Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179969" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong>4. Khoa học tự nhiên</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>a) Toán học</em></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, người </span><a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Trung Quốc</span></a><span style="font-size: 18px"> đã biết phép đếm lấy 10 làm cơ sở. Đến thời Tây Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện một tác phẩm toán học nhan đề là <em>Chu bễ toán kinh</em>. Nội dung của sách này nói về lịch pháp, thiên văn, hình học (tam giác, tứ giác, ngũ giác), số học (phân số, số thường)... đặc biệt đây là tác phẩm toán học của Trung Quốc sớm nhất nói về quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông giống như định lý Pitago.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thời Đông Hán lại xuất hiện một tác phẩm quan trọng hơn gọi là <em>Cửu chương toán thuật.</em> Tác phẩm này chia thành 9 chương, trong đó chứa đựng các nội dung như 4 phép tính, phương pháp khai căn bậc 2 và bậc 3, phương trình bậc 1, số âm, số dương, cách tính diện tích các hình, thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và thể tích hình cầu, quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Lưu Huy và Tổ Xung Chi là hai nhà toán học nổi tiếng nhất. Lưu Huy đã chú giải sách <em>Cửu chương toán thuật,</em> ông còn tìm được số pi bằng tỉ số 3927: 1250 = 3,1416. Tổ Xung Chi (429-500) cũng chú thích Cửu chương toán thuật. Đặc biệt, ông là người sớm nhất thế giới tìm được số pi rất chính xác gồm 7 số lẻ nằm giữa hai số 3,1415926 và 3,1415927.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đời Đường, Trung Quốc cũng có nhiều nhà toán học có tên tuổi như nhà sư Nhất Hạnh đã nêu ra công thức phương trình bậc hai, Vương Hiếu Thông soạn sách <em>Tập cổ toán kinh,</em> dùng phương trình bậc 3 để giải quyết nhiều vấn đề toán học.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại càng có nhiều nhà toán học, trong số đó Giả Hiến, Thẩm Quát đời Tống có thể coi là những người tiêu biểu. Giả Hiến đã tìm được phương pháp giải các phương trình bậc cao, Thẩm Quát đã nêu ra những ý kiến về cấp số, cách tính độ dài của cung và dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung. Đặc biệt, thời kỳ Tống, Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra cái bàn tính, rất tiện lợi cho việc tính toán.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em><strong>b) </strong></em></span><a href="https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><em><strong>Thiên văn và phép làm lịch.</strong></em></span></a></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn. Đến thời Thương, trong tài liệu ghi bằng chữ giáp cốt đã có chép về nhật thực và nguyệt thực. Đó là những tài liệu sớm nhất thế giới về mặt này. Trong sách <em>Xuân thu</em> cũng có chép trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay đã chứng minh được 33 lần hoàn toàn chính xác. Sách <em>Xuân Thu</em>còn chép năm 613 TCN “sao Bột nhập vào Bắc đẩu”. Đó là sao chổi Halây được ghi chép sớm nhất trong lịch sử thế giới. Chu kỳ của sao chổi này là 76 năm, sau này người ta biết được sao chổi Halây đã đi qua Trung Quốc 31 lần.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/threads/nhung-thanh-tuu-chu-yeu-cua-van-minh-ai-cap-co-dai.79169/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Thiên <em>Ngũ hành chí</em> sách <em>Hán thư</em> </span></a><span style="font-size: 18px">thì chép ngày Ất Mùi, tháng 3 năm 28 TCN, “Mặt Trời hiện ra màu vàng, có điểm đen lớn như cục sắt hiện ra giữa Mặt Trời”. Đó cũng là tài liệu sớm nhất ghi chép về điểm đen trong Mặt Trời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhà thiên văn học nổi tiếng nhất Trung Quốc là Trương Hành (78-139). Ông đã biết ánh sáng của Mặt Trăng là nhận của Mặt Trời, lần đầu tiên giải thích đúng đắn rằng nguyệt thực là do Mặt Trăng nấp sau bóng của Trái Đất. Tác phẩm thiên văn học của ông nhan đề là <em>“Linh hiến”,</em> trong đó ông đã tổng kết những tri thức về thiên văn học lúc bấy giờ. Trong <em>“Linh hiến”,</em> ông đã nêu ra những nhận thức đúng đắn như vũ trụ là vô hạn, sự vận hành của hành tinh nhanh hay chậm là do cự ly cách quả đất gần hay xa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ông còn cho rằng thiên thể hình cầu như vỏ quả trứng, mà trái đất thì như lòng đỏ. Một vòng của bầu trời là 365° 1/4, một nửa ở trên Trái Đất, một nửa ở dưới Trái Đất. Căn cứ theo suy nghĩ ấy của mình, ông làm một mô hình thiên thể dùng sức nước để chuyển động gọi là “hồn trương” còn gọi là “hồn thiên ghi” khi mô hình này chuyển động thì các vì sao trên đó cũng di chuyển giống như tình hình thực ngoài bầu trời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trương Hành còn có nhiều hiểu biết về địa lý, địa chất học. Ông chế tạo được một dụng cụ đo động đất gọi là “địa động nghi” có thể đo một cách chính xác phương hướng của động đất.