Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179972" data-attributes="member: 288054"><p><strong><span style="font-size: 18px">c) Đạo gia và Đạo giáo</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- <strong>Đạo gia</strong>: Người đầu tiên đề xướng học thuyết Đạo gia là Lão Tử và người phát triển học thuyết này là Trang Tử.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Lão Tử:</em> Về tên tuổi và thời đại của Lão Tử ngày nay không được biết rõ ràng. Có ý kiến cho rằng Lão Tử tức là Lão Đam, tên là Lý Nhĩ, người nước Sở, sống vào thời Xuân Thu. Ông có soạn một quyển sách gồm hai thiên nói về “đạo” và “đức” hơn 5.000 chữ. Đó là cốt lõi của quyển <em>Lão Tử</em> (về sau còn gọi là Đạo đức kinh).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về mặt triết học, Lão Tử cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là “đạo”. Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Sau khi sự vật được tạo ra thì phải có quy luật để duy trì sự tồn tại của nó, quy luật ấy gọi là “đức”. Như vậy đạo đức ở đây là một phạm trù thuộc về triết học, khác với đạo đức của Nho gia là thuộc về phạm trù luân lý.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đồng thời, Lão Tử đã nhận thức được các mặt đối lập trong thế giới khách quan như phúc và họa, cứng và mềm, dài và ngắn cùng so sánh, cao và thấp cùng làm rõ sự khác nhau.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, tư tưởng triết học của Lão Tử vừa có yếu tố duy vật vừa có yếu tố biện chứng thô sơ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về cách quản lý đất nước, Lão Tử chủ trương vô vi, nước nhỏ, dân ít và ngu dân. Ông cho rằng cách tốt nhất làm cho xã hội được thái bình là giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sống của nhân dân, không thu thuế quá nhiều, không sống xa hoa. Đồng thời nên quay lại thời kỳ vừa thoát thai khỏi xã hội nguyên thủy, không cần chữ viết, không cần vũ khí, thuyền xe. Còn đối với nhân dân thì chỉ cần làm cho “tâm hồn họ trống rỗng nhưng bụng họ thì no, chí của họ yếu nhưng xương cốt của họ mạnh”. Như vậy họ sẽ không biết gì và không có ham muốn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Trang Tử</em> (khoảng 369-286 TCN) tên là Trang Chu, người nước Tống, sống vào thời Chiến Quốc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về mặt triết học, kế thừa tư tưởng của Lão Tử, Trang Tử cũng cho rằng “đạo” là nguồn gốc của sự vật, trời đất, thần thánh. Đồng thời từ chỗ cho vạn vật đều do đạo sinh ra, ông đã đi đến chỗ phủ nhận tồn tại khách quan, cho rằng “trời đất và ta cùng sinh ra vạn vật với ta là một” mà “đã cho là một rồi thì còn nói cái này cái kia làm gì nữa”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mặt khác, Trang Tử đã biến những yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đối, ngụy biện.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Trang Tử cho rằng chân lý khách quan là không có vì đứng từ các phía khác nhau mà xét sự vật thì sẽ đi đến những kết luận khác nhau. Do vậy, nếu cho là lớn thì vạn vật không có cái gì không lớn, nếu cho là nhỏ thì vạn vật không có cái gì không nhỏ...; nếu cho là đúng thì vạn vật không có cái gì không đúng, nếu cho là sai thì vạn vật không có cái gì không sai; nếu đứng ở phía tỉnh thì mộng là mộng, nếu đứng ở phía mộng thì tỉnh là mộng</em> v.v...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tư tưởng triết học của Trang Tử còn nhuốm màu sắc thần học khi ông nêu ra một con người lý tưởng gọi là “chân nhân”. Đó là con người đã đạt tới mức cao nhất của “đạo”, do đó khi ngủ không thấy chiêm bao, khi tỉnh không có lo âu, ăn không biết ngon, không biết sống là đáng vui, không biết chết là đáng ghét, nhất thế cũng không hối tiếc, đắc thắng cũng không vui mừng, lên cao không sợ, xuống nước không ướt, vào lửa không nóng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về chính trị, Trang Tử cũng chủ trương “vô vi” và tiến xa hơn Lão Tử, chủ trương đưa xã hội trở lại thời nguyên thủy, để nhân dân ở chung với chim muông, sống chung cùng vạn vật như vậy nhân dân sẽ chất phác mà chất phác thì bản tính của nhân dân còn nguyên vẹn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Chủ trương chính trị của Lão Tử và Trang Tử đều trái với tiến trình lịch sử nên không được giai cấp thống trị đương thời chấp nhận, nhưng tư tưởng của họ đã đặt cơ sở cho việc hình thành Đạo Giáo ở Trung Quốc sau này.