Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179970" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong>5. Bốn phát minh lớn về kỹ thuật</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thời Trung đại, Trung Quốc có bốn phát minh rất quan trọng, đó là giấy, kỹ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>a) </strong><a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank"><strong>Kỹ thuật làm giấy</strong></a></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mãi đến thời Tây Hán, <a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank">người Trung Quố</a>c vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng thế kỷ II TCN, người Trung Quốc đã phát minh ra phương pháp dùng xơ gai để chế tạo giấy. Ngày nay ở nhiều nơi tại Trung Quốc đã phát hiện được giấy làm từ thời Tây Hán. Tuy nhiên giấy của thời kỳ này còn xấu, mặt không phẳng, khó viết, nên chủ yếu là dùng để gói.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến thời Đông Hán, năm 105, một viên quan hoạn tên là Thái Luân đã dùng vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách... làm nguyên liệu, đồng thời đã cải tiến kỹ thuật, do đó đã làm được loại giấy có chất lượng tốt. Từ đó giấy được dùng để viết một cách phổ biến thay thế cho các vật liệu được dùng trước đó. Do công lao ấy, năm 114, Thái Luân được vua Đông Hán phong tước “Long Đình hầu”. Nhân dân thì gọi giấy do ông chế tạo là “Giấy Thái hầu” và tôn ông làm tổ sư của nghề làm giấy.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vào khoảng thế kỷ III nghề làm giấy truyền sang Việt Nam, thế kỷ IV truyền sang Triều Tiên, thế kỷ V truyền sang Nhật Bản, thế kỷ VII truyền sang Ấn Độ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Giữa thế kỷ VIII, do cuộc chiến tranh giữa nhà Đường và Arập, kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc truyền sang Arập. Năm 1150, người Arập lại truyền nghề làm giấy sang Tây Ban Nha. Sau đó, nghề làm giấy lần lượt truyền sang Ý (1276), Đức (1320), Hà Lan (1323), Anh (1460). Sau khi nghề làm giấy được truyền bá rộng rãi, các chất liệu dùng để viết trước kia như lá cây ở Ấn Độ, giấy papirut ở Ai Cập, da cừu ở châu Âu... đều bị giấy thay thế.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>b) </strong><a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank"><strong>Kỹ thuật in</strong></a></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank">Kỹ thuật in </a>bắt nguồn từ việc khắc chữ trái trên các con dấu đã có trước từ đời Tần. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Đạo giáo đã in nhiều bùa chú để trừ ma.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hiện chưa xác minh được kỹ thuật in bắt đầu ra đời từ bao giờ, nhưng điều chắc chắn là đến giữa thế kỷ VII (đầu đời Đường), kỹ thuật in đã xuất hiện. Sử sách chép lúc bấy giờ nhà sư Huyền Trang đã cho in một số lượng lớn tượng Phổ Hiền để phân phát bốn phương. Năm 1966, ở Hàn Quốc phát hiện được kinh Đàlani in vào khoảng năm 704-751. Đây là ấn phẩm cổ nhất trên thế giới đã phát hiện được.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Kỹ thuật in khi mới ra đời là in bằng ván khắc. Đây là một phát minh rất quan trọng giúp người ta có thể in nhiều bản trong một thời gian ngắn, công nghệ khắc in đơn giản, ít tốn, vì vậy cách in bằng ván khắc này đã được sử dụng rất lâu dài. Tuy vậy, cách in này cũng có mặt chưa được tiện lợi lắm vì nếu không cần in nữa thì ván khắc sẽ vô dụng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Để khắc phục nhược điểm đó, đến thập kỷ 40 của thế kỷ XI, một người dân thường tên là Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung. Các con chữ được xếp lên một tấm sắt có sáp, xếp xong đem hơ nóng cho sáp chảy ra, dùng một tấm ván ép cho bằng mặt rồi để nguội. Như vậy sáp đã giữ chặt lấy chữ và có thể đem in.