Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179971" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong>6. Tư tưởng và tôn giáo</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Lịch sử tư tưởng Trung Quốc</span></a><span style="font-size: 18px"> rất phong phú. Từ rất sớm, người Trung Quốc đã đưa ra những quan điểm để giải thích thế giới. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chiến tranh loạn lạc xảy ra triền miên, các nhà tư tưởng Trung Quốc quan tâm trước hết đến việc tìm kiếm đường lối tối ưu bảo đảm cho đất nước được ổn định, thống nhất, nhân dân được an cư lạc nghiệp. Học thuyết của các nhà tư tưởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành các trường phái tư tưởng của Trung Quốc thời cổ trung đại, trong đó quan trọng nhất là các phái Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>a) Âm dương - Bát quái - Ngũ hành - Âm dương gia</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Âm dương, bát quái, ngũ hành là những thuyết mà người Trung Quốc nêu ra từ thời cổ đại nhằm giải thích nguồn gốc của vạn vật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ những nhận thức rút ra được trong cuộc sống thực tế, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, trong vũ trụ có hai yếu tố cơ bản là âm và dương. Dương có các tính chất như: giống đực, ánh sáng, nóng, hoạt động, rắn rỏi... Âm thì có các tính chất ngược lại như: giống cái, bóng tối, lạnh, thụ động, mềm mỏng v.v... Âm và dương tác động vào nhau tạo thành tất cả mọi vật trong vũ trụ. Mọi tai dị trong thiên nhiên sở dĩ xảy ra là do sự không điều hòa của hai lực lượng ấy. Âm dương được gọi là lưỡng nghi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bát quái là 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. Các quẻ trong Bát quái được dùng những vạch liền (biểu tượng của dương) và vạch đứt (biểu tượng của âm) sắp xếp với nhau thành từng bộ ba để biểu thị.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bát quái tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới: Càn: trời, Khôn: đất, Chấn: sấm, Tốn: gió, Khảm: nước, Ly: lửa, Cấn: núi, Đoài: hồ. Trong Bát quái, hai quẻ càn, khôn là quan trọng nhất.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bát quái còn tượng trưng cho quan hệ gia đình như Càn: cha, Khôn: mẹ, Chấn: con trai cả, Tốn: con trai giữa, Khảm: con trai út, Ly: con gái cả, Cấn: con gái giữa, Đoài: con gái út.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tám quẻ Càn, Khôn..., mỗi quẻ đều có 3 vạch, gọi là những quẻ đơn. Tám quẻ đơn ấy lại phối hợp với nhau thành 64 quẻ kép (quẻ 6 vạch). Sự phối hợp bằng cách chồng 2 quẻ đơn với nhau ấy, nếu tạo ra được sự giao cảm giữa 2 quẻ trên dưới thì thành quẻ tốt (cát), nếu không tạo ra được sự giao cảm thì thành quẻ xấu (hung). Ví dụ: quẻ Thái được tạo thành bởi quẻ Khôn ở trên quẻ Càn, tức là đất ở trên trời, do đó khí dương phải thăng lên, khí âm phải hạ xuống. Hai khí giao cảm với nhau làm thay đổi vị trí, dẫn đến sự phát triển. Như vậy, quẻ Thái là quẻ tốt. Ngược lại, quẻ Bĩ được tạo thành bởi quẻ Càn trên quẻ Khôn, như vậy là trời đất đúng vị trí do dó không tạo ra được sự giao cảm nên không dẫn đến sự phát triển. Bởi vậy quẻ Bĩ là quẻ xấu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Với quan niệm 8 yếu tố vật chất như nước, lửa, núi, hồ v.v... tạo nên vũ trụ, đồng thời chú ý đến sự phát triển của sự vật, thuyết bát quái là một tư tưởng triết học mang tính chất duy vật và biện chứng, nhưng những yếu tố tích cực ấy rất hạn chế. Sự gán ghép nội dung cho các quẻ như Ly là lửa, là con gái đầu hoàn toàn áp đặt, không có cơ sở khoa học. Chính vì vậy thuyết bát quái đã trở thành cơ sở tốt cho việc bói toán.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngũ hành là 5 tác nhân tạo nên sự vật, gồm: Mộc (gỗ), Hỏa (lửa), Thổ (đất), Kim (không khí), Thủy (nước).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><em>Âm dương gia</em> </span></a><span style="font-size: 18px">là trường phái tư tưởng ra đời vào thời Chiến Quốc. Trường phái này dựa vào thuyết Âm dương Ngũ hành để giải thích sự biến hóa trong giới tự nhiên và sự phát triển của xã hội.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Để giải thích sự biến đổi của sự vật, phái âm dương gia nêu ra quy luật về mối quan hệ tương sinh tương thắng của Ngũ hành. Tương sinh là sinh ra nhau, cụ thể là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh thủy, Thủy sinh Mộc. Tương thắng là chống nhau, cụ thể là: Mộc thắng Thổ, Thổ thắng Thủy, Thủy thắng Hỏa, Hỏa thắng Kim, Kim thắng Mộc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngũ hành lại ứng với nhiều thứ khác như bốn mùa, bốn phương, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ âm, 10 can và các con số v.v... ví dụ:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mộc: mùa Xuân, phương Đông, màu xanh, vị chua...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hỏa: mùa Hạ, phương Nam, màu đỏ, vị đắng...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thổ: Giữa Hạ và Thu, trung ương, màu vàng, vị ngọt...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Kim: mùa Thu, phương Tây, màu trắng, vị cay...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thủy: mùa Đông, phương Bắc, màu đen, vị mặn...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sự biến chuyển của bốn mùa là tuân theo quy luật Ngũ hành tương sinh tức là Mộc sinh Hỏa thì Xuân sinh Hạ, Kim sinh Thủy thì Thu sinh Đông. Do ngũ hành có 5 thứ mà mùa chỉ có 4 mùa nên người ta đặt Thổ vào giữa Hạ và Thu tạo thành cái cầu nối giữa Hỏa và Kim để cho phù hợp với quy luật Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Tuy nhiên không phải tất cả những gì ứng với Ngũ hành đều có thể dùng quy luật đó để giải thích, ví dụ không thể nói phương Đông sinh ra phương Nam, màu xanh sinh ra màu đỏ, vị đắng sinh ra vị ngọt</em> v.v...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Còn sự khác biệt về khí hậu và thời tiết của bốn mùa thì phái âm dương gia lại dùng tác động của âm dương để giải thích. Theo họ, về mùa Xuân, khí trời (dương) hạ xuống khí đất (âm) dâng lên, trời đất hòa đồng, do đó cây cối đâm chồi nảy lộc. Còn mùa Đông, khí trời dâng lên, khí đất hạ xuống, trời đất không hòa đồng nên bị ngăn cách, không phát triển được.