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Các bài viết của Trang Tử và một số người thuộc phái Đạo gia đời sau được chép thành sách <em>Trang Tử</em> đến đời Đường được gọi là <em>Nam Hoa kinh.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- <strong>Đạo giáo</strong>: Từ thời cổ đại, trong xã hội Trung Quốc đã tồn tại các hình thức mê tín như cúng tế quỷ thần, phù phép đồng bóng, bói toán, đặc biệt là tư tưởng tin vào thần tiên. Tương truyền rằng ở ngoài biển khơi có ba ngọn núi tên là Bồng Lai, Phương Trương và Doanh Châu. Người ta có thể đi thuyền ra các nơi đó gặp tiên để xin thuốc trường sinh bất tử. Đến thời Đông Hán, những hình thức mê tín ấy kết hợp với học thuyết Đạo gia đã dẫn đến sự ra đời của Đạo giáo.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vị đạo sĩ được sử sách nói đến đầu tiên là Vu Cát, tác giả sách <em>Thái Bình kinh</em> sống vào giữa thế kỷ II. Nội dung của sách này gồm có âm dương, ngũ hành, phù phép, đồng bóng, ma quỷ. Đến cuối thế kỷ II, Đạo giáo chính thức ra đời với hai phái giáo: đạo Thái Bình và đạo Năm Đấu Gạo.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Người truyền bá <em>đạo Thái Bình</em> là <em>Trương Giác,</em> ông lấy <em>Thái Bình kinh</em> làm kinh điển nên tôn giáo của ông được gọi như vậy. Đạo Thái Bình một mặt tuyên truyền việc trường sinh bất tử, dùng phù phép tàn hương nước lã để chữa bệnh; mặt khác đề xướng chủ nghĩa bình quân, chủ trương ai cũng phải lao động, có làm mới có ăn, phản đối bọn thống trị vơ vét tài sản, mà không cứu giúp nhân dân nghèo khổ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Thái Bình đã được truyền bá trong phạm vi khá rộng, số tín đồ lên đến mấy trăm ngàn người. Năm 184, dưới sự lãnh đạo của Trương Giác, tín đồ Đạo Thái Bình nổi dậy khởi nghĩa, lịch sử gọi là khởi nghĩa của quân khăn vàng, nhưng đã bị đàn áp đẫm máu, Đạo Thái Bình tan rã.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Đạo Năm Đấu Gạo</em> do Trương Lăng thành lập ở Tứ Xuyên. Vì những người theo đạo phải nộp 5 đấu gạo nên gọi như vậy, lại vì Trương Lăng tự xưng là Thiên Sư nên còn gọi là đạo Thiên Sư.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Năm Đấu Gạo tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái thượng lão quân”, lấy sách <em>Lão Tử</em> làm kinh điển. Sau khi Trương Lăng chết, con là Trương Hoành, cháu là Trương Lỗ tiếp tục truyền đạo ở Tứ Xuyên, Trương Lỗ thành lập một chính quyền hợp nhất với tôn giáo, tự xưng là sư quân. Ở trong vùng kiểm soát của mình, đạo Năm Đấu Gạo thành lập các “nghĩa xá”, trong đó treo gạo thịt để cung cấp cho người đi đường ăn uống không phải trả tiền. Chính quyền của Trương Lỗ tồn tại được 30 năm, sau bị Tào Tháo đàn áp.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Đạo giáo chính thống:</em> Sau khi đạo Thái Bình và đạo Năm Đấu Gạo bị đàn áp, Đạo giáo bắt đầu phân hóa: một bộ phận vẫn lưu truyền trong dân gian, còn một bộ phận khác thì biến thành Đạo giáo chính thống.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Những người có vai trò quan trọng trong việc cải biến các hình thức Đạo giáo đầu tiên thành Đạo giáo chính thống là Cát Hồng, Khấu Liêm Chi, Lục Tu Tĩnh... sống vào thời Tấn, Nam Bắc triều.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Cát Hồng</em> (238-363) chủ trương kết hợp Đạo giáo với Phật giáo và Nho giáo lập thành Đạo Kim Đan của quý tộc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Khấu Liêm Chi</em> vốn là giáo đồ đạo Thiên Sư. Ông chủ trương bỏ các phù phép của đạo Năm Đấu Gạo, đặt ra các quy tắc mới lập nên đạo Thiên Sư mới gọi là đạo Bắc Thiên Sư.