></p><p><em>Một dây vô lại buộc hai thâm tình.</em></p><p><em>Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,</em></p><p><em>Rụng rời khung cửi, tan tành gói may”.</em></p><p> </p><p>Kẻ thù chính của nhân dân là chế độ phong kiến thống trị, nhưng đồng thời trong phong trào quần chúng cũng có cuộc đấu tranh của những thành phần cơ bản chống những hạng con buôn đầu cơ, đấu tranh nội bộ hạn chế những thủ đoạn bóc lột của họ, và đấu tranh cương quyết chống những phần tử làm tay sai cho bọn thống trị. Đặc biệt cái nghề “buôn thịt, bán người” là một nghề tay sai điển hình - “Về đây, nước trước bẻ hoa, Vương tôn, quý khách ắt là đua nhau” - nó là một nghề kết hợp chặt chẽ những thủ đoạn tàn bạo của chế độ phong kiến với tác hại của đồng tiền, dùng bạo lực mà biến người ta thành một món hàng có ý thức. Mà cái số phận bạc bội của Kiều ở lầu xanh cũng chỉ là phản ánh một hiện tượng thường xuyên trong quần chúng lao động luôn luôn phải bán vợ, bán con để trả nợ, nộp tô và đóng thuế. Qua tình trạng tha hoá của Kiều, chúng ta thấy xuất hiện cái nội dung kinh nghiệm đau đớn của người lao động bị khủng bố tàn nhẫn, đến nỗi chỉ còn một lối thoát thân, là tự nhận mình chỉ là một số tiền vốn cho người ta khai thác, nhưng trong lúc tự nhận như thế, lại vẫn có thái độ phản kháng:</p><p> </p><p><em>“Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,</em></p><p><em>Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.</em></p><p><em>… Nhưng tôi có sá chi tôi,</em></p><p><em>Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?”</em></p><p> </p><p>Đến đoạn biểu dương Từ Hải, ảnh hưởng của nhân dân lại càng rõ rệt, nâng cảm hứng thi sĩ lên mức anh hùng ca. Tuy Nguyễn Du chỉ quan niệm Từ Hải như một anh hùng cá nhân lãng mạn, “quen thú vẫy vùng”, nhưng sức mạnh của câu thơ chỉ có thể bắt nguồn từ những lời ca ngợi tự phát của nhân dân đề cao những người “phi thường” đã đứng dậy lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa:</p><p> </p><p><em>“Phong trần mài một lưỡi gươm,</em></p><p><em>Những phường giá áo, túi cơm sá gì!</em></p><p><em>Nghênh ngang một cõi biên thùy”…</em></p><p> </p><p>Tuy nhiên, vì tư tưởng của Nguyễn Du căn bản vẫn là phong kiến, ảnh hưởng của phong trào nhân dân cũng chỉ có tác dụng hữu hạn. Truyện Kiều có nhiều nét điển hình đi sâu vào thực tế xã hội đương thời, bộc lộ những mâu thuẫn nội tại và biểu hiện nội dung tiến hoá của nó, lấy cái hiện thực khách quan mà kết án chế độ áp bức bóc lột, đề cao những lực lượng hùng mạnh của nhân dân đấu tranh. Nhưng Nguyễn Du không diễn tả được cái hiện thực tíến hoá ấy trong cuộc biến chuyển cách mạng của nó. Tuy mỗi vai trò có một nội dung giai cấp nhất định, tính chất giai cấp của cái nội dung ấy lại không được chỉ định rõ ràng, do đấy nội dung tư tưởng chủ quan luôn luôn mâu thuẫn với nội dung xã hội chân chính. Không những Nguyễn Du đề cao triết lý Nho giáo và Phật giáo, phát triển những tình cảm nhu nhược, những tư tưởng đầu hàng, mà ngay trong những đoạn đấu tranh chân chính, nội dung tiến bộ cũng bị hạn chế. Truyện Kiều có chống chế độ tham quan ô lại, nhưng lại lên án bọn sai nha nhiều hơn là bọn quan trên, chống những phường “buôn thịt, bán người”, nhưng không nói đến những thủ đoạn căn bản bóc lột nhân dân lao động trong công cuộc sản xuất, ca tụng Từ Hải, nhưng không biểu dương những thành phần nhân dân trong quân đội khởi nghĩa.</p><p> </p><p>Nhưng với tất cả những giới hạn của thời đại và giai cấp tính của tác giả, Truyện Kiều là áng văn kiệt tác diễn tả sâu sắc nhất, trong truyền thống văn học dân tộc, hiện thực xã hội dưới chế độ phong kiến suy đồi, từ những mâu thuẫn nội bộ trong giai cấp thống trị đến cuộc đấu tranh anh dũng của quần chúng nhân dân.