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhân vật tiêu biểu của phái Âm dương gia là Trâu Diễn người nước Tề. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Trâu Diễn là thuyết “Ngũ đức chuyển dịch”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo thuyết này, mỗi triều đại trong lịch sử Trung Quốc có một loại đức chi phối. Cái đức ấy được biểu hiện bằng Ngũ hành và vận động theo quy luật tương thắng của Ngũ hành. Phái Âm dương quả quyết rằng, trước khi thành lập một triều đại mới, trời cho một triệu trứng để biết được triều đại đó thuộc đức gì. Thời Hoàng Đế, trời cho thấy trước con dế trũi, dế trũi màu vàng, nên đức của Hoàng Đế là đức Thổ. Thời Hạ Vũ, trời cho thấy trước triệu chứng về thu đông mà cây cối không rụng lá, cây cối còn lá thì màu xanh nên đức của triều Hạ là Mộc. Thời Thương trời cho thấy trước có lưỡi gươm bằng đồng sinh ra ở trong nước nên đức của triều Thương là Kim. Thời Chu trời cho thấy trước chim hỏa xích ngậm sách đỏ đến chết trên bệ cúng thần đất nên đức của triều Chu là Hỏa. Vì vậy, triều Hạ đã thay thời Hoàng Đế, triều Thương thay triều Hạ, triều Chu thay triều Thương.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến thời Tây Hán, thuyết Âm dương Ngũ hành còn được Đổng Trọng Thư bổ sung, do đó càng có ảnh hưởng lâu dài trong tư tưởng triết học Trung Quốc và kể cả Việt Nam chúng ta.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>b) Nho gia</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên của Nho gia là Khổng Tử, sống vào thời Xuân Thu. Về sau Mạnh Tử (thời Chiến Quốc), Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) đã phát triển học thuyết này làm cho Nho học ngày càng thêm hoàn chỉnh.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>- </strong></span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-co-dai-nguyen-thuy-the-ky-v.108/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><strong><em>Khổng Tử</em></strong> <em>(551-479 TCN)</em></span></a></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Khổng Tử tên là Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ (ở tỉnh Sơn Đông ngày nay). Ông là một nhà tư tưởng lớn và là một nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ đại. Khổng Tử có làm một số chức quan ở nước Lỗ trong mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của ông là đi đến nhiều nước để trình bày chủ trương chính trị của mình và mở trường để dạy học. Tương truyền, số học trò của Khổng Tử có đến 3.000 người, trong đó có người thành đạt, sử sách thường gọi là thất thập nhị hiền.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đồng thời với việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách <em>Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu,</em>trong đó sách <em>Nhạc</em> bị thất truyền, 5 quyển còn lại về sau trở thành 5 tác phẩm kinh điển của Nho gia được gọi chung là Ngũ kinh.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Những lời nói của Khổng Tử và những câu hỏi của học trò của ông được chép lại thành sách <em>Luận ngữ.</em> Đó là tác phẩm chủ yếu để tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tư tưởng của Khổng Tử gồm 4 mặt là triết học, đạo đức, chính trị và giáo dục.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Về mặt triết học,</em> Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ trụ, do đó ông đã thể hiện một thái độ không rõ rệt về trời đất quỷ thần. Một mặt, ông cho rằng trời chỉ là giới tự nhiên, trong đó bốn mùa thay đổi, trăm vật sinh trưởng; nhưng mặt khác, ông lại cho rằng trời là một lực lượng có thể chi phối số phận và hoạt động của con người, do đó con người phải sợ mệnh trời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đối với quỷ thần, một mặt Khổng Tử tỏ thái độ hoài nghi khi nói rằng: “chưa biết được việc thờ người, làm sao biết được việc thờ quỷ thần”, “chưa biết được việc sống, làm sao biết được việc chết”; nhưng mặt khác ông lại rất coi trọng việc cúng tế, tang ma và ông cho rằng “tế thần xem như có thần”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Về mặt đạo đức,</em> Khổng Tử hết sức coi trọng vì đó là những chuẩn mực để duy trì trật tự xã hội.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nội dung của quan điểm đạo đức của Khổng Tử bao gồm rất nhiều mặt như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng... nhưng trong đó quan trọng hơn cả là “nhân”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhân, một mặt là lòng thương người, “điều mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác”, trái lại “mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”. Đồng thời đối với bản thân thì phải “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”, nếu “không hợp với lễ thì không nhìn, không hợp với lễ thì không nghe, không hợp với lễ thì không nói, không hợp với lễ thì không làm”. Ngoài ra, nhân còn bao gồm các nội dung khác như cung kính, nghiêm túc, thành thật, dũng cảm, rộng lượng, cần cù v.v... Như vậy, nhân là một phạm trù rất rộng, hầu như đồng nghĩa với đạo đức.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bên cạnh nhân, Khổng Tử còn rất chú trọng đến “lễ”, nhưng lễ theo Khổng Tử không phải là một tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề luôn luôn gắn liền với nhân. Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ, nhân là gốc, là nội dung, còn lễ là biểu hiện của nhân. Ví dụ: “Trong các lễ, xa xỉ chẳng bằng tiết kiệm, trong lễ tang, đầy đủ mọi nghi thức chẳng bằng thương xót”. Do đó “người không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được?” vì “nói về lễ không phải chỉ có lụa ngọc mà thôi”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Lễ không những chỉ là biểu hiện của nhân mà lễ còn có thể điều chỉnh đức nhân cho đúng mực. Khổng Tử nói: “cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì làm loạn, thẳng thắn mà không biết lễ thì làm phật ý người khác”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài “nhân” và “lễ”, Khổng Tử cũng đã nhắc đến “trí”, “tín” nhưng ông bàn về các nội dung này chưa nhiều.