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Lục Tu Tĩnh</em> kết hợp đạo Thiên Sư với đạo Kim Đan làm một đồng thời dựa vào nghi thức của Phật giáo để đặt ra nghi thức cho Đạo giáo. Tôn giáo của Lục Tu Tĩnh được gọi là đạo Nam Thiên Sư. Sự xuất hiện hai đạo phái Nam Bắc Thiên Sư đánh dấu sự hình thành của Đạo giáo chính thống.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đối tượng thờ cúng của Đạo giáo chính thống là Lão Tử và các vị tiên.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Lão Tử được quan niệm là hóa thân của “đạo”, đã nhiều lần giáng sinh xuống cõi người. Đạo giáo lại cho rằng “đạo” đã sinh ra các tầng trời như Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh được gọi chung là Tam Thanh thiên. Lão Tử được suy tôn là “Thái thượng lão quân”, còn gọi là “Đạo đức thiên tôn” Ngự ở tầng Thái Thanh. Các vị tiên không những chỉ ở trên các tầng trời mà còn ở trong 36 động thiên và 72 phúc địa ở trên mặt đất.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mục đích tu luyện của tín đồ đạo giáo là trở thành các vị tiên trường sinh bất tử. Phương pháp tu luyện để trở thành tiên là luyện khí công, nhịn ăn lương thực (tịnh cốc), luyện đan.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Luyện đan là luyện thuốc tiên nhưng thực tế thì các thứ thuốc đó được luyện từ một số khoáng chất rất độc vì vậy uống xong không những không được trường sinh bất tử mà nhiều người đã bị ngộ độc chết.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo giáo đến thời Đường Tống được giai cấp thống trị nâng đỡ nên thế lực phát triển khá mạnh, nhưng từ Nguyên về sau thì ngày càng suy tàn. Tuy vậy Đạo giáo đã có những ảnh hưởng đáng kể đối với văn hóa Trung Quốc nhất là việc phát minh ra thuốc súng, phép dưỡng sinh và văn học nghệ thuật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>d) Pháp gia.</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Pháp gia là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước. Phái này xuất hiện từ thời Xuân Thu mà người khởi xướng đầu tiên là Quản Trọng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Quản Trọng</em> (? - 645 TCN) là Tướng quốc của vua Hoàn Công nước Tề. Ông đã đề ra một số chính sách cải cách làm cho nước Tề trở nên hùng mạnh và được làm bá chủ một thời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tiếp đó, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, thuộc về phái pháp gia còn có nhiều người khác, trong đó tiêu biểu nhất là Thương Ưởng và Hàn Phi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thương Ưởng là người đã giúp Tần Hiếu Công cải cách làm cho nước Tần trở thành nước giàu mạnh nhất ở Trung Quốc thời Chiến Quốc, trên cơ sở đó hơn một thế kỷ sau đã đánh bại các nước khác, thống nhất toàn Trung Quốc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hàn Phi (280? - 233 TCN) là đại biểu xuất sắc nhất của phái Pháp gia, nhưng ông có tật nói lắp không biện luận được nên đã tập trung sức lực để viết tác phẩm trình bày các luận thuyết của mình. Khi Tần đánh Hàn, vua Hàn sai Hàn Phi đi sứ nước Tần. Lúc đầu Hàn Phi được vua Tần (tức Tần Thủy Hoàng sau này) tiếp đãi tử tế nhưng sau bị bạn cùng học là Lý Tư gièm pha nên bị hạ nhục và phải uống thuốc độc tự tử.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Kế thừa và phát triển tư tưởng của các nhà Pháp gia đời trước, Hàn Phi cho rằng muốn trị nước tốt thì cần phải có 3 yếu tố: pháp, thế, thuật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sở dĩ dùng pháp luật, mệnh lệnh, hình phạt để cai trị là phương pháp có hiệu lực nhất là vì “dân vốn nhờn với lòng thương mà chỉ vâng theo uy lực”. Ông nêu một ví dụ: có một đứa con hư hỏng; cha mẹ, thầy giáo, làng xóm đều thương yêu, dạy dỗ bảo ban nó nhưng nó vẫn không thay đổi. Nhưng sau khi viên quan ở châu bộ cầm binh khí, thi hành pháp luật nhà nước lùng bắt kẻ xấu thì nó mới sợ hãi và sửa đổi tính nết.