</p><p> </p><p>Về phần lý luận, Truyện Kiều biện hộ chế độ thống trị, nhưng trong cảm hứng thi văn, Nguyễn Du lại chuyển sang phe nhân dân, phản ứng thực tế xã hội đương thời với những nét thối nát và những lực lượng tiến bộ của nó, đề cao những giá trị nhân đạo chân chính: tự do, công lý, chính nghĩa. Mà vì Truyện Kiều là một trước tác văn nghệ, không phải là một cuốn sách lý luận, phần tiến bộ phải được coi là phần chủ yếu, vì chính đấy là phần có giá trị thi văn, phần mà chúng ta thông cảm và thưởng thức.</p><p> </p><p> </p><p><em><strong>TĐT</strong></em></p><p><em><strong>Nguồn: Tập san Đại học Sư phạm</strong></em></p><p><em><strong>Số 5 – Tháng 1-2-3 – 1956, Hà Nội</strong></em></p><p>________________________________________</p><p>[1] Thành phần công thương có tính chất đối lập với phong kiến nói chung, trong ấy có tiểu phong kiến, nhưng đặc biệt đối với tầng lớp này, cũng không thể hoàn toàn cách biệt. Vì những người công thương có vốn khá thì cũng mua ruộng đất. Một mặt khác, kinh tế tiểu phong kiến liên quan chặt chẽ với kinh tế hàng hoá. Họ Vương cũng có quan hệ với “thằng bán tơ” thì mới bị tên này “xưng xuất”. </p><p>[2] Entausserung, Entfremdung. Tiếng Pháp là: aliénation.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 38437, member: 28779"] [B][COLOR="Blue"]III - Kiều tìm lối thoát trong thành phần phú thương[/COLOR][/B] Gia đình họ Thúc thuộc về thành phần phú thương – “Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Chuy” -, nhưng đến đời con thì đã kết hôn với một nhà đại phong kiến, “Thiên quan chủng tế”, “họ Hoạn danh gia”. Trong hoàn cảnh ấy, việc Kiều hoàn lương không phải là dễ. Kiều đã thấy rõ những trở ngại và đặt điều kiện với Thúc sinh: [I]“Thương sao cho vẹn thì thương, Tính sao cho trọn mọi đường, thì vâng”.[/I] Sở dĩ Thúc sinh, lợi dụng lúc cha đi vắng, đã cả gan tự ý đưa nàng về nhà, là vì lễ giáo phong kiến đã mất uy thế rất nhiều trong giai cấp thương nhân. Những quan hệ mua bán hàng hoá gây một hình thức tự do cá nhân mà Thúc sinh đã phát triển một cách bừa bãi: “Trăm nghìn đổ một trận cười như không!”. Vì vậy mà đến lúc Thúc ông về nhà thấy một cô dâu bất ngờ, “Phong lôi nổi trận bời bời”, Thúc sinh đã có thái độ kiên quyết: [I]“Lượng trên quyết chẳng thương tình, Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”[/I] Trên kia đã nhận định rằng Nguyễn Du nói chung không thấy vai trò tiến bộ của đồng tiền. Nhưng riêng đây thì thi sĩ rõ ràng thông cảm với con người bướng bỉnh, tán thành cái tinh thần tự do xây dựng trên cơ sở thương nghiệp. Nhưng thực tế thì với tình trạng phong kiến hoá của họ Thúc, cái tinh thần ấy không thể nào bền bỉ. Trước những thủ đoạn nham hiểm của người vợ quý tộc, Thúc sinh sẽ tỏ thái độ nhu nhược khác hẳn với những “Lời sắt đá tri tri” mà anh ta đã dám dùng với bố. Trong suốt đoạn này, tính chất giai cấp của tâm lý cá nhân được bộc lộ một cách đặc biệt rõ rệt. Tâm trạng và tính tình của mỗi vai trò chỉ là hình thức chủ quan phản ánh quan hệ giai cấp khách quan trong xã hội. Sở dĩ Thúc sinh sợ vợ, không phải là vì bản thân có tính nhu nhược - bằng chứng là anh ta không nhu nhược đối với cha -, mà cũng không phải vì lễ giáo – trong chế độ đa thê thì vợ cả cũng phải phục tùng chồng, và việc lấy lẽ cũng là thông thường. Rõ ràng rằng cái mà Thúc sinh sợ, là cương vị chính trị và xã hội của họ Hoạn. Mà vì chính anh ta cũng muốn leo lên cái cương vị ấy, anh ta lại càng nhu nhược. Ví dụ như hôm gặp Kiều lần cuối cùng ở Quan Âm các, chùa nhà của Hoạn thư, anh ta giải thích rằng đã phải chịu nhục với vợ cả vì chưa có con. Thực ra nếu chỉ muốn có con thì cũng có thể có với Kiều, chứ không bắt buộc phải bám lấy họ Hoạn. Nhưng đứa con mà Thúc sinh muốn, lại là đứa con của một nhà quý tộc. Nghĩa là đời anh ta thì còn phải mang tiếng là lái buôn, nhưng