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về <em>đường lối trị nước,</em> Khổng Tử chủ trương phải dựa vào đạo đức. Ông nói: “cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nội dung của đức trị, theo Khổng Tử gồm ba điều, đó là làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học hành.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Một hôm, Khổng Tử đi đến nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe cho ông, Khổng Tử nói: “Thật là đông đúc!” Nhiễm Hữu hỏi: “Dân đông rồi thì phải làm gì?” Đáp: “Giáo dục họ”.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Biện pháp để thi hành đường lối đức trị là “phải thận trọng trong công việc, phải giữ được chữ tín, tiết kiệm trong công việc chi dùng, thương người, sử dụng sức dân vào thời gian hợp lý”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bên cạnh những chủ trương mang ít nhiều tính chất đổi mới đó, Khổng Tử cũng có mặt bảo thủ. Khổng Tử chủ trương những quy chế, lễ nghi được đặt ra từ thời Tây Chu là không được thay đổi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Về giáo dục,</em> Khổng Tử có những đóng góp rất quan trọng. Ông là người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. Mục đích của giáo dục là uốn nắn nhân cách và bồi dưỡng nhân tài, vì vậy phương châm giáo dục quan trọng của Khổng Tử là học lễ trước học văn sau.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ông nói: “Các trò vào phải hiếu với cha mẹ, ra phải kính mến các anh, nói năng phải thận trọng và thành thực, yêu thương mọi người và gần gũi người có lòng nhân. Sau khi thực hành đầy đủ các điều nói trên thì dành sức lực để học văn hóa”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Phương châm giáo dục thứ hai của Khổng Tử là học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong quá trình dạy học, Khổng Tử rất coi trọng phương pháp giảng dạy. Ông chú ý dẫn dắt học trò từng bước một để họ có thể suy nghĩ rút ra kết luận. Ông còn tùy theo trình độ, tính cách từng học trò mà dùng những phương pháp dạy khác nhau.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đối với học trò, ông yêu cầu họ trước hết phải thiết tha mong muốn hiểu biết, phải khiêm tốn, phải tranh thủ mọi điều kiện để học tập. Đồng thời ông còn khuyên học trò phải đánh giá đúng khả năng của mình, “biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, như vậy mới là biết”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tóm lại, Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn và là nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cổ đại. Tuy vậy, trong thời đại của ông (thời Xuân Thu), chủ trương chính trị của ông chưa được các vua chư hầu chấp nhận.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>- <em>Mạnh Tử</em></strong> <em>(371-289 TCN)</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mạnh Tử người nước Trâu (ở Sơn Đông ngày nay) là học trò của Tử Tư (tức Khổng Cấp) cháu nội của Khổng Tử. Ông là người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia thêm một bước.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện ở lòng tin vào mệnh trời. Mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mỹ cũng có thể cảm hóa được ngoại giới.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về đạo đức, tư tưởng Mạnh Tử có hai điểm mới:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Một là, Mạnh Tử cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm sinh gọi là tính thiện. Tính thiện ấy có sẵn từ khi con người mới sinh ra và được biểu hiện ở bốn mặt là nhân, nghĩa, lễ, trí. Trên cơ sở những biểu hiện đạo đức bẩm sinh ấy, nếu được giáo dục tốt thì sẽ đạt đến chỗ cực thiện. Ngược lại, nếu không được giáo dục thì bản tính tốt sẽ mất đi và tiêm nhiễm tính xấu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hai là, trong bốn biểu hiện đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, Mạnh Tử coi trọng nhất là nhân nghĩa, do đó không chú ý đến lợi. Nếu từ vua quan đến dân thường đều tranh nhau lợi thì nước sẽ nguy. Trái lại, chưa từng thấy người có nhân lại bỏ rơi người thân, chưa từng thấy người có nghĩa lại quên vua.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về chính trị, Mạnh Tử nhấn mạnh hai vấn đề là nhân chính và thống nhất. Tương tự như ý kiến của Khổng Tử, Mạnh Tử giải thích rằng sở dĩ phải thi hành đường lối nhân chính tức là dùng đạo đức để trị nước là vì “dùng sức mạnh để bắt người ta phục thì không phải là người ta phục từ trong lòng mà vì sức không đủ. Lấy đức để làm cho người ta phục thì trong lòng người ta vui và thực sự là phục vậy”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Điểm nổi bật nhất trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử là tư tưởng quý dân. Ông nói: “Dân quý nhất, đất nước thứ hai, vua thì coi nhẹ.” Quý dân là phải chăm lo đến đời sống của dân tức là phải đảm bảo ruộng đất cày cấy cho dân, phải thuế nhẹ, không được huy động nhân dân đi phu trong các vụ mùa màng để nhân dân được no đủ. Đồng thời phải chú ý bảo vệ tính mạng của dân tức là không được gây chiến tranh. Kẻ nào gây chiến tranh thì phải xử bằng cực hình.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Chủ trương thứ hai trong đường lối chính trị của Mạnh Tử là thống nhất. Mục đích của chủ trương này là muốn chấm dứt chiến tranh giữa các nước thời Chiến Quốc để toàn Trung Quốc được thái bình; vì vậy, biện pháp để thực hiện việc thống nhất không phải là chiến tranh mà là nhân chính. Theo Mạnh Tử, nếu có ông vua nào không thích giết người mà thi hành nhân chính thì mọi tầng lớp trong xã hội đều muốn được sống và làm việc trong đất nước của ông vua ấy, do đó ông vua ấy có thể thống nhất được thiên hạ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bên cạnh việc chăm lo đời sống của nhân dân, Mạnh Tử chủ trương phải chú ý mở rộng việc giáo dục đến tận nông thôn mà trước hết là để dạy cho học sinh cái nghĩa hiếu, lễ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, trong đường lối trị nước của Mạnh Tử có những đề xuất rất đáng trân trọng, nhưng thời Chiến Quốc là thời kỳ đang diễn ra cuộc chiến tranh để thôn tính lẫn nhau nên chủ trương của Mạnh Tử bị coi là viển vông không sát thực tế nên cũng không được các vua chấp nhận.