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhờ sớm có những hiểu biết về thiên văn nên từ sớm Trung Quốc đã có lịch.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/threads/nhung-thanh-tuu-chu-yeu-cua-van-minh-ai-cap-co-dai.79169/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Theo truyền thuyết,</span></a><span style="font-size: 18px"> Hoàng Đế đã sai Dung Thành đặt ra lịch, thời Chuyên Húc sửa lại thành lịch mới, một năm chia thành 12 tháng. Đường Nghiêu lại sai hai họ Hy, Hòa sửa lại lịch một lần nữa. Đến đời Hạ lại sửa lại lịch của Nghiêu. Lịch đời Hạ lấy tháng giêng âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm. Đến đời Thương, Trung Quốc đã biết kết hợp giữa vòng quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời để đặt ra lịch. Loại lịch này, một năm chia làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Để cho khớp với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, người đời Thương đã biết thêm vào một tháng nhuận. Lúc đầu cứ 3 năm thêm một tháng nhuận hoặc 5 năm thêm 2 tháng nhuận, về sau đến giữa thời Xuân Thu, cứ 19 năm thì thêm 7 tháng nhuận.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Lịch đời Thương lấy tháng 12 âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm và quy định lúc gà gáy là lúc bắt đầu ngày đầu năm. Thời Chu lấy tháng 11 âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm và quy định lúc nửa đêm là lúc bắt đầu ngày đầu năm. Đời Tần và đầu đời Hán đã từng lấy tháng 10 âm lịch làm tháng đầu năm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Năm Thái sơ thứ nhất thời Hán Vũ đế (104 TCN) Trung Quốc đổi dùng một loại lịch cải cách gọi là lịch Thái sơ. Lịch này lấy tháng giêng âm lịch làm tháng đầu năm, từ đó loại lịch này về cơ bản được dùng cho đến ngày nay. Từ thời Xuân Thu, người Trung Quốc đã biết chia một năm thành 4 mùa, 4 mùa có 8 tiết là Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia một năm thành 24 tiết, trong đó có 12 trung khí còn 12 tiết khác gọi là tiết khí. Thường thì mỗi tháng có 1 trung khí, nếu tháng nào không có trung khí thì thành tháng nhuận. Từ đó việc bố trí tháng nhuận đã có quy luật, không tùy tiện như trước nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Người Trung Quốc ngày xưa chia một ngày đêm thành 12 giờ và dùng 12 địa chi (Tí, Sửu...) để đặt tên giờ. Mỗi giờ chia thành 8 khắc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Để đo thời gian, đầu tiên, người Trung Quốc dùng một cái cọc gọi là “khuê” để đo bóng mặt trời, do đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí làm cho cách tính lịch càng chính xác. Sau đó, người Trung Quốc lại dùng cái “nhật quỹ”. Đó là một cái đĩa tròn trên mặt có khắc 12 giờ và 96 khấc, đặt nghiêng song song với bề mặt của đường xích đạo, ở giữa có một cái kim cắm theo hướng bắc nam. Khi mặt trời di chuyển thì bóng của kim cũng di chuyển trên mặt đĩa có khắc giờ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến khoảng đời Chu, Trung Quốc đã phát minh ra “lậu hồ” (bình có lỗ rò) để đo thời gian. Lúc đầu lậu hồ chỉ có một bình, dưới đáy có lỗ rò. Nước trong bình vơi đến đâu thì biết lúc đó giờ gì. Để việc đo thời gian được chi ly hơn, về sau người ta dùng một hệ thống bốn năm bình xếp thành nhiều bậc. Nước từ bình trên cùng nhỏ dần xuống các bình dưới. Trong bình dưới cùng có một cái phao có gắn một thanh tre nhỏ trên đó có khắc giờ. Nước trong bình dâng lên thì thanh tre chỉ giờ cũng dâng lên cao hơn miệng bình, có thể biết được giờ khắc. Cái bình này thường làm bằng đồng nên dụng cụ đo thời gian này gọi là “đồng hồ trích lậu” (cái bình bằng đồng rò nước). Đến đầu thế kỷ XVII, đồng hồ của phương Tây truyền vào Trung Quốc, từ đó loại “đồng hồ nước” mới không dùng nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em><strong>c) </strong></em></span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><em><strong>Y dược học.</strong></em></span></a></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nền y dược học Trung Quốc có lịch sử phát triển lâu đời và vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay không những ở Trung Quốc mà cả trên thế giới.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ thời Chiến quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện một tác phẩm y học nhan đề là <em>Hoàng đế nội kinh,</em> trong đó đã nêu ra những vấn đề về sinh lý, bệnh lý và nguyên tắc chữa bệnh như “chữa bệnh phải tìm tận gốc”, phải “tìm mầm mống phát sinh” của bệnh.