đến đời con thì họ Thúc sẽ chuyển lên thành phần đại phong kiến. Đấy là lý do làm tiêu hết ý chí phản kháng: [I]“Quản chi lên thác xuống ghềnh, Cũng toan sống thác với tình cho xong. Tông đường chút chửa cam lòng, Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai”. [/I] Về phần Hoạn thư thì nhất định lòng ghen không phải là do “chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Vì cái ghen thường tình là ghen vì yêu, vì muốn. Nhưng rõ ràng rằng Hoạn thư không yêu, trái lại khinh chồng, không thiết gì tranh thủ lòng yêu của chồng, đồng thời cũng rất khinh người vợ lẽ. Cả vấn đề đối với nó là vấn đề ngôi thứ. Ví thử như Thúc sinh xin phép nó trước khi lấy Kiều, thì chắc nó cũng để cho làm, để giữ cương vị người trên. Nhưng việc cưới trộm ở Lâm Chuy đã phạm đến trật tự xã hội phong kiến: [I]“Ví bằng thú thật cùng ta, Cũng dong kẻ dưới, mới là lượng trên. … Lại còn bưng bít giấu quanh, Làm chi những thói trẻ ranh nực cười”.[/I] Lòng ghen của Hoạn thư xuất phát từ lòng tự cao, tự đại của con nhà đại phong kiến, từ lòng khinh miệt anh chồng con buôn. Mục đích của nó không phải là gạt người vợ lẽ để lấy lại tình yêu của chồng. Mục đích của nó là lập lại trật tự phong kiến, làm cho Thúc sinh hiểu rằng đã muốn leo lên thành phần thống trị, thì cũng không còn quyền yêu một người thường dân như Kiều, vì đối với bọn thống trị, phận sự của nhân dân chỉ là hầu hạ chúng: [I]“Làm ra con ở, chúa nhà, đôi nơi!”[/I] Cũng như tính ghen, tính ác của Hoạn thư có nội dung giai cấp rõ rệt. Chính cái “mưu cao” mà nó bàn với mẹ nó, là một thủ đoạn giặc cướp đúng theo bản chất của chế độ áp bức phong kiến: [I]“Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, Hãy đem dây xích buộc chân nàng về”.[/I] Bọn “gia nhân” này chính là “một bọn côn quang”, nhờ chúng mà họ Hoạn tự đặt mình trên hết luật pháp, đi bắt người lương thiện về làm nô tỳ - “Hoa nô truyền dậy đổi tên, Buồng the dậy ép vào phiên thị tỳ”. Đó là tập quán áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến, thực chất cướp bóc của chế độ phong kiến từ đời lãnh chúa quý tộc. Nhưng đến lúc kinh tế hàng hoá phát triển, nhân dân đã có cơ sở để xây dựng một số tự do nhân quyền. Bọn phong kiến bắt buộc phải công nhận một hình thức pháp lý nào đấy, đồng thời dùng đạo đức giả mạo để mê hoặc nhân tâm. Cấu kết với lái buôn, chúng lại lấy thái độ cao thượng để bóc lột họ. Cụ thể như “họ Hoạn danh gia” mà nhận họ Thúc làm rể, thì tất nhiên đã thu được một số tiền không nhỏ, vậy Hoạn thư cũng khó lòng mà ra mặt sinh sự với chồng. Mà đã lấy một anh con buôn thì lại càng phải giữ tiếng, không có lợi gì mà làm vỡ một cấu chuyện “Xấu chàng mà có ai khen chi mình”. Vì thế mà nó “ngoảnh mặt làm thinh”, rồi dùng âm mưu thâm độc để “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”. Tính ác nham hiểm của Hoạn thư đã đạt một mức quái gở. Nhưng cái quái gở ấy lại rất hiện thực, nó là cái quái gở của bọn phong kiến thống trị cấu kểt với lái buôn, nhưng đồng thời vẫn khinh miệt họ, làm ra vẻ cao thượng mà thực tế thì vẫn dùng những thủ đoạn áp bức tàn nhẫn. Trong con người “quỷ quái tinh ma” của Hoạn thư, Nguyễn Du đã xây dựng một điển hình hiện thực phong kiến thống trị trong thời đại suy đồi: [I]“Chước đâu, có chước lạ đời! Người đâu mà lại có người tinh ma! … Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm, giết người không dao”.