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>- <em>Đổng Trọng Thư</em></strong> <em>(179-104 TCN)</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau khi nước Tần thống nhất Trung Quốc, triều Tần tiếp tục sử dụng tư tưởng Pháp gia làm đường lối trị nước, vì vậy triều Tần sớm bị lật đổ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Năm 136 TCN, chấp nhận ý kiến của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” (bỏ các phái khác đề cao một mình phái Nho). Từ đó Nho gia bắt đầu trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến Đổng Trọng Thư, học thuyết Nho gia được phát triển thêm một bước, nhất là về tư tưởng triết học và đạo đức.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về triết học, Đổng Trọng Thư có hai điểm mới đó là thuyết “thiên nhân cảm ứng” tức là quan hệ tác động qua lại giữa trời và người, đồng thời dùng âm dương ngũ hành để giải thích mọi sự vật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đổng Trọng Thư khẳng định: <em>“Trời là thủy tổ của muôn vật cho nên bao trùm tất cả không có ngoại lệ”. Trong muôn vật, do tinh túy của trời đất sinh ra, không gì quý bằng con người. Giữa trời và người lại có mối quan hệ qua lại. Khi quốc gia sắp bị hư hỏng về sự mất đạo, trời đem tai biến để trách bảo. Đã trách bảo mà người không biết tự xét, trời đem quái dị để làm cho sợ hãi. Thế mà người vẫn không biết đổi thì sự bại vong mới đến”. Ngược lại, sự cố gắng hết sức của con người cũng có thể tác động đến trời.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đồng thời Đổng Trọng Thư còn dùng thuyết âm dương ngũ hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn vật của ông do đó ông cũng phát triển thuyết âm dương ngũ hành thêm một bước.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ông cho rằng: <em>“Giữa trời đất, có hai khí âm dương bao trùm lấy con người giống như nước thường ngập con cá, chỗ khác với nước là có thể thấy và không thể thấy mà thôi”. Trong hai yếu tố âm dương, Đổng Trọng Thư quyết đoán rằng trời trọng dương, không trọng âm.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đối với ngũ hành, Đổng Trọng Thư nêu ra quy luật là liền nhau thì sinh ra nhau, cách nhau thì thắng nhau.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Thứ tự của ngũ hành là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Do vậy, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Đồng thời, Mộc thắng Thổ, Hỏa thắng Kim, Thổ thắng Thủy, Kim thắng Mộc, Thủy thắng Hỏa.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đổng Trọng Thư còn dùng ngày, tháng, bốn mùa trong năm và âm dương ngũ hành để giải thích số lượng các đốt xương và các bộ phận của con người.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về đạo đức, đóng góp quan trọng của Đổng Trọng Thư là việc nêu ra các phạm trù tam cương, ngũ thường, lục kỷ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tam cương là ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong ba quan hệ ấy, bề tôi, con và vợ phải phục tùng vua, cha, chồng. Hơn nữa, vua, cha, chồng là dương, bề tôi, con, vợ là âm, mà trời trọng dương không trọng âm, cho nên không những về mặt quan hệ xã hội mà theo ý trời, bề tôi, con, vợ đều phải ở địa vị phục tùng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngũ thường là <em>nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.</em> Những nội dung này đã có trong tư tưởng Khổng, Mạnh nhưng đến Đổng Trọng Thư mới ghép thành một hệ thống và coi đó là 5 tiêu chuẩn đạo đức thông thường nhất của người quân tử.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Lục kỷ là 6 mối quan hệ với những người ngang hàng với cha, ngang hàng với mẹ, với anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tam cương ngũ thường do Đổng Trọng Thư nêu ra đã trở thành những tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của Nho giáo và đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự của xã hội phong kiến ở Trung Quốc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về chính trị, Đổng Trọng Thư không có chủ trương gì mới mà chỉ cụ thể hóa tư tưởng của Khổng Mạnh trong hoàn cảnh lịch sử mới như hạn chế sự chênh lệch giàu nghèo, hạn chế sự chiếm đoạt ruộng đất, bỏ nô tì, trừ các tệ chuyên quyền giết người, giảm nhẹ thuế khóa, bỏ bớt lao dịch, chú trọng việc giáo dục.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, với những ý kiến bổ sung của Đổng Trọng Thư, các tư tưởng triết học, đạo đức, chính trị của Nho gia đã được hoàn chỉnh. Đến thời kỳ này tư tưởng Nho gia rất được đề cao và thường được gọi là Nho giáo. Đồng thời Khổng Tử được tôn làm giáo chủ của đạo Học.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- <em>Sự phát triển của Nho học đời Tống.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ đời Hán về sau, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ yếu của Trung Quốc. Cũng từ đời Hán, Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời. Từ đó, có nhiều nhà Nho cho rằng triết học của Nho gia quá đơn giản, do đó đã học tập một số yếu tố của hai học thuyết kia, đồng thời khai thác các thuyết âm dương ngũ hành... để bổ sung cho triết lý Nho gia thêm phần sâu sắc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Điểm chung của các nhà Nho đời Tống là muốn giải thích nguồn gốc của vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất mà họ gọi là lý và khí. Nói chung họ đều cho rằng lý có trước khí, vì vậy họ được gọi chung là phái lý học.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Người đầu tiên khởi xướng lý học là <em>Chu Đôn Di</em> (1017-1073). Ông cho rằng nguồn gốc của Vũ trụ là thái cực, cũng gọi là vô cực. Thái cực có hai thể: động và tĩnh. Động sinh ra dương, động cực rồi lại tĩnh. Tĩnh thì sinh ra âm, tĩnh cực rồi lại động.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Âm dương tác động với nhau mà sinh ra ngũ hành rồi sinh ra vạn vật. Ông còn thể hiện ý kiến của mình trong một biểu đồ nên tác phẩm của ông gọi là <em>“Thái cực đồ thuyết”.