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhưng muốn “pháp” có thể thi hành được thì vua phải có “thế” tức là phải có đầy đủ uy quyền. Để chứng minh luận điểm của mình ông lấy ví dụ Khổng Tử là một người đầy đủ tài đức nhưng trong cả nước chỉ có 70 người theo ông. Còn Lỗ Ai Công là một ông vua vào loại kém mà nhân dân cả nước không có ai dám không thần phục. Đó là vì Lỗ Ai Công có thế lực, còn Khổng Tử chỉ có nhân nghĩa mà thôi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài “pháp” và “thế” còn cần phải có “thuật” tức là phương pháp điều hành. Thuật bao gồm 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là phương pháp chọn quan lại: chỉ căn cứ vào tài năng, không cần đức hạnh dòng dõi. Thuật khảo hạch và thưởng phạt là căn cứ theo trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công tác, làm tốt thì thưởng rất hậu, làm không tốt thì phạt rất nặng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Còn về đường lối xây dựng đất nước, Hàn Phi chủ trương chỉ chú ý vào hai việc là sản xuất nông nghiệp và chiến đấu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hàn Phi nói: <em>“... dân trong nước, mọi lời nói hợp với pháp luật, mọi việc làm dốc vào việc cày, cấy, kẻ dũng cảm dốc hết sức vào việc quân, do đó khi vô sự thì nước giàu, khi hữu sự thì binh mạnh. Đó là cái vốn của nghiệp vương, lại biết lợi dụng thời cơ của nước thì vượt ngũ đế, ngang tam vương tất là do pháp ấy”.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Còn văn hóa giáo dục thì không những không cần thiết, không đem lại lợi ích thiết thực mà còn có hại cho xã hội.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo Hàn Phi nếu khuyến khích việc học tập thì sẽ có ít người chịu cày ruộng và chiến đấu, do đó nước sẽ nghèo. Hơn nữa, người làm việc bằng trí óc nhiều thì pháp luật sẽ rối loạn. “Bởi vậy, nước của vị vua sáng suốt không cần sách vở, lấy pháp luật để dạy, không cần lời nói của các vua đời trước, dùng quan lại làm thầy giáo”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Phải thừa nhận rằng phái Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng mặt khác phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa giáo dục là đi ngược lại với sự phát triển của văn minh và làm cho mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt. Chính vì thế, sau khi thống nhất Trung Quốc, nhà Tần tiếp tục thi hành đường lối này nên chỉ tồn tại được 15 năm thì sụp đổ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ Hán về sau, tuy học thuyết Pháp gia không được chính thức công nhận, nhưng thực tế thì nhiều yếu tố của phái này vẫn được vận dụng để kết hợp với Nho gia trong việc trị nước.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>e) Mặc gia</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Người sáng lập phái Mặc gia là <em>Mặc Tử</em> (khoảng 468-376 TCN), người nước Lỗ. Về chủ trương chính trị, hạt nhân của tư tưởng Mặc Tử là thuyết “kiêm ái” (thương yêu mọi người).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ông cho rằng: “Phàm trong thiên hạ, sở dĩ có những điều oán thù tai vạ tranh cướp nhau đều là do không yêu thương nhau mà sinh ra”, vì vậy phải “thương yêu ai cũng như nhau”, phải “coi nước người khác như nước của mình, coi gia đình người khác như gia đình của mình, coi người khác như bản thân mình”. “Nếu mọi người trong thiên hạ thương yêu nhau, giữa các nước không tấn công lẫn nhau, giữa nhà này nhà khác không có chuyện rắc rối, thì giặc giã trộm cướp không có, vua tôi cha con đều có thể trên dưới yêu thương lẫn nhau, và như vậy thì thiên hạ sẽ ổn định”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Để thực hiện thuyết kiêm ái, “kẻ có sức phải giúp đỡ người khác, kẻ có của phải chia sẻ cho người khác, kẻ hiểu biết phải dạy dỗ người khác.” Hơn nữa phải tạo điều kiện cho những người già cả không vợ con thì có nơi nuôi dưỡng cho hết tuổi già, những trẻ nhỏ mồ côi không có cha mẹ thì có nơi nương tựa để khôn lớn”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Xuất phát từ hạt nhân tư tưởng kiêm ái ấy, Mặc Tử đề xướng chủ trương tiết kiệm (tiết dụng), vì nếu sống xa xỉ thì phải “giật cái ăn cái mặc của dân”. Đồng thời, Mặc Tử phản đối việc nghe âm nhạc, phản đối việc tổ chức đám tang linh đình, đặc biệt phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược, vì nó “tàn hại muôn dân”, “làm kiệt quệ của cải của trăm họ trong thiên hạ”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, tư tưởng chủ yếu của Mặc Tử cũng là lòng thương người, nhưng thuyết “kiêm ái” của Mặc gia khác chữ “nhân” của Nho gia ở chỗ đây là tình thương không có phân biệt thân sơ. Vì thế Mạnh Tử đã công kích Mặc gia là “không cha” mà không cha là cầm thú.