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Phát minh của Tất Thăng tuy là một tiến bộ nhảy vọt của nghề in nhưng vẫn còn một số nhược điểm như chữ hay mòn, khó tô mực, chữ không được sắc nét. Để khắc phục nhược điểm đó, từ thế kỷ XI, Thẩm Quát đã thử dùng chữ gỗ thay chữ đất sét nung nhưng chưa có kết quả. Đến thời Nguyên, Vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng con chữ rời bằng gỗ. Sau đó người ta còn dùng chữ rời bằng thiếc, đồng, chì, nhưng chữ rời bằng kim loại khó tô mực nên không được sử dụng rộng rãi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ đời Đường, kỹ thuật in ván khắc của Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Philippin, Arập rồi truyền dần sang châu Phi, châu Âu. Cuối thế kỷ XIV, ở Đức đã biết dùng phương pháp in bằng ván khắc để in tranh ảnh tôn giáo, kinh thánh và sách ngữ pháp. Năm 1448, Gutenbe (Gutenberg) người Đức dùng chữ rời bằng hợp kim và dùng mực dầu để in kinh thánh. Việc đó đã đặt cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>c) Thuốc súng</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thuốc súng là một phát minh ngẫu nhiên của những người luyện đan thuộc phái Đạo gia. Vốn là, đến đời Đường, Đạo giáo rất thịnh hành. Phái đạo gia tin rằng, người ta có thể luyện được thuốc trường sinh bất lão hoặc luyện được vàng, do đó, thuật luyện đan rất phát triển. Nguyên liệu mà người luyện đan sử dụng là diêm tiêu, lưu huỳnh và than gỗ. Trong quá trình luyện thuốc tiên thường xảy ra các vụ cháy làm bỏng tay, bỏng mặt, cháy nhà... và thế là họ đã tình cờ phát minh ra thuốc súng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến đầu thế kỷ X, thuốc súng bắt đầu được dùng để làm vũ khí. Những vũ khí đầu tiên này được gọi là tên lửa, cầu lửa, quạ lửa, pháo, đạn bay v.v...; tác dụng của chúng chỉ là để đốt doanh trại của đối phương mà thôi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến đời Tống, vũ khí làm bằng thuốc súng không ngừng được cải tiến. Trong cuộc chiến tranh Tống - Kim, quân Tống đã dùng một loại vũ khí gọi là “chấn thiên lôi”, tiếng nổ to như sấm, sức nóng tỏa ra hơn nửa mẫu đất, người và da bò nát vụn không còn dấu vết.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Năm 1132, Trung Quốc đã phát minh ra loại vũ khí hình ống gọi là “hỏa thương”. Lúc đầu hỏa thương làm bằng ống tre to, phía trong nạp thuốc súng, khi đánh nhau thì đốt ngòi, lửa sẽ phun ra thiêu cháy quân địch.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vào thế kỷ XIII, trong quá trình tấn công Trung Quốc, người Mông Cổ đã học tập được cách làm thuốc súng của Trung Quốc. Sau đó, người Mông Cổ chinh phục Tây Á, do đó đã truyền thuốc súng sang Arập. Người Arập lại truyền thuốc súng và súng vào châu Âu qua con đường Tây Ban Nha.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>d) Kim chỉ nam</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ thế kỷ III TCN, người Trung Quốc đã biết được từ tính và tính chỉ hướng của đá nam châm. Lúc bấy giờ Trung Quốc phát minh ra một dụng cụ chỉ hướng gọi là “tư nam”. Tư nam làm bằng đá thiên nhiên, mài thành hình cái thìa để trên một cái đĩa có khắc các phương hướng, cán thìa sẽ chỉ hướng nam. Như vậy tư nam chính là tổ tiên của kim chỉ nam. Tuy nhiên, tư nam còn có nhiều hạn chế như khó mài, nặng, lực ma sát lớn, chuyển động không nhạy, chỉ hướng không được chính xác nên chưa được áp dụng rộng rãi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến đời Tống, các thầy phong thủy đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo. Họ dùng kim sắt, mài mũi kim vào đá nam châm để thu từ tính, rồi dùng kim đó để làm la bàn. La bàn lúc đầu còn rất thô sơ: xâu kim nam châm qua cọng rơm sợi bấc đèn rồi thả nổi trên bát nước gọi là “thủy la bàn”, hoặc treo kim nam châm bằng một sợi tơ ở chỗ kín gió.