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đồng thời với Chu Đôn Di còn có Thiệu Ung (1011-1077) cũng cho rằng thái cực là nguồn gốc của Vũ trụ. Tiếp đó, thái cực sinh lưỡng nghi (âm dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng (thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm; hoặc Xuân, Hạ, Thu, Đông; hoặc Thủy, Hỏa, Mộc, Kim), tứ tượng sinh bát quái, bát quái tạo thành 64 quẻ, 64 quẻ ấy bao gồm tất cả mọi quy luật của sự vật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><img src="https://vi.kipkis.com/images/7/79/Kipkis.com-Lich-su-van-minh-the-gioi-21.jpeg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau Chu Đôn Di và Thiệu Ung, thời Tống còn có nhiều nhà lý học nổi tiếng như hai anh em Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107), Chu Hy (1130-1200) v.v... Ngoài việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa lý và khí, Trình Di và Chu Hy còn nêu ra phương pháp nhận thức “cách vật trí tri” nghĩa là phải thông qua việc nghiên cứu các sự vật cụ thể để hiểu được cái lý của sự vật tức là cái khái niệm trừu tượng. Hai ông còn tách hai thiên <em>Đại Học</em> và <em>Trung Dung</em> trong sách lễ ký thành hai sách riêng. Từ đó, Đại Học, Trung Dung được gộp với Luận ngữ, Mạnh Tử thành bộ kinh điển thứ hai gọi là <em>Tứ thư.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Do quá tôn sùng và lĩnh hội một cách máy móc các ý kiến của những người sáng lập Nho giáo nên Nho giáo đời Tống đã trở nên bảo thủ và khắt khe hơn trước.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tóm lại, với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc trên 2.000 năm, Nho giáo đã đóng góp quan trọng về các mặt tổ chức xã hội, bồi dưỡng đạo đức, phát triển văn hóa giáo dục. Nhưng đến cuối xã hội phong kiến, do mặt phục cổ, bảo thủ của nó, Nho gia đã có trách nhiệm rất lớn trong việc làm cho xã hội Trung Quốc bị trì trệ, không nắm bắt kịp trào lưu văn minh trên thế giới.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">( Còn Tiếp </span></strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">)</span></span></p><p><span style="color: rgb(65, 168, 95)"><span style="font-size: 18px"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục</span> </span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179971, member: 288054"] [SIZE=5][B]6. Tư tưởng và tôn giáo[/B] [/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/'][SIZE=5]Lịch sử tư tưởng Trung Quốc[/SIZE][/URL][SIZE=5] rất phong phú. Từ rất sớm, người Trung Quốc đã đưa ra những quan điểm để giải thích thế giới. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chiến tranh loạn lạc xảy ra triền miên, các nhà tư tưởng Trung Quốc quan tâm trước hết đến việc tìm kiếm đường lối tối ưu bảo đảm cho đất nước được ổn định, thống nhất, nhân dân được an cư lạc nghiệp. Học thuyết của các nhà tư tưởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành các trường phái tư tưởng của Trung Quốc thời cổ trung đại, trong đó quan trọng nhất là các phái Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia. [B]a) Âm dương - Bát quái - Ngũ hành - Âm dương gia[/B] Âm dương, bát quái, ngũ hành là những thuyết mà người Trung Quốc nêu ra từ thời cổ đại nhằm giải thích nguồn gốc của vạn vật. Từ những nhận thức rút ra được trong cuộc sống thực tế, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, trong vũ trụ có hai yếu tố cơ bản là âm và dương. Dương có các tính chất như: giống đực, ánh sáng, nóng, hoạt động, rắn rỏi... Âm thì có các tính chất ngược lại như: giống cái, bóng tối, lạnh, thụ động, mềm mỏng v.v... Âm và dương tác động vào nhau tạo thành tất cả mọi vật trong vũ trụ. Mọi tai dị trong thiên nhiên sở dĩ xảy ra là do sự không điều hòa của hai lực lượng ấy. Âm dương được gọi là lưỡng nghi. Bát quái là 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. Các quẻ trong Bát quái được dùng những vạch liền (biểu tượng của dương) và vạch đứt (biểu tượng của âm) sắp xếp với nhau thành từng bộ ba để biểu thị. Bát quái tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới: Càn: trời, Khôn: đất, Chấn: sấm, Tốn: gió, Khảm: nước, Ly: lửa, Cấn: núi, Đoài: hồ. Trong Bát quái, hai quẻ càn, khôn là quan trọng nhất. Bát quái còn tượng trưng cho quan hệ gia đình như Càn: cha, Khôn: mẹ, Chấn: con trai cả, Tốn: con trai giữa, Khảm: con trai út, Ly: con gái cả, Cấn: con gái giữa, Đoài: con gái út. Tám quẻ Càn, Khôn..., mỗi quẻ đều có 3 vạch, gọi là những quẻ đơn. Tám quẻ đơn ấy lại phối hợp với nhau thành 64 quẻ kép (quẻ 6 vạch). Sự phối hợp bằng cách chồng 2 quẻ đơn với nhau ấy, nếu tạo ra được sự giao cảm giữa 2 quẻ trên dưới thì thành quẻ tốt (cát), nếu không tạo ra được sự giao cảm thì thành quẻ xấu (hung). Ví dụ: quẻ Thái được tạo thành bởi quẻ Khôn ở trên quẻ Càn, tức là đất ở trên trời, do đó khí dương phải thăng lên, khí âm phải hạ xuống. Hai khí giao cảm với nhau làm thay đổi vị trí, dẫn đến sự phát triển. Như vậy, quẻ Thái là quẻ tốt. Ngược lại, quẻ Bĩ được tạo thành bởi quẻ Càn trên quẻ Khôn, như vậy là trời đất đúng vị trí do dó không tạo ra được sự giao cảm nên không dẫn đến sự phát triển. Bởi vậy quẻ Bĩ là quẻ xấu. Với quan niệm 8 yếu tố vật chất như nước, lửa, núi, hồ v.v... tạo nên vũ trụ, đồng thời chú ý đến sự phát triển của sự vật, thuyết bát quái là một tư tưởng triết học mang tính chất duy vật và biện chứng, nhưng những yếu tố tích cực ấy rất hạn chế. Sự gán ghép nội dung cho các quẻ như Ly là lửa, là con gái đầu hoàn toàn áp đặt, không có cơ sở khoa học. Chính vì vậy thuyết bát quái đã trở thành cơ sở tốt cho việc bói toán. Ngũ hành là 5 tác nhân tạo nên sự vật, gồm: Mộc (gỗ), Hỏa (lửa), Thổ (đất), Kim (không khí), Thủy (nước). [/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/'][SIZE=5][I]Âm dương gia[/I] [/SIZE][/URL][SIZE=5]là trường phái tư tưởng ra đời vào thời Chiến Quốc. Trường phái này dựa vào thuyết Âm dương Ngũ hành để giải thích sự biến hóa trong giới tự nhiên và sự phát triển của xã hội. Để giải thích sự biến đổi của sự vật, phái âm dương gia nêu ra quy luật về mối quan hệ tương sinh tương thắng của Ngũ hành. Tương sinh là sinh ra nhau, cụ thể là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh thủy, Thủy sinh Mộc. Tương thắng là chống nhau, cụ thể là: Mộc thắng Thổ, Thổ thắng Thủy, Thủy thắng Hỏa, Hỏa thắng Kim, Kim thắng Mộc. Ngũ hành lại ứng với nhiều thứ khác như bốn mùa, bốn