[/I] Tuy nhiên, phản ứng của Kiều vẫn còn yếu ớt. Nàng cũng chỉ biết tăng cường nghệ thuật than phiền – “Bốn dây như khóc như than, Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng” -, cuối cùng thì “Rắp đem mệnh bạc, xin nhờ cửa Không”. Lòng từ bi của đạo Phật là một công cụ mê hoặc nhân dân, đồng thời cũng có tác dụng dàn xếp những việc tranh chấp giữa mọi phần tử bóc lột. Việc Kiều đi tu là một giải pháp dung hoà. Kiều thực tế đã bị liệt vào thân phận nô tỳ, nhưng về mặt tinh thần thì chưa tách rời giai cấp thống trị. Và tài hoa của nàng lại làm cho bọn thống trị phải trọng, thông cảm với nàng, tức là coi nàng như xứng đáng ở cùng một giai cấp với chúng: [I]“Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương, Ví chăng có số giàu sang, Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!”[/I] Vì thế mà Kiều đã được đi tụng kinh ở vườn sau nhà họ Hoạn. Nhưng cách dàn xếp này cũng không ổn, vì thực tế thì Kiều vẫn chỉ là một hạng nô tỳ trong tay Hoạn thư, vẫn bị đe doạ ghê gớm. Hôm nó bắt được nàng tâm sự với Thúc sinh, nàng đã thấy rõ: “Miệng hùm, nọc rắn ở đâu chốn này!”. Kiều chạy trốn lại tìm chỗ ẩn trong một nhà chùa. Nhưng đến lúc Giác Duyên biết câu chuyện của nàng, cái uy thế của họ Hoạn lại bắt bà sư phải đuổi nàng đi, vứt nàng vào tay bợm già: nhà chùa bộc lộ thực chất của nó là một tổ chức trong tay bọn thống trị và phục vụ chúng. Trở về thanh lâu, Kiều không còn có thể mong chờ gì ở chế độ thống trị. Nàng đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn: kinh nghiệm lý tưởng phong kiến với Kim Trọng, kinh nghiệm lãng mạn tự do với Thúc sinh, kinh nghiệm tôn giáo. Hết cả những đường lối mà chế độ phong kiến đề ra hoặc ra vẻ dung túng, đều đưa đến chỗ tai hoạ. Kiều lại được một thời gian lao động chân tay - “Dãi dầu tóc rối, da chì quản bao”. Đó là một điều kiện tốt để đi vào con đường duy nhất còn lại: con đường nhân dân đấu tranh. [B][COLOR="Blue"] IV - Kiều tìm đường giải phóng trong phong trào nông dân khởi nghĩa[/COLOR][/B] Việc kết duyên giữa Kiều và Từ Hải có một ý nghĩa chính trị rõ rệt. Nó là một việc kết nạp trong một phong trào khởi nghĩa. Đã hết hy vọng ở chế độ đương thời, Kiều, được gặp anh hùng, tỏ ngay thái độ dứt khoát. Vấn đề bây giờ không phải chỉ là vấn đề cá nhân, thoát khỏi lầu xanh, như ngày kết bạn với Thúc sinh. Kiều đặt rõ ràng tương lai của mình trong tương lai của xã hội: phải đánh đổ triều đình, đua lên một triểu mới, mở hy vọng cho những người bị áp bức bóc lột như nàng: [I]“Thưa rằng: Lượng cả bao dong, Tấn Dương được tháy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội, hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”.[/I] Từ Hải thoả lòng vì thấy mình được hiểu đến thâm tâm. Tình yêu xuất phát từ ý thức về một mục đích chung, nó là tình yêu giữa những người đồng tâm đồng ý: [I]“Nghe lời vừa ý, gật đầu, Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người? … Một lời đã biết đến ta, Muôn chung, nghìn tứ, cũng là có nhau”. [/I] Tất nhiên, đời phong kiến, quan hệ lý tưởng giữa người với người chỉ có thể đạt tới mức ân nghĩa cá nhân, cũng như quan nhiệm tiến bộ về xã hội không thoát khỏi phạm vi quân chủ. Kiều đặt hy vọng ở Từ Hải, chỉ mong thay thế triều này bằng một triều khác, và Từ Hải kết nghĩa với Kiều, cũng nhằm một đời phú quý với nàng. Nhưng dưới cái hình thức phong kiến ấy, nội dung tư tưởng vẫn có cơ sở chính nghĩa. Vấn đề hưởng phú quý lúc bấy giờ là phụ. Điểm chính là Kiều đã đứng về phe nhân dân chống chế độ thống trị. Bằng chứng là hôm Từ Hải cưỡi ngựa lên đường, nàng đã không ngần ngại gì trước những sự nguy hiểm của cuộc khởi nghĩa mà tha thiết xin theo: [I] “Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi”.