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, Mặc Tử chủ trương người có tài đức (thượng hiền). Hễ bất cứ ai, kể cả nông dân và thợ thủ công, nếu có tài năng thì có thể đưa lên chức vị cao, nếu ai ngu đần thì hạ xuống, dù là dòng họ quý tộc, cho nên các quan không phải cứ sang trọng mãi, dân không phải hèn hạ suốt đời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tóm lại, tư tưởng của Mặc Tử có mặt phản ánh nguyện vọng của nhân dân lao động, nhưng thuyết kiêm ái của ông rõ ràng là mang tính không tưởng, vì vậy không được giai cấp thống trị áp dụng. Sau khi Mặc Tử chết, phái chính thống của Mặc gia phát triển thành phái hiệp khách chuyên phục vụ cho một số vua chúa quý tộc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(97, 189, 109)">( Còn Tiếp </span></strong><span style="color: rgb(97, 189, 109)">)</span></span></p><p><span style="color: rgb(97, 189, 109)"><span style="font-size: 18px"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục</span> </span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179972, member: 288054"] [B][SIZE=5]c) Đạo gia và Đạo giáo[/SIZE][/B] [SIZE=5] - [B]Đạo gia[/B]: Người đầu tiên đề xướng học thuyết Đạo gia là Lão Tử và người phát triển học thuyết này là Trang Tử. [I]Lão Tử:[/I] Về tên tuổi và thời đại của Lão Tử ngày nay không được biết rõ ràng. Có ý kiến cho rằng Lão Tử tức là Lão Đam, tên là Lý Nhĩ, người nước Sở, sống vào thời Xuân Thu. Ông có soạn một quyển sách gồm hai thiên nói về “đạo” và “đức” hơn 5.000 chữ. Đó là cốt lõi của quyển [I]Lão Tử[/I] (về sau còn gọi là Đạo đức kinh). Về mặt triết học, Lão Tử cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là “đạo”. Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Sau khi sự vật được tạo ra thì phải có quy luật để duy trì sự tồn tại của nó, quy luật ấy gọi là “đức”. Như vậy đạo đức ở đây là một phạm trù thuộc về triết học, khác với đạo đức của Nho gia là thuộc về phạm trù luân lý. Đồng thời, Lão Tử đã nhận thức được các mặt đối lập trong thế giới khách quan như phúc và họa, cứng và mềm, dài và ngắn cùng so sánh, cao và thấp cùng làm rõ sự khác nhau. Như vậy, tư tưởng triết học của Lão Tử vừa có yếu tố duy vật vừa có yếu tố biện chứng thô sơ. Về cách quản lý đất nước, Lão Tử chủ trương vô vi, nước nhỏ, dân ít và ngu dân. Ông cho rằng cách tốt nhất làm cho xã hội được thái bình là giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sống của nhân dân, không thu thuế quá nhiều, không sống xa hoa. Đồng thời nên quay lại thời kỳ vừa thoát thai khỏi xã hội nguyên thủy, không cần chữ viết, không cần vũ khí, thuyền xe. Còn đối với nhân dân thì chỉ cần làm cho “tâm hồn họ trống rỗng nhưng bụng họ thì no, chí của họ yếu nhưng xương cốt của họ mạnh”. Như vậy họ sẽ không biết gì và không có ham muốn. [I]Trang Tử[/I] (khoảng 369-286 TCN) tên là Trang Chu, người nước Tống, sống vào thời Chiến Quốc. Về mặt triết học, kế thừa tư tưởng của Lão Tử, Trang Tử cũng cho rằng “đạo” là nguồn gốc của sự vật, trời đất, thần thánh. Đồng thời từ chỗ cho vạn vật đều do đạo sinh ra, ông đã đi đến chỗ phủ nhận tồn tại khách quan, cho rằng “trời đất và ta cùng sinh ra vạn vật với ta là một” mà “đã cho là một rồi thì còn nói cái này cái kia làm gì nữa”. Mặt khác, Trang Tử đã biến những yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đối, ngụy biện. [I]Trang Tử cho rằng chân lý khách quan là không có vì đứng từ các phía khác nhau mà xét sự vật thì sẽ đi đến những kết luận khác nhau. Do vậy, nếu cho là lớn thì vạn vật không có cái gì không lớn, nếu cho là nhỏ thì vạn vật không có cái gì không nhỏ...; nếu cho là đúng thì vạn vật không có cái gì không đúng, nếu cho là sai thì vạn vật không có cái gì không sai; nếu đứng ở phía tỉnh thì mộng là mộng, nếu đứng ở phía mộng thì tỉnh là mộng[/I] v.v... Tư tưởng triết học của Trang Tử còn nhuốm màu sắc thần học khi ông nêu ra một con người lý tưởng gọi là “chân nhân”. Đó là con người đã đạt tới mức cao nhất của “đạo”, do đó khi ngủ không thấy chiêm bao, khi tỉnh không có lo âu, ăn không biết ngon, không biết sống là đáng vui, không biết chết là đáng ghét, nhất thế cũng không hối tiếc, đắc thắng cũng không vui mừng, lên cao không sợ, xuống nước không ướt, vào lửa không nóng. Về chính trị, Trang Tử cũng chủ trương “vô vi” và tiến xa hơn Lão Tử, chủ trương đưa xã hội trở lại thời nguyên thủy, để nhân dân ở chung với chim muông, sống chung cùng vạn vật như vậy nhân dân sẽ chất phác mà chất phác thì bản tính của nhân dân còn nguyên vẹn. Chủ trương chính trị của Lão Tử và Trang Tử đều trái với tiến trình lịch sử nên không được giai cấp thống trị đương thời chấp nhận, nhưng tư tưởng của họ đã đặt cơ sở cho việc hình thành Đạo Giáo ở Trung Quốc sau này. Các bài viết của Trang Tử và một số người thuộc phái Đạo gia đời sau được chép thành sách [I]Trang Tử[/I] đến đời Đường được gọi là [I]Nam Hoa kinh.[/I] - [B]Đạo giáo[/B]: Từ thời cổ đại, trong xã hội Trung Quốc đã tồn tại các hình thức mê tín như cúng tế quỷ thần, phù phép đồng bóng, bói toán, đặc biệt là tư tưởng tin vào thần tiên. Tương truyền rằng ở ngoài biển khơi có ba ngọn núi tên là Bồng Lai, Phương Trương và Doanh Châu. Người ta có thể đi thuyền ra các nơi đó gặp tiên để xin thuốc trường sinh bất tử. Đến thời Đông Hán, những hình thức mê tín ấy kết hợp với học thuyết Đạo gia đã dẫn đến sự ra đời của Đạo giáo. Vị đạo sĩ được sử sách nói đến đầu tiên là Vu Cát, tác giả sách [I]Thái Bình kinh[/I] sống vào giữa thế kỷ II. Nội dung của sách này gồm có âm dương, ngũ hành, phù phép, đồng bóng, ma quỷ. Đến cuối thế kỷ II, Đạo giáo chính thức ra đời với hai phái giáo: đạo Thái Bình và đạo Năm Đấu Gạo. Người truyền bá [I]đạo Thái Bình[/I] là [I]Trương Giác,[/I] ông lấy [I]Thái Bình kinh[/I] làm kinh điển nên tôn giáo của ông được gọi như vậy. Đạo Thái Bình một mặt tuyên truyền việc trường sinh bất tử, dùng phù phép tàn hương nước lã để chữa bệnh; mặt khác đề xướng chủ nghĩa bình quân, chủ trương ai cũng phải lao động, có làm mới có ăn, phản đối bọn thống trị vơ vét tài sản, mà không cứu giúp nhân dân nghèo khổ. Đạo Thái Bình đã được truyền bá trong phạm vi khá rộng, số tín đồ lên đến mấy trăm ngàn người. Năm 184, dưới sự lãnh đạo của Trương Giác, tín đồ Đạo Thái Bình nổi dậy khởi nghĩa, lịch sử gọi là khởi nghĩa của quân khăn vàng, nhưng đã bị đàn áp đẫm máu, Đạo Thái Bình tan rã. [I]Đạo Năm Đấu Gạo[/I] do Trương Lăng thành lập ở Tứ Xuyên. Vì những người theo đạo phải nộp 5 đấu gạo nên gọi như vậy, lại vì Trương Lăng tự xưng là Thiên Sư nên còn gọi là đạo Thiên Sư. Đạo Năm Đấu Gạo tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái thượng lão quân”, lấy sách [I]Lão Tử[/I] làm kinh điển. Sau khi Trương Lăng chết, con là Trương Hoành, cháu là Trương Lỗ tiếp tục truyền đạo ở Tứ Xuyên, Trương Lỗ thành lập một chính quyền hợp nhất với tôn giáo, tự xưng là sư quân. Ở trong vùng kiểm soát của mình, đạo Năm Đấu Gạo thành lập các “nghĩa xá”, trong đó treo gạo thịt để cung cấp cho người đi đường ăn uống không phải trả tiền. Chính quyền của Trương Lỗ tồn tại được 30 năm, sau bị Tào Tháo đàn áp. [I]Đạo giáo chính thống:[/I] Sau khi đạo Thái Bình và đạo Năm Đấu Gạo bị đàn áp, Đạo giáo bắt đầu phân hóa: một bộ phận vẫn lưu truyền trong dân gian, còn một bộ phận khác thì biến thành Đạo giáo chính thống. Những người có vai trò quan trọng trong việc cải biến các hình thức Đạo giáo đầu tiên thành Đạo giáo chính thống là Cát Hồng, Khấu Liêm Chi, Lục Tu Tĩnh... sống vào thời Tấn, Nam Bắc triều. [I]Cát Hồng[/I] (238-363) chủ trương kết hợp Đạo giáo với Phật giáo và Nho giáo lập thành Đạo Kim Đan của quý tộc. [I]Khấu Liêm Chi[/I] vốn là giáo đồ đạo Thiên Sư. Ông chủ trương bỏ các phù phép của đạo Năm Đấu Gạo, đặt ra các quy tắc mới lập nên đạo Thiên Sư mới