phương, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ âm, 10 can và các con số v.v... ví dụ: Mộc: mùa Xuân, phương Đông, màu xanh, vị chua... Hỏa: mùa Hạ, phương Nam, màu đỏ, vị đắng... Thổ: Giữa Hạ và Thu, trung ương, màu vàng, vị ngọt... Kim: mùa Thu, phương Tây, màu trắng, vị cay... Thủy: mùa Đông, phương Bắc, màu đen, vị mặn... Sự biến chuyển của bốn mùa là tuân theo quy luật Ngũ hành tương sinh tức là Mộc sinh Hỏa thì Xuân sinh Hạ, Kim sinh Thủy thì Thu sinh Đông. Do ngũ hành có 5 thứ mà mùa chỉ có 4 mùa nên người ta đặt Thổ vào giữa Hạ và Thu tạo thành cái cầu nối giữa Hỏa và Kim để cho phù hợp với quy luật Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. [I]Tuy nhiên không phải tất cả những gì ứng với Ngũ hành đều có thể dùng quy luật đó để giải thích, ví dụ không thể nói phương Đông sinh ra phương Nam, màu xanh sinh ra màu đỏ, vị đắng sinh ra vị ngọt[/I] v.v... Còn sự khác biệt về khí hậu và thời tiết của bốn mùa thì phái âm dương gia lại dùng tác động của âm dương để giải thích. Theo họ, về mùa Xuân, khí trời (dương) hạ xuống khí đất (âm) dâng lên, trời đất hòa đồng, do đó cây cối đâm chồi nảy lộc. Còn mùa Đông, khí trời dâng lên, khí đất hạ xuống, trời đất không hòa đồng nên bị ngăn cách, không phát triển được. Nhân vật tiêu biểu của phái Âm dương gia là Trâu Diễn người nước Tề. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Trâu Diễn là thuyết “Ngũ đức chuyển dịch”. Theo thuyết này, mỗi triều đại trong lịch sử Trung Quốc có một loại đức chi phối. Cái đức ấy được biểu hiện bằng Ngũ hành và vận động theo quy luật tương thắng của Ngũ hành. Phái Âm dương quả quyết rằng, trước khi thành lập một triều đại mới, trời cho một triệu trứng để biết được triều đại đó thuộc đức gì. Thời Hoàng Đế, trời cho thấy trước con dế trũi, dế trũi màu vàng, nên đức của Hoàng Đế là đức Thổ. Thời Hạ Vũ, trời cho thấy trước triệu chứng về thu đông mà cây cối không rụng lá, cây cối còn lá thì màu xanh nên đức của triều Hạ là Mộc. Thời Thương trời cho thấy trước có lưỡi gươm bằng đồng sinh ra ở trong nước nên đức của triều Thương là Kim. Thời Chu trời cho thấy trước chim hỏa xích ngậm sách đỏ đến chết trên bệ cúng thần đất nên đức của triều Chu là Hỏa. Vì vậy, triều Hạ đã thay thời Hoàng Đế, triều Thương thay triều Hạ, triều Chu thay triều Thương. Đến thời Tây Hán, thuyết Âm dương Ngũ hành còn được Đổng Trọng Thư bổ sung, do đó càng có ảnh hưởng lâu dài trong tư tưởng triết học Trung Quốc và kể cả Việt Nam chúng ta. [B]b) Nho gia[/B] Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên của Nho gia là Khổng Tử, sống vào thời Xuân Thu. Về sau Mạnh Tử (thời Chiến Quốc), Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) đã phát triển học thuyết này làm cho Nho học ngày càng thêm hoàn chỉnh. [B]- [/B][/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-co-dai-nguyen-thuy-the-ky-v.108/'][SIZE=5][B][I]Khổng Tử[/I][/B] [I](551-479 TCN)[/I][/SIZE][/URL] [SIZE=5] Khổng Tử tên là Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ (ở tỉnh Sơn Đông ngày nay). Ông là một nhà tư tưởng lớn và là một nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ đại. Khổng Tử có làm một số chức quan ở nước Lỗ trong mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của ông là đi đến nhiều nước để trình bày chủ trương chính trị của mình và mở trường để dạy học. Tương truyền, số học trò của Khổng Tử có đến 3.000 người, trong đó có người thành đạt, sử sách thường gọi là thất thập nhị hiền. Đồng thời với việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách [I]Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu,[/I]trong đó sách [I]Nhạc[/I] bị thất truyền, 5 quyển còn lại về sau trở thành 5 tác phẩm kinh điển của Nho gia được gọi chung là Ngũ kinh. Những lời nói của Khổng Tử và những câu hỏi của học trò của ông được chép lại thành sách [I]Luận ngữ.[/I] Đó là tác phẩm chủ yếu để tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử. Tư tưởng của Khổng Tử gồm 4 mặt là triết học, đạo đức, chính trị và giáo dục. [I]Về mặt triết học,[/I] Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ trụ, do đó ông đã thể hiện một thái độ không rõ rệt về trời đất quỷ thần. Một mặt, ông cho rằng trời chỉ là giới tự nhiên, trong đó bốn mùa thay đổi, trăm vật sinh trưởng; nhưng mặt khác, ông lại cho rằng trời là một lực lượng có thể chi phối số phận và hoạt động của con người, do đó con người phải sợ mệnh trời. Đối với quỷ thần, một mặt Khổng Tử tỏ thái độ hoài nghi khi nói rằng: “chưa biết được việc thờ người, làm sao biết được việc thờ quỷ thần”, “chưa biết được việc sống, làm sao biết được việc chết”; nhưng mặt khác ông lại rất coi trọng việc cúng tế, tang ma và ông cho rằng “tế thần xem như có thần”. [I]Về mặt đạo đức,[/I] Khổng Tử hết sức coi trọng vì đó là những chuẩn mực để duy trì trật tự xã hội. Nội dung của quan điểm đạo đức của Khổng Tử bao gồm rất nhiều mặt như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng... nhưng trong đó quan trọng hơn cả là “nhân”. Nhân, một mặt là lòng thương người, “điều mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác”, trái lại “mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”. Đồng thời đối với bản thân thì phải “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”, nếu “không hợp với lễ thì không nhìn, không hợp với lễ thì không nghe, không hợp với lễ thì không nói, không hợp với lễ thì không làm”. Ngoài ra, nhân còn bao gồm các nội dung khác như cung kính, nghiêm túc, thành thật, dũng cảm, rộng lượng, cần cù v.v... Như vậy, nhân là một phạm trù rất rộng, hầu như đồng nghĩa với đạo đức. Bên cạnh nhân, Khổng Tử còn rất chú trọng đến “lễ”, nhưng lễ theo Khổng Tử không phải là một tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề luôn luôn gắn liền với nhân. Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ, nhân là gốc, là nội dung, còn lễ là biểu hiện của nhân. Ví dụ: “Trong các lễ, xa xỉ chẳng bằng tiết kiệm, trong lễ tang, đầy đủ mọi nghi thức chẳng bằng thương xót”. Do đó “người không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được?” vì “nói về lễ không phải chỉ có lụa ngọc mà thôi”. Lễ không những chỉ là biểu hiện của nhân mà lễ còn có thể điều chỉnh đức nhân cho đúng mực. Khổng Tử nói: “cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì làm loạn, thẳng thắn mà không biết lễ thì làm phật ý người khác”. Ngoài “nhân” và “lễ”, Khổng Tử cũng đã nhắc đến “trí”, “tín” nhưng ông bàn về các nội dung này chưa nhiều. Về [I]đường lối trị nước,[/I] Khổng Tử chủ trương phải dựa vào đạo đức. Ông nói: “cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục”. Nội dung của đức trị, theo Khổng Tử gồm ba điều, đó là làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học hành. [I]Một hôm, Khổng Tử đi đến nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe cho ông, Khổng Tử nói: “Thật là đông đúc!” Nhiễm Hữu hỏi: “Dân đông rồi thì phải làm gì?” Đáp: “Giáo dục họ”.[/I] Biện pháp để thi hành đường lối đức trị là “phải thận trọng trong công việc, phải giữ được chữ tín, tiết kiệm trong công việc chi dùng, thương người, sử dụng sức dân vào thời gian hợp lý”. Bên cạnh những chủ trương mang ít nhiều tính chất đổi mới đó, Khổng Tử cũng có mặt bảo thủ. Khổng Tử chủ trương những quy chế, lễ nghi được đặt ra từ thời Tây Chu là không được thay đổi. [I]Về giáo dục,[/I] Khổng Tử có những đóng góp rất quan trọng. Ông là người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. Mục đích của giáo dục là uốn nắn nhân cách và bồi dưỡng nhân tài, vì vậy phương châm giáo dục quan trọng của Khổng Tử là học lễ trước học văn sau. Ông nói: “Các trò vào phải hiếu với cha mẹ, ra phải kính mến các anh, nói năng phải thận trọng và thành thực, yêu thương mọi người và gần gũi người có lòng nhân. Sau khi thực hành đầy đủ các điều nói trên thì dành sức lực để học văn hóa”. Phương châm giáo dục thứ hai của Khổng Tử là học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế. Trong quá trình dạy học, Khổng Tử rất coi trọng phương pháp giảng dạy. Ông chú ý dẫn dắt học trò từng bước một để họ có thể suy nghĩ rút ra kết luận. Ông còn tùy theo trình độ, tính cách từng học trò mà dùng những phương pháp dạy khác nhau. Đối với học trò, ông yêu cầu họ trước hết phải thiết tha mong muốn hiểu biết, phải khiêm tốn, phải tranh thủ mọi điều kiện để học tập. Đồng thời ông còn khuyên học trò phải đánh giá đúng khả năng của mình, “biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, như vậy mới là biết”. Tóm lại, Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn và là nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cổ đại. Tuy vậy, trong thời đại của ông (thời Xuân Thu), chủ trương chính trị của ông chưa được các vua chư hầu chấp nhận. [B]- [I]Mạnh Tử[/I][/B] [I](371-289 TCN)[/I] Mạnh Tử người nước Trâu (ở Sơn Đông ngày nay) là học trò của Tử Tư (tức Khổng Cấp) cháu nội của Khổng Tử. Ông là người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia thêm một bước. Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện ở lòng tin vào mệnh trời. Mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mỹ cũng có thể cảm hóa được ngoại giới. Về đạo đức, tư tưởng Mạnh Tử có hai điểm mới: Một là, Mạnh Tử cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm sinh gọi là tính thiện. Tính thiện ấy có sẵn từ khi con người mới sinh ra và được biểu hiện ở bốn mặt là nhân, nghĩa, lễ, trí. Trên cơ sở những biểu hiện đạo đức bẩm sinh ấy, nếu được giáo dục tốt thì sẽ đạt đến chỗ cực thiện. Ngược lại, nếu không được giáo dục thì bản tính tốt sẽ mất đi và tiêm nhiễm tính xấu. Hai là, trong bốn biểu hiện đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, Mạnh Tử coi trọng nhất là nhân nghĩa, do đó không chú ý đến lợi. Nếu từ vua quan đến dân thường đều tranh nhau lợi thì nước sẽ nguy. Trái lại, chưa từng thấy người có nhân lại bỏ rơi người thân, chưa từng thấy người có nghĩa lại quên vua. Về chính trị, Mạnh Tử nhấn mạnh hai vấn đề là nhân chính và thống nhất. Tương tự như ý kiến của Khổng Tử, Mạnh Tử giải thích rằng sở dĩ phải thi hành đường lối nhân chính tức là dùng đạo đức để trị nước là vì “dùng sức mạnh để bắt người ta phục thì không phải là người ta phục từ trong lòng mà vì sức không đủ. Lấy đức để làm cho người ta phục thì trong lòng người ta vui và thực sự là phục vậy”. Điểm nổi bật nhất trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử là tư tưởng quý dân. Ông nói: “Dân quý nhất, đất nước thứ hai, vua thì coi nhẹ.” Quý dân là phải chăm lo đến đời sống của dân tức là phải đảm bảo ruộng đất cày cấy cho dân, phải thuế nhẹ, không được huy động nhân dân đi phu trong các vụ mùa màng để nhân dân được no đủ. Đồng thời phải chú ý bảo vệ tính mạng của dân tức là không được gây chiến tranh. Kẻ nào gây chiến tranh thì phải xử bằng cực hình. Chủ trương thứ hai trong đường lối chính trị của Mạnh Tử là thống nhất. Mục đích của chủ trương này là muốn chấm dứt chiến tranh giữa các nước thời Chiến Quốc để toàn Trung Quốc được thái bình; vì vậy, biện pháp để thực hiện việc thống nhất không phải là chiến tranh mà là nhân chính. Theo Mạnh Tử, nếu có ông vua nào không thích giết người mà thi hành nhân chính thì mọi tầng lớp trong xã hội đều muốn được sống và làm việc trong đất nước của ông vua ấy, do đó ông vua ấy có thể thống nhất được thiên hạ. Bên cạnh việc chăm lo đời sống của nhân dân, Mạnh Tử chủ trương phải chú ý mở rộng việc giáo dục đến tận nông thôn mà trước hết là để dạy cho học sinh cái nghĩa hiếu, lễ. Như vậy, trong đường lối trị nước của Mạnh Tử có những đề xuất rất đáng trân trọng, nhưng thời Chiến Quốc là thời kỳ đang diễn ra cuộc chiến tranh để thôn tính lẫn nhau nên chủ trương của Mạnh Tử bị coi là viển vông không sát thực tế nên cũng không được các vua chấp nhận. [B]- [I]Đổng Trọng Thư[/I][/B] [I](179-104 TCN)[/I] Sau khi nước Tần thống nhất Trung Quốc, triều Tần tiếp tục sử dụng tư tưởng Pháp gia làm đường lối trị nước, vì vậy triều Tần sớm bị lật đổ. Năm 136 TCN, chấp nhận ý kiến của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” (bỏ các phái khác đề cao một mình phái Nho). Từ đó Nho gia bắt đầu trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc. Đến Đổng Trọng Thư, học thuyết Nho gia được phát triển thêm một bước, nhất là về tư tưởng triết học và đạo đức. Về triết học, Đổng Trọng Thư có hai điểm mới đó là thuyết “thiên nhân cảm ứng” tức là quan hệ tác động qua lại giữa trời và người, đồng thời dùng âm dương ngũ hành để giải thích mọi sự vật. Đổng Trọng Thư khẳng định: [I]“Trời là thủy tổ của muôn vật cho nên bao trùm tất cả không có ngoại lệ”. Trong muôn vật, do tinh túy của trời đất sinh ra, không gì quý bằng con người. Giữa trời và người lại có mối quan hệ qua lại. Khi quốc gia sắp bị hư hỏng về sự mất đạo, trời đem tai biến để trách bảo. Đã trách bảo mà người không biết tự xét, trời đem quái dị để làm cho sợ hãi. Thế mà người vẫn không biết đổi thì sự bại vong mới đến”. Ngược lại, sự cố gắng hết sức của con người cũng có thể tác động đến trời.