[/I] Nhưng Từ Hải không muốn để cho Kiều thấy mình ở những hoàn cảnh khó khăn. Từ Hải muốn hình ảnh của mình trước con mắt người yêu hoàn toàn là hình ảnh lý tưởng của một vị anh hùng chiến thắng: [I]“Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. [/I] Không được trải qua kinh nghiệm đấu tranh, Kiều không có điều kiện để chuyển lên một lập trường thực sự tiến bộ. Vì thế mà sau khi được báo ân báo oán cá nhân, Kiều quên căm thù, “thật dạ, tin người”, mà nghe Hồ Tôn Hiến, khuyên Từ Hải đầu hàng. Từ Hải là một điển hình anh hùng nhân dân đời phong kiến. Trong giới hạn hệ thống tư tưởng thống trị, Từ Hải chưa thể đấu tranh vì nhân dân, với ý thức phục vụ nhân dân. Tư tưởng Từ Hải là chủ nghĩa anh hùng cá nhân, ý chí cương quyền lãng mạn - “Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”. Nhưng cái cá tính anh hùng ấy lại gắn liền với khiếu công lý, và thực tế thì Từ Hải đã đứng hẳn về phe nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân: [I]“Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”[/I] Về phần giai cấp xuất thân, Nguyễn Du đã cố ý không cho điểm gì cụ thể. Thực ra sức mạnh của Từ Hải là ở cơ sở quần chúng. Từ Hải đại diện cho quần chúng nhân dân, với tư tưởng duy tâm lãng mạn, đồng thời với ý chí chính nghĩa của phong trào nhân dân thời phong kiến. Quân đội Từ Hải là quân đội khởi nghĩa, có căm thù chân chính, quen bênh lẽ phải, phạt những kẻ gian ác. Việc báo ân báo oán cho Kiều rõ ràng theo một thủ tục bắt nguồn từ tác phong tự phát của quần chúng khởi nghĩa. Trước khi gửi quân đi tầm nã những tên đã làm hại đến Kiều, Từ Hải tập trung binh tướng, giải thích rõ ràng những lý do đấu tranh: “Thệ sư kể hết mọi lời, Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy”. Rồi sau khi bọn phạm nhân bị bắt, việc xử tội cũng được thực hiện trước mặt toàn quân: “Ba quân đông mặt pháp trường, Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho coi”. Xét tới cùng, thì như thế cũng là một hình thức “phát động quần chúng”, gây căm thù và ý thức chính nghĩa, sau đấy quân đội Từ Hải lại càng hăng hái chiến đấu: [I]“Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan, Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài. … Đòi cơn gió quét, mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. [/I] Đời phong kiến không đi xa hơn chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng trong phong trào quần chúng, cái chủ nghĩa cá nhân ấy lại là hình thức đại diện cho lực lượng của nhân dân, chủ yếu là nông dân đấu tranh. Với cá tính anh hùng, Từ Hải cũng xưng bá, xưng vương - “Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương”. Nhưng trong lúc còn chiến đấu chống triều đình, thái độ ngang tàng của Từ Hải tiêu biểu cho phản ứng của nhân dân chống “Những phường giá áo, túi cơm”, chống bọn quan liêu “vào luồn ra cúi”. Trước đề nghị đầu hàng của Hồ Tôn Hiến, tư tưởng kiêu hãnh của Từ Hải biểu hiện tinh thần chiến đấu anh dũng của nông dân vùng dậy: [I]“Chọc trời, quấy nước mặc dầu. Dọc ngang, nào biết trên đầu có ai!”[/I] Nhưng vì ý chí giải phóng của nhân dân đã phải thông qua tư tưởng lãng mạn anh hùng cá nhân chủ nghĩa, không thoát khỏi hình thức tư tưởng phong kiến nói chung. Từ Hải đã nghe lời khuyên dụ khéo léo của Kiều. Từ Hải nhất định không thèm thuồng gì những chức tước của triều đình - “Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?” -, nhưng Kiều đã khiêu khích lòng nhân từ cá nhân anh hùng, lợi dụng những thành kiến mà giai cấp thống trị đã gây ra để xuyên tạc và bôi nhọ những phong trào khởi nghĩa của nông dân: [I]“Ngẫm từ dấy việc binh đao, Đống xưong Vô định đã cao bằng đầu. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào”.[/I] Từ Hải đã bị quyến rũ vì còn vướng vít với những hình thức duy tâm của tư tưởng phong kiến thống trị. Nhưng căn bản Từ Hải vẫn tiêu biểu cho phong trào nhân dân, và sau khi hy sinh anh dũng, còn đứng giữa chiến trường, tượng trưng cho lực lượng bất khuất của quần chúng: [I]“Khí thiêng khi đã về thần, Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! Trơ như đá, vững như đồng,[/I] [I]Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời!”