gọi là đạo Bắc Thiên Sư. [I]Lục Tu Tĩnh[/I] kết hợp đạo Thiên Sư với đạo Kim Đan làm một đồng thời dựa vào nghi thức của Phật giáo để đặt ra nghi thức cho Đạo giáo. Tôn giáo của Lục Tu Tĩnh được gọi là đạo Nam Thiên Sư. Sự xuất hiện hai đạo phái Nam Bắc Thiên Sư đánh dấu sự hình thành của Đạo giáo chính thống. Đối tượng thờ cúng của Đạo giáo chính thống là Lão Tử và các vị tiên. Lão Tử được quan niệm là hóa thân của “đạo”, đã nhiều lần giáng sinh xuống cõi người. Đạo giáo lại cho rằng “đạo” đã sinh ra các tầng trời như Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh được gọi chung là Tam Thanh thiên. Lão Tử được suy tôn là “Thái thượng lão quân”, còn gọi là “Đạo đức thiên tôn” Ngự ở tầng Thái Thanh. Các vị tiên không những chỉ ở trên các tầng trời mà còn ở trong 36 động thiên và 72 phúc địa ở trên mặt đất. Mục đích tu luyện của tín đồ đạo giáo là trở thành các vị tiên trường sinh bất tử. Phương pháp tu luyện để trở thành tiên là luyện khí công, nhịn ăn lương thực (tịnh cốc), luyện đan. Luyện đan là luyện thuốc tiên nhưng thực tế thì các thứ thuốc đó được luyện từ một số khoáng chất rất độc vì vậy uống xong không những không được trường sinh bất tử mà nhiều người đã bị ngộ độc chết. Đạo giáo đến thời Đường Tống được giai cấp thống trị nâng đỡ nên thế lực phát triển khá mạnh, nhưng từ Nguyên về sau thì ngày càng suy tàn. Tuy vậy Đạo giáo đã có những ảnh hưởng đáng kể đối với văn hóa Trung Quốc nhất là việc phát minh ra thuốc súng, phép dưỡng sinh và văn học nghệ thuật. [B]d) Pháp gia.[/B] Pháp gia là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước. Phái này xuất hiện từ thời Xuân Thu mà người khởi xướng đầu tiên là Quản Trọng. [I]Quản Trọng[/I] (? - 645 TCN) là Tướng quốc của vua Hoàn Công nước Tề. Ông đã đề ra một số chính sách cải cách làm cho nước Tề trở nên hùng mạnh và được làm bá chủ một thời. Tiếp đó, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, thuộc về phái pháp gia còn có nhiều người khác, trong đó tiêu biểu nhất là Thương Ưởng và Hàn Phi. Thương Ưởng là người đã giúp Tần Hiếu Công cải cách làm cho nước Tần trở thành nước giàu mạnh nhất ở Trung Quốc thời Chiến Quốc, trên cơ sở đó hơn một thế kỷ sau đã đánh bại các nước khác, thống nhất toàn Trung Quốc. Hàn Phi (280? - 233 TCN) là đại biểu xuất sắc nhất của phái Pháp gia, nhưng ông có tật nói lắp không biện luận được nên đã tập trung sức lực để viết tác phẩm trình bày các luận thuyết của mình. Khi Tần đánh Hàn, vua Hàn sai Hàn Phi đi sứ nước Tần. Lúc đầu Hàn Phi được vua Tần (tức Tần Thủy Hoàng sau này) tiếp đãi tử tế nhưng sau bị bạn cùng học là Lý Tư gièm pha nên bị hạ nhục và phải uống thuốc độc tự tử. Kế thừa và phát triển tư tưởng của các nhà Pháp gia đời trước, Hàn Phi cho rằng muốn trị nước tốt thì cần phải có 3 yếu tố: pháp, thế, thuật. Sở dĩ dùng pháp luật, mệnh lệnh, hình phạt để cai trị là phương pháp có hiệu lực nhất là vì “dân vốn nhờn với lòng thương mà chỉ vâng theo uy lực”. Ông nêu một ví dụ: có một đứa con hư hỏng; cha mẹ, thầy giáo, làng xóm đều thương yêu, dạy dỗ bảo ban nó nhưng nó vẫn không thay đổi. Nhưng sau khi viên quan ở châu bộ cầm binh khí, thi hành pháp luật nhà nước lùng bắt kẻ xấu thì nó mới sợ hãi và sửa đổi tính nết. Nhưng muốn “pháp” có thể thi hành được thì vua phải có “thế” tức là phải có đầy đủ uy quyền. Để chứng minh luận điểm của mình ông lấy ví dụ Khổng Tử là một người đầy đủ tài đức nhưng trong cả nước chỉ có 70 người theo ông. Còn Lỗ Ai Công là một ông vua vào loại kém mà nhân dân cả nước không có ai dám không thần phục. Đó là vì Lỗ Ai Công có thế lực, còn Khổng Tử chỉ có nhân nghĩa mà thôi. Ngoài “pháp” và “thế” còn cần phải có “thuật” tức là phương pháp điều hành. Thuật bao gồm 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là phương pháp chọn quan lại: chỉ căn cứ vào tài năng, không cần đức hạnh dòng dõi. Thuật khảo hạch và thưởng phạt là căn cứ theo trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công tác, làm tốt thì thưởng rất hậu, làm không tốt thì phạt rất nặng. Còn về đường lối xây dựng đất nước, Hàn Phi chủ trương chỉ chú ý vào hai việc là sản xuất nông nghiệp và chiến đấu. Hàn Phi nói: [I]“... dân trong nước, mọi lời nói hợp với pháp luật, mọi việc làm dốc vào việc cày, cấy, kẻ dũng cảm dốc hết sức vào việc quân, do đó khi vô sự thì nước giàu, khi hữu sự thì binh mạnh. Đó là cái vốn của nghiệp vương, lại biết lợi dụng thời cơ của nước thì vượt ngũ đế, ngang tam vương tất là do pháp ấy”.[/I] Còn văn hóa giáo dục thì không những không cần thiết, không đem lại lợi ích thiết thực mà còn có hại cho xã hội. Theo Hàn Phi nếu khuyến khích việc học tập thì sẽ có ít người chịu cày ruộng và chiến đấu, do đó nước sẽ nghèo. Hơn nữa, người làm việc bằng trí óc nhiều thì pháp luật sẽ rối loạn. “Bởi vậy, nước của vị vua sáng suốt không cần sách vở, lấy pháp luật để dạy, không cần lời nói của các vua đời trước, dùng quan lại làm thầy giáo”. Phải thừa nhận rằng phái Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng mặt khác phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa giáo dục là đi ngược lại với sự phát triển của văn minh và làm cho mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt. Chính vì thế, sau khi thống nhất Trung Quốc, nhà Tần tiếp tục thi hành đường lối này nên chỉ tồn tại được 15 năm thì sụp đổ. Từ Hán về sau, tuy học thuyết Pháp gia không được chính thức công nhận, nhưng thực tế thì nhiều yếu tố của phái này vẫn được vận dụng để kết hợp với Nho gia trong việc trị nước. [B]e) Mặc gia[/B] Người sáng lập phái Mặc gia là [I]Mặc Tử[/I] (khoảng 468-376 TCN), người nước Lỗ. Về chủ trương chính trị, hạt nhân của tư tưởng Mặc Tử là thuyết “kiêm ái” (thương yêu mọi người). Ông cho rằng: “Phàm trong thiên hạ, sở dĩ có những điều oán thù tai vạ tranh cướp nhau đều là do không yêu thương nhau mà sinh ra”, vì vậy phải “thương yêu ai cũng như nhau”, phải “coi nước người khác như nước của mình, coi gia đình người khác như gia đình của mình, coi người khác như bản thân mình”. “Nếu mọi người trong thiên hạ thương yêu nhau, giữa các nước không tấn công lẫn nhau, giữa nhà này nhà khác không có chuyện rắc rối, thì giặc giã trộm cướp không có, vua tôi cha con đều có thể trên dưới yêu thương lẫn nhau, và như vậy thì thiên hạ sẽ ổn định”. Để thực hiện thuyết kiêm ái, “kẻ có sức phải giúp đỡ người khác, kẻ có của phải chia sẻ cho người khác, kẻ hiểu biết phải dạy dỗ người khác.” Hơn nữa phải tạo điều kiện cho những người già cả không vợ con thì có nơi nuôi dưỡng cho hết tuổi già, những trẻ nhỏ mồ côi không có cha mẹ thì có nơi nương tựa để khôn lớn”. Xuất phát từ hạt nhân tư tưởng kiêm ái ấy, Mặc Tử đề xướng chủ trương tiết kiệm (tiết dụng), vì nếu sống xa xỉ thì phải “giật cái ăn cái mặc của dân”. Đồng thời, Mặc Tử phản đối việc nghe âm nhạc, phản đối việc tổ chức đám tang linh đình, đặc biệt phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược, vì nó “tàn hại muôn dân”, “làm kiệt quệ của cải của trăm họ trong thiên hạ”. Như vậy, tư tưởng chủ yếu của Mặc Tử cũng là lòng thương người, nhưng thuyết “kiêm ái” của Mặc gia khác chữ “nhân” của Nho gia ở chỗ đây là tình thương không có phân biệt thân sơ. Vì thế Mạnh Tử đã công kích Mặc gia là “không cha” mà không cha là cầm thú. Trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, Mặc Tử chủ trương người có tài đức (thượng hiền). Hễ bất cứ ai, kể cả nông dân và thợ thủ công, nếu có tài năng thì có thể đưa lên chức vị cao, nếu ai ngu đần thì hạ xuống, dù là dòng họ quý tộc, cho nên các quan không phải cứ sang trọng mãi, dân không phải hèn hạ suốt đời. Tóm lại, tư tưởng của Mặc Tử có mặt phản ánh nguyện vọng của nhân dân lao động, nhưng thuyết kiêm ái của ông rõ ràng là mang tính không tưởng, vì vậy không được giai cấp thống trị áp dụng. Sau khi Mặc Tử chết, phái chính thống của Mặc gia phát triển thành phái hiệp khách chuyên phục vụ cho một số vua chúa quý tộc. [B][COLOR=rgb(97, 189, 109)]( Còn Tiếp [/COLOR][/B][COLOR=rgb(97, 189, 109)])[/COLOR][/SIZE] [COLOR=rgb(97, 189, 109)][SIZE=5][B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục[/SIZE] [/COLOR] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
Top