[/I] Đồng thời Đổng Trọng Thư còn dùng thuyết âm dương ngũ hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn vật của ông do đó ông cũng phát triển thuyết âm dương ngũ hành thêm một bước. Ông cho rằng: [I]“Giữa trời đất, có hai khí âm dương bao trùm lấy con người giống như nước thường ngập con cá, chỗ khác với nước là có thể thấy và không thể thấy mà thôi”. Trong hai yếu tố âm dương, Đổng Trọng Thư quyết đoán rằng trời trọng dương, không trọng âm.[/I] Đối với ngũ hành, Đổng Trọng Thư nêu ra quy luật là liền nhau thì sinh ra nhau, cách nhau thì thắng nhau. [I]Thứ tự của ngũ hành là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Do vậy, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Đồng thời, Mộc thắng Thổ, Hỏa thắng Kim, Thổ thắng Thủy, Kim thắng Mộc, Thủy thắng Hỏa.[/I] Đổng Trọng Thư còn dùng ngày, tháng, bốn mùa trong năm và âm dương ngũ hành để giải thích số lượng các đốt xương và các bộ phận của con người. Về đạo đức, đóng góp quan trọng của Đổng Trọng Thư là việc nêu ra các phạm trù tam cương, ngũ thường, lục kỷ. Tam cương là ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong ba quan hệ ấy, bề tôi, con và vợ phải phục tùng vua, cha, chồng. Hơn nữa, vua, cha, chồng là dương, bề tôi, con, vợ là âm, mà trời trọng dương không trọng âm, cho nên không những về mặt quan hệ xã hội mà theo ý trời, bề tôi, con, vợ đều phải ở địa vị phục tùng. Ngũ thường là [I]nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.[/I] Những nội dung này đã có trong tư tưởng Khổng, Mạnh nhưng đến Đổng Trọng Thư mới ghép thành một hệ thống và coi đó là 5 tiêu chuẩn đạo đức thông thường nhất của người quân tử. Lục kỷ là 6 mối quan hệ với những người ngang hàng với cha, ngang hàng với mẹ, với anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè. Tam cương ngũ thường do Đổng Trọng Thư nêu ra đã trở thành những tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của Nho giáo và đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự của xã hội phong kiến ở Trung Quốc. Về chính trị, Đổng Trọng Thư không có chủ trương gì mới mà chỉ cụ thể hóa tư tưởng của Khổng Mạnh trong hoàn cảnh lịch sử mới như hạn chế sự chênh lệch giàu nghèo, hạn chế sự chiếm đoạt ruộng đất, bỏ nô tì, trừ các tệ chuyên quyền giết người, giảm nhẹ thuế khóa, bỏ bớt lao dịch, chú trọng việc giáo dục. Như vậy, với những ý kiến bổ sung của Đổng Trọng Thư, các tư tưởng triết học, đạo đức, chính trị của Nho gia đã được hoàn chỉnh. Đến thời kỳ này tư tưởng Nho gia rất được đề cao và thường được gọi là Nho giáo. Đồng thời Khổng Tử được tôn làm giáo chủ của đạo Học. - [I]Sự phát triển của Nho học đời Tống.[/I] Từ đời Hán về sau, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ yếu của Trung Quốc. Cũng từ đời Hán, Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời. Từ đó, có nhiều nhà Nho cho rằng triết học của Nho gia quá đơn giản, do đó đã học tập một số yếu tố của hai học thuyết kia, đồng thời khai thác các thuyết âm dương ngũ hành... để bổ sung cho triết lý Nho gia thêm phần sâu sắc. Điểm chung của các nhà Nho đời Tống là muốn giải thích nguồn gốc của vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất mà họ gọi là lý và khí. Nói chung họ đều cho rằng lý có trước khí, vì vậy họ được gọi chung là phái lý học. Người đầu tiên khởi xướng lý học là [I]Chu Đôn Di[/I] (1017-1073). Ông cho rằng nguồn gốc của Vũ trụ là thái cực, cũng gọi là vô cực. Thái cực có hai thể: động và tĩnh. Động sinh ra dương, động cực rồi lại tĩnh. Tĩnh thì sinh ra âm, tĩnh cực rồi lại động. Âm dương tác động với nhau mà sinh ra ngũ hành rồi sinh ra vạn vật. Ông còn thể hiện ý kiến của mình trong một biểu đồ nên tác phẩm của ông gọi là [I]“Thái cực đồ thuyết”.[/I] Đồng thời với Chu Đôn Di còn có Thiệu Ung (1011-1077) cũng cho rằng thái cực là nguồn gốc của Vũ trụ. Tiếp đó, thái cực sinh lưỡng nghi (âm dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng (thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm; hoặc Xuân, Hạ, Thu, Đông; hoặc Thủy, Hỏa, Mộc, Kim), tứ tượng sinh bát quái, bát quái tạo thành 64 quẻ, 64 quẻ ấy bao gồm tất cả mọi quy luật của sự vật. [IMG]https://vi.kipkis.com/images/7/79/Kipkis.com-Lich-su-van-minh-the-gioi-21.jpeg[/IMG] Sau Chu Đôn Di và Thiệu Ung, thời Tống còn có nhiều nhà lý học nổi tiếng như hai anh em Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107), Chu Hy (1130-1200) v.v... Ngoài việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa lý và khí, Trình Di và Chu Hy còn nêu ra phương pháp nhận thức “cách vật trí tri” nghĩa là phải thông qua việc nghiên cứu các sự vật cụ thể để hiểu được cái lý của sự vật tức là cái khái niệm trừu tượng. Hai ông còn tách hai thiên [I]Đại Học[/I] và [I]Trung Dung[/I] trong sách lễ ký thành hai sách riêng. Từ đó, Đại Học, Trung Dung được gộp với Luận ngữ, Mạnh Tử thành bộ kinh điển thứ hai gọi là [I]Tứ thư.[/I] Do quá tôn sùng và lĩnh hội một cách máy móc các ý kiến của những người sáng lập Nho giáo nên Nho giáo đời Tống đã trở nên bảo thủ và khắt khe hơn trước. Tóm lại, với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc trên 2.000 năm, Nho giáo đã đóng góp quan trọng về các mặt tổ chức xã hội, bồi dưỡng đạo đức, phát triển văn hóa giáo dục. Nhưng đến cuối xã hội phong kiến, do mặt phục cổ, bảo thủ của nó, Nho gia đã có trách nhiệm rất lớn trong việc làm cho xã hội Trung Quốc bị trì trệ, không nắm bắt kịp trào lưu văn minh trên thế giới. [B][COLOR=rgb(65, 168, 95)]( Còn Tiếp [/COLOR][/B][COLOR=rgb(65, 168, 95)])[/COLOR][/SIZE] [COLOR=rgb(65, 168, 95)][SIZE=5][B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục[/SIZE] [/COLOR] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
Top