[/I] Kiều thì buổi đầu có đứng về phe nhân dân. Nhưng vì không được tham gia đấu tranh, nàng cũng không thay đổi lập trường căn bản. Trong việc báo oán, nàng đã có thái độ giai cấp rõ rệt: tha cho Hoạn thư, đại biểu của thành phần thống trị, chém bọn tay sai. Dưới một hình thức khảng khái - “Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”, Kiều đã bộc lộ tư tưởng nể nang, rụt rè của con người tiểu phong kiến đối với những tầng lớp trên. Với lập trường như thế, một khi được thoả mãn cá nhân, Kiều tất nhiên đã hết căm thù, hết thông cảm với cuộc đấu tranh của quần chúng. Sống trong phong trào khởi nghĩa, Kiều chỉ thấy bản thân mình yếu ớt, không thấy lực lượng hùng cường của nhân dân đương lên: [I]“Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân”.[/I] Vì thế mà trước thủ đoạn mua chuộc của Hồ Tôn Hiến “Lại riêng một lễ với nàng” -, Kiều đã hoàn toàn quên cái ý chí lớn lao ngày mới gặp Từ Hải - “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”, Kiều đã trở lại với cái tham vọng hèn hạ của bọn tiểu phong kiến ao ước đi làm quan: [I]“Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì?”[/I] Nhưng cái tham vọng này lại vấp phải quy luật mâu thuẫn nội bộ trong giai cấp phong kiến, mâu thuẫn giữa những mơ mộng phú quý hiển vinh của tầng lớp tiểu phong kiến và những thủ đoạn đàn áp tàn nhẫn của bọn phong kiến thống trị: [I]“Ngỡ là phú quý, phụ vinh. Ai ngờ một phút tan tành thịt xương”.[/I] Chính mâu thuẫn ấy là nội dung thực tế của số phận bội bạc mà Kiều đã cảm thấy một cách mơ màng từ thuở nhỏ. Với thái độ đểu cáng của Hồ Tôn Hiến - “Bắt nàng thị yến dưới màn” -, vừa sau khi lợi dụng nàng để giết Từ Hải, đời bạc mệnh của Kiều bộc trần cái bí quyết của nó; bằng nghệ thuật đoạn trường, Kiều đã chỉ vào mặt tên đầu sỏ quan liêu: [I]“Một cung gió tủi, mưa sầu, Bốn dây giỏ máu năm đầu ngón tay! … Hỏi rằng: Này khúc ở đâu? Nghe ra muôn oán, nghìn sầu lắm thay! Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này, Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ. Cung cầm lựa những ngày xưa, Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!”[/I] Với việc gieo mình xuống sông Tiền Đường, đời nàng Kiều đã kết thúc. Đoạn tái hồi Kim Trọng, theo thực chất của nó, là một đoạn thần thoại, giả sử rằng Kiều, sau khi chết, còn sống lại trong một thiên đường phong kiến lý tưởng. Đó là một cách lợi dụng hình ảnh của nàng để xây dựng một nhân sinh quan duy tâm, lấy danh nghĩa đạo đức mà phủ nhận hết giá trị thực tế của đời sống, lấy chữ tâm mà thủ tiêu mâu thuẫn giữa tài và mệnh, biện chính cái mệnh, bác bỏ cái tài, trút hết những tội ác của chế độ phong kiến vào trách nhiệm cá nhân của những nạn nhân của chế độ ấy: [I]“Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.[/I] Lý luận tôn giáo và triết học của Nguyễn Du hoàn toàn đối lập với nội dung chân chính của Truyện Kiều. Mâu thuẫn giữa lý tính phong kiến và cảm hứng phản phong trong con người nghệ sĩ phản ánh mâu thuẫn sâu sắc trong chế độ phong kiến suy đồi giữa giai cấp thống trị và nhân dân đấu tranh. Nguyễn Du xuất thân ở thành phần quý tộc, nhưng trải qua nhiều nỗi gian truân, đã phải lưu lạc, ẩn dật lâu năm trong dân gian, sống đời sống một anh nhà nho nghèo. Bản thân Nguyễn Du trong những năm ấy là một hạng quý tộc thất bại, nhưng kinh nghiệm đời sống, xét đến nội dung và thực chất, là kinh nghiệm tiểu phong kiến phá sản. Vì trong quá trình phân hoá giai cấp phong kiến ở thời đại suy đồi, thành phần phá sản nói chung là thành phần tiểu phong kiến, vậy những phần tử phong kiến khác, lúc phá sản, cũng phải đồng hoá với thành phần này. Theo nội dung thực tế khách quan, đời sống của họ là đời sống tiểu phong kiến phá sản, thực chất kinh nghiệm của họ là kinh nghiệm tiểu phong kiến phá sản. Vì thế mà trừ đoạn tái hồi Kim Trọng, trong ấy tư tưởng phong kiến thống trị lại thắng thế một cách rõ rệt, kinh nghiệm xã hội biểu hiện trong Truyện Kiều, lập trường tư tưởng Truyện Kiều, nói chung, là kinh nghiệm, lập trường tiểu phong kiến phá sản. Trên lập trường ấy, mâu thuẫn phát triển giữa tư tưởng phong kiến thống trị và ảnh hưởng của phong trào nhân dân mà những phần tử tiểu phong kiến bắt buộc phải tiếp thu trong quá trình phá sản của họ. Ảnh hưởng nhân dân đây gồm hai hướng chính: hướng thương nhân, tự do chủ nghĩa, và hướng nông dân và dân nghèo thành thị, công bình chủ nghĩa. Nguyễn Du, trên lập trường phong kiến nói chung, khinh và ghét giai cấp thương nhân, nhưng nhờ kinh nghiệm tiếp xúc với nhân dân, lại thông cảm với những xu hướng giải phóng cá nhân xuất hiện trên cơ sở kinh tế hàng hoá. Ví dụ như chuyện luyến ái giữa Kiều và Kim Trọng nằm rõ ràng trong bầu không khí thành thị, vì chỉ có ở thành thị hay gần thành thị thì mới có những di tích tài hoa và nổi tiếng như mả Đạm Tiên, những học sinh giàu có từ xa đến học, những “nhà Ngô Việt thương gia”. Nguyễn Du khi tán thành những hành động tự do của Kiều đi tìm Kim Trọng, đã chịu ảnh hưởng của những đòi hỏi mở rộng phong hoá, do đời sống thành thị gây ra. Rõ hơn nữa là việc tranh chấp giữa hai cha con họ Thúc, trong ấy Nguyễn Du đã đứng hẳn về bên Thúc sinh, chê trách Thúc ông, người thương nhân lạc hậu: [I]“Dâu con trong đạo gia đình, Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!”[/I] Giai cấp thương nhân Đông phương yếu ớt và phức tạp, dễ phong kiến hoá, không phải là lực lượng chính trong nhân dân. Trong thời đại phong kiến suy đồi ở bên ta, nó không đi xa hơn mức phát triển của giai cấp thương nhân Âu Tây vào thế kỷ thứ XIV, đầu XV. Yêu cầu tự do cá nhân của nó chỉ có một tầm quan trọng rất tương đối. Yêu cầu chủ yếu của phong trào nhân dân là yêu cầu của quần chúng cơ bản, nông dân và dân nghèo thành thị: nó là yêu cầu công lý. Công lý đây không phải chỉ là cái pháp lý hình thức mà bọn quan liêu lợi dụng để cấu kết với bọn lái buôn. Nó là cái quyền sinh sống căn bản của nhân dân. Chính tinh thần công lý chính nghĩa của quần chúng nhân dân đã ảnh hưởng sâu sắc đến Truyện Kiều, gây cảm hứng cho những lời sắt đá lên án những nỗi bất công của xã hội phong kiến, biểu dương người anh hùng khởi nghĩa. Trong lúc gia đình họ Vương còn đương “Êm đềm trướng rủ màn che”, bọn sai nha kéo đến một cách bất ngờ như một cơn bão giữa một bầu trời xanh. Nhưng đối với nhân dân lao động, đấy lại là một hiện tượng thường xuyên trong đời sống hàng ngày. Những nét điển hình mà Nguyễn Du vạch ra chính là những nét đã được tích luỹ trong kinh nghiệm xương máu lâu dài của quần chúng, mà cũng vì thế bức tranh của thi sĩ đạt được một giá trị hiện thực chân chính, có tác dụng đấu tranh chống phong kiến: [I]“Người nách thước, kẻ tay đao, Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi, Già giang một lão một trai, Một dây vô lại buộc hai thâm tình. Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung cửi, tan tành gói may”.[/I] Kẻ thù chính của nhân dân là chế độ phong kiến thống trị, nhưng đồng thời trong phong trào quần chúng cũng có cuộc đấu tranh của những thành phần cơ bản chống những hạng con buôn đầu cơ, đấu tranh nội bộ hạn chế những thủ đoạn bóc lột của họ, và đấu tranh cương quyết chống những phần tử làm tay sai cho bọn thống trị. Đặc biệt cái nghề “buôn thịt, bán người” là một nghề tay sai điển hình - “Về đây, nước trước bẻ hoa, Vương tôn, quý khách ắt là đua nhau” - nó là một nghề kết hợp chặt chẽ những thủ đoạn tàn bạo của chế độ phong kiến với tác hại của đồng tiền, dùng bạo lực mà biến người ta thành một món hàng có ý thức. Mà cái số phận bạc bội của Kiều ở lầu xanh cũng chỉ là phản ánh một hiện tượng thường xuyên trong quần chúng lao động luôn luôn phải bán vợ, bán con để trả nợ, nộp tô và đóng thuế. Qua tình trạng tha hoá của Kiều, chúng ta thấy xuất hiện cái nội dung kinh nghiệm đau đớn của người lao động bị khủng bố tàn nhẫn, đến nỗi chỉ còn một lối thoát thân, là tự nhận mình chỉ là một số tiền vốn cho người ta khai thác, nhưng trong lúc tự nhận như thế, lại vẫn có thái độ phản kháng: [I]“Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra, Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời. … Nhưng tôi có sá chi tôi, Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?”