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">La bàn được các thầy phong thủy sử dụng đầu tiên để xem hướng đất. Đến khoảng cuối thời Bắc Tống, la bàn được sử dụng trong việc đi biển. Khoảng nửa sau thế kỷ XII, la bàn do đường biển truyền sang Arập rồi truyền sang châu Âu. Người châu Âu cải tiến thành “la bàn khô” tức là la bàn có khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỷ XVI la bàn khô lại truyền trở lại Trung Quốc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">( Còn Tiếp </span></strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">)</span></span></p><p><span style="color: rgb(65, 168, 95)"><span style="font-size: 18px"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục</span> </span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179970, member: 288054"] [SIZE=5][B]5. Bốn phát minh lớn về kỹ thuật[/B] Thời Trung đại, Trung Quốc có bốn phát minh rất quan trọng, đó là giấy, kỹ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam. [B]a) [/B][URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/'][B]Kỹ thuật làm giấy[/B][/URL] Mãi đến thời Tây Hán, [URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/']người Trung Quố[/URL]c vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng thế kỷ II TCN, người Trung Quốc đã phát minh ra phương pháp dùng xơ gai để chế tạo giấy. Ngày nay ở nhiều nơi tại Trung Quốc đã phát hiện được giấy làm từ thời Tây Hán. Tuy nhiên giấy của thời kỳ này còn xấu, mặt không phẳng, khó viết, nên chủ yếu là dùng để gói. Đến thời Đông Hán, năm 105, một viên quan hoạn tên là Thái Luân đã dùng vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách... làm nguyên liệu, đồng thời đã cải tiến kỹ thuật, do đó đã làm được loại giấy có chất lượng tốt. Từ đó giấy được dùng để viết một cách phổ biến thay thế cho các vật liệu được dùng trước đó. Do công lao ấy, năm 114, Thái Luân được vua Đông Hán phong tước “Long Đình hầu”. Nhân dân thì gọi giấy do ông chế tạo là “Giấy Thái hầu” và tôn ông làm tổ sư của nghề làm giấy. Vào khoảng thế kỷ III nghề làm giấy truyền sang Việt Nam, thế kỷ IV truyền sang Triều Tiên, thế kỷ V truyền sang Nhật Bản, thế kỷ VII truyền sang Ấn Độ. Giữa thế kỷ VIII, do cuộc chiến tranh giữa nhà Đường và Arập, kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc truyền sang Arập. Năm 1150, người Arập lại truyền nghề làm giấy sang Tây Ban Nha. Sau đó, nghề làm giấy lần lượt truyền sang Ý (1276), Đức (1320), Hà Lan (1323), Anh (1460). Sau khi nghề làm giấy được truyền bá rộng rãi, các chất liệu dùng để viết trước kia như lá cây ở Ấn Độ, giấy papirut ở Ai Cập, da cừu ở châu Âu... đều bị giấy thay thế. [B]b) [/B][URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/'][B]Kỹ thuật in[/B][/URL] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/']Kỹ thuật in [/URL]bắt nguồn từ việc khắc chữ trái trên các con dấu đã có trước từ đời Tần. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Đạo giáo đã in nhiều bùa chú để trừ ma. Hiện chưa xác minh được kỹ thuật in bắt đầu ra đời từ bao giờ, nhưng điều chắc chắn là đến giữa thế kỷ VII (đầu đời Đường), kỹ thuật in đã xuất hiện. Sử sách chép lúc bấy giờ nhà sư Huyền Trang đã cho in một số lượng lớn tượng Phổ Hiền để phân phát bốn phương. Năm 1966, ở Hàn Quốc phát hiện được kinh Đàlani in vào khoảng năm 704-751. Đây là ấn phẩm cổ nhất trên thế giới đã phát hiện được. Kỹ thuật in khi mới ra đời là in bằng ván khắc. Đây là một phát minh rất quan trọng giúp người ta có thể in nhiều bản trong một thời gian ngắn, công nghệ khắc in đơn giản, ít tốn, vì vậy cách in bằng ván khắc này đã được sử dụng rất lâu dài. Tuy vậy, cách in này cũng có mặt chưa được tiện lợi lắm vì nếu không cần in nữa thì ván khắc sẽ vô dụng. Để khắc phục nhược điểm đó, đến thập kỷ 40 của thế kỷ XI, một người dân thường tên là Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung. Các con chữ được xếp lên một tấm sắt có sáp, xếp xong đem hơ nóng cho sáp chảy ra, dùng một tấm ván ép cho bằng mặt rồi để nguội. Như vậy sáp đã giữ chặt lấy chữ và có thể đem in. Phát minh của Tất Thăng tuy là một tiến bộ nhảy vọt của nghề in nhưng vẫn còn một số nhược điểm như chữ hay mòn, khó tô mực, chữ không được sắc nét. Để khắc phục nhược điểm đó, từ thế kỷ XI, Thẩm Quát đã thử dùng chữ gỗ thay chữ đất sét nung nhưng chưa có kết quả. Đến thời Nguyên, Vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng con chữ rời bằng gỗ. Sau đó người ta còn dùng chữ rời bằng thiếc, đồng, chì, nhưng chữ rời bằng kim loại khó tô mực nên không được sử dụng rộng rãi. Từ đời Đường, kỹ thuật in ván khắc của Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Philippin, Arập rồi truyền dần sang châu Phi, châu Âu. Cuối thế kỷ XIV, ở Đức đã biết dùng phương pháp in bằng ván khắc để in tranh ảnh tôn giáo, kinh thánh và sách ngữ pháp. Năm 1448, Gutenbe (Gutenberg) người Đức dùng chữ rời bằng hợp kim và dùng mực dầu để in kinh thánh. Việc đó đã đặt cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay. [B]c) Thuốc súng[/B] Thuốc súng là một phát minh ngẫu nhiên của những người luyện đan thuộc phái Đạo gia. Vốn là, đến đời Đường, Đạo giáo rất thịnh hành. Phái đạo gia tin rằng, người ta có thể luyện được thuốc trường sinh bất lão hoặc luyện được vàng, do đó, thuật luyện đan rất phát triển. Nguyên liệu mà người luyện đan sử dụng là diêm tiêu, lưu huỳnh và than gỗ. Trong quá trình luyện thuốc tiên thường xảy ra các vụ cháy làm bỏng tay, bỏng mặt, cháy nhà... và thế là họ đã tình cờ phát minh ra thuốc súng. Đến đầu thế kỷ X, thuốc súng bắt đầu được dùng để làm vũ khí. Những vũ khí đầu tiên này được gọi là tên lửa, cầu lửa, quạ lửa, pháo, đạn bay v.v...; tác dụng của chúng chỉ là để đốt doanh trại của đối phương mà thôi. Đến đời Tống, vũ khí làm bằng thuốc súng không ngừng được cải tiến. Trong cuộc chiến tranh Tống - Kim, quân Tống đã dùng một loại vũ khí gọi là “chấn thiên lôi”, tiếng nổ to như sấm, sức nóng tỏa ra hơn nửa mẫu đất, người và da bò nát vụn không còn dấu vết. Năm 1132, Trung Quốc đã phát minh ra loại vũ khí hình ống gọi là “hỏa thương”. Lúc đầu hỏa thương làm bằng ống tre to, phía trong nạp thuốc súng, khi đánh nhau thì đốt ngòi, lửa sẽ phun ra thiêu cháy quân địch. Vào thế kỷ XIII, trong quá trình tấn công Trung Quốc, người Mông Cổ đã học tập được cách làm thuốc súng của Trung Quốc. Sau đó, người Mông Cổ chinh phục Tây Á, do đó đã truyền thuốc súng sang Arập. Người Arập lại truyền thuốc súng và súng vào châu Âu qua con đường Tây Ban Nha. [B]d) Kim chỉ nam[/B] Từ thế kỷ III TCN, người Trung Quốc đã biết được từ tính và tính chỉ hướng của đá nam châm. Lúc bấy giờ Trung Quốc phát minh ra một dụng cụ chỉ hướng gọi là “tư nam”. Tư nam làm bằng đá thiên nhiên, mài thành hình cái thìa để trên một cái đĩa có khắc các phương hướng, cán thìa sẽ chỉ hướng nam. Như vậy tư nam chính là tổ tiên của kim chỉ nam. Tuy nhiên, tư nam còn có nhiều hạn chế như khó mài, nặng, lực ma sát lớn, chuyển động không nhạy, chỉ hướng không được chính xác nên chưa được áp dụng rộng rãi. Đến đời Tống, các thầy phong thủy đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo. Họ dùng kim sắt, mài mũi kim vào đá nam châm để thu từ tính, rồi dùng kim đó để làm la bàn. La bàn lúc đầu còn rất thô sơ: xâu kim nam châm qua cọng rơm sợi bấc đèn rồi thả nổi trên bát nước gọi là “thủy la bàn”, hoặc treo kim nam châm bằng một sợi tơ ở chỗ kín gió. La bàn được các thầy phong thủy sử dụng đầu tiên để xem hướng đất. Đến khoảng cuối thời Bắc Tống, la bàn được sử dụng trong việc đi biển. Khoảng nửa sau thế kỷ XII, la bàn do đường biển truyền sang Arập rồi truyền sang châu Âu. Người châu Âu cải tiến thành “la bàn khô” tức là la bàn có khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỷ XVI la bàn khô lại truyền trở lại Trung Quốc. [B][COLOR=rgb(65, 168, 95)]( Còn Tiếp [/COLOR][/B][COLOR=rgb(65, 168, 95)])[/COLOR][/SIZE] [COLOR=rgb(65, 168, 95)][SIZE=5][B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục[/SIZE] [/COLOR] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
Top