[/I] Đến đoạn biểu dương Từ Hải, ảnh hưởng của nhân dân lại càng rõ rệt, nâng cảm hứng thi sĩ lên mức anh hùng ca. Tuy Nguyễn Du chỉ quan niệm Từ Hải như một anh hùng cá nhân lãng mạn, “quen thú vẫy vùng”, nhưng sức mạnh của câu thơ chỉ có thể bắt nguồn từ những lời ca ngợi tự phát của nhân dân đề cao những người “phi thường” đã đứng dậy lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa: [I]“Phong trần mài một lưỡi gươm, Những phường giá áo, túi cơm sá gì! Nghênh ngang một cõi biên thùy”…[/I] Tuy nhiên, vì tư tưởng của Nguyễn Du căn bản vẫn là phong kiến, ảnh hưởng của phong trào nhân dân cũng chỉ có tác dụng hữu hạn. Truyện Kiều có nhiều nét điển hình đi sâu vào thực tế xã hội đương thời, bộc lộ những mâu thuẫn nội tại và biểu hiện nội dung tiến hoá của nó, lấy cái hiện thực khách quan mà kết án chế độ áp bức bóc lột, đề cao những lực lượng hùng mạnh của nhân dân đấu tranh. Nhưng Nguyễn Du không diễn tả được cái hiện thực tíến hoá ấy trong cuộc biến chuyển cách mạng của nó. Tuy mỗi vai trò có một nội dung giai cấp nhất định, tính chất giai cấp của cái nội dung ấy lại không được chỉ định rõ ràng, do đấy nội dung tư tưởng chủ quan luôn luôn mâu thuẫn với nội dung xã hội chân chính. Không những Nguyễn Du đề cao triết lý Nho giáo và Phật giáo, phát triển những tình cảm nhu nhược, những tư tưởng đầu hàng, mà ngay trong những đoạn đấu tranh chân chính, nội dung tiến bộ cũng bị hạn chế. Truyện Kiều có chống chế độ tham quan ô lại, nhưng lại lên án bọn sai nha nhiều hơn là bọn quan trên, chống những phường “buôn thịt, bán người”, nhưng không nói đến những thủ đoạn căn bản bóc lột nhân dân lao động trong công cuộc sản xuất, ca tụng Từ Hải, nhưng không biểu dương những thành phần nhân dân trong quân đội khởi nghĩa. Nhưng với tất cả những giới hạn của thời đại và giai cấp tính của tác giả, Truyện Kiều là áng văn kiệt tác diễn tả sâu sắc nhất, trong truyền thống văn học dân tộc, hiện thực xã hội dưới chế độ phong kiến suy đồi, từ những mâu thuẫn nội bộ trong giai cấp thống trị đến cuộc đấu tranh anh dũng của quần chúng nhân dân. Về phần lý luận, Truyện Kiều biện hộ chế độ thống trị, nhưng trong cảm hứng thi văn, Nguyễn Du lại chuyển sang phe nhân dân, phản ứng thực tế xã hội đương thời với những nét thối nát và những lực lượng tiến bộ của nó, đề cao những giá trị nhân đạo chân chính: tự do, công lý, chính nghĩa. Mà vì Truyện Kiều là một trước tác văn nghệ, không phải là một cuốn sách lý luận, phần tiến bộ phải được coi là phần chủ yếu, vì chính đấy là phần có giá trị thi văn, phần mà chúng ta thông cảm và thưởng thức. [I][B]TĐT Nguồn: Tập san Đại học Sư phạm Số 5 – Tháng 1-2-3 – 1956, Hà Nội[/B][/I] ________________________________________ [1] Thành phần công thương có tính chất đối lập với phong kiến nói chung, trong ấy có tiểu phong kiến, nhưng đặc biệt đối với tầng lớp này, cũng không thể hoàn toàn cách biệt. Vì những người công thương có vốn khá thì cũng mua ruộng đất. Một mặt khác, kinh tế tiểu phong kiến liên quan chặt chẽ với kinh tế hàng hoá. Họ Vương cũng có quan hệ với “thằng bán tơ” thì mới bị tên này “xưng xuất”. [2] Entausserung, Entfremdung. Tiếng Pháp là: aliénation. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Nội dung xã hội trong Truyện Kiều (Trần Đức Thảo)
Top