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến cuối thời Đông Hán, kết hợp những thành tựu y học đời trước với những kinh nghiệm của mình, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách “<em>Thương hàn tạp bệnh luận”</em> gồm hai phần: “Thương hàn luận” và “Kim quỹ ngọc hàm kinh”. Cả hai phần này nội dung tương tự như nhau, chủ yếu nói về cách chữa bệnh thương hàn. Đến thời Bắc Tống, qua hiệu đính, sách này tách thành hai tác phẩm. Đến nay, sách này vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung Quốc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thầy thuốc nổi tiếng sớm nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống vào thời Chiến quốc. Ông vốn tên là Trần Việt Nhân, biết chữa nhiều loại bệnh, đi nhiều nơi để hành nghề y, ở nước Triệu thì làm thầy thuốc phụ khoa, đến nước Chu thì làm thầy thuốc chữa tai mắt mũi, đến nước Tấn thì làm thầy thuốc chữa bệnh cho trẻ em. Ở nước Tần ông bị quan thái y của vua Tần ghen ghét nên bị ra lệnh giết chết. Về sau, ông được tôn sùng là người khởi xướng của ngành mạch học ở Trung Quốc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ Hán về sau ở Trung Quốc càng có nhiều thầy thuốc giỏi, trong đó nổi tiếng nhất là Hoa Đà (? -208). Ông là một thầy thuốc đa năng, giỏi về các khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu, song có sở trường nhất là khoa ngoại. Hoa Đà đã phát minh ra phương pháp dùng rượu để gây mê trước khi mổ cho bệnh nhân, mổ xong khâu lại, dùng cao dán lên chỗ mổ, bốn năm ngày sau là khỏi, trong vòng một tháng thì bình thường trở lại.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hoa Đà chủ trương muốn không có bệnh tật thì phải luyện tập thân thể để huyết mạch được lưu thông, giống như cái trục cánh cửa sở dĩ không mục là vì chuyển động luôn. Chính ông đã soạn ra một bài thể dục gọi là “ngũ cầm hý” (trò chơi của 5 loại muông thú), trong đó bắt chước các động tác của 5 loài động vật là hổ, hươu, gấu, vượn và chim. Về sau, vì không chịu làm thầy thuốc riêng của Tào Tháo nên bị Tào Tháo giết chết.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nhà y dược học nổi tiếng thời Minh là Lý Thời Trân (15181593). Ông xuất thân từ một gia đình nhiều đời làm thầy thuốc. Ngoài việc chữa bệnh, ông bỏ rất nhiều công sức để nghiên cứu các cây thuốc, do đó đã soạn được một bộ sách thuốc nhan đề là <em>“Bản thảo cương mục</em>”. Trong tác phẩm này, ông đã ghi chép 1892 loại cây thuốc, đã phân loại, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình các cây thuốc đó. Vì vậy, sách này không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực vật học quan trọng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài ra, các mặt khác như địa lý, nông học... cũng có </span><a href="https://vnkienthuc.com/threads/la-ma-co-dai.77725/#post-179884" target="_blank"><span style="font-size: 18px">những thành tựu rất lớn.</span></a></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">( Còn Tiếp </span></strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">)</span></span></p><p><span style="color: rgb(65, 168, 95)"><span style="font-size: 18px"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục</span> </span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179969, member: 288054"] [SIZE=5][B]4. Khoa học tự nhiên[/B] [B][I]a) Toán học[/I][/B] Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, người [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/'][SIZE=5]Trung Quốc[/SIZE][/URL][SIZE=5] đã biết phép đếm lấy 10 làm cơ sở. Đến thời Tây Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện một tác phẩm toán học nhan đề là [I]Chu bễ toán kinh[/I]. Nội dung của sách này nói về lịch pháp, thiên văn, hình học (tam giác, tứ giác, ngũ giác), số học (phân số, số thường)... đặc biệt đây là tác phẩm toán học của Trung Quốc sớm nhất nói về quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông giống như định lý Pitago. Thời Đông Hán lại xuất hiện một tác phẩm quan trọng hơn gọi là [I]Cửu chương toán thuật.[/I] Tác phẩm này chia thành 9 chương, trong đó chứa đựng các nội dung như 4 phép tính, phương pháp khai căn bậc 2 và bậc 3, phương trình bậc 1, số âm, số dương, cách tính diện tích các hình, thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và thể tích hình cầu, quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông... Đến thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Lưu Huy và Tổ Xung Chi là hai nhà toán học nổi tiếng nhất. Lưu Huy đã chú giải sách [I]Cửu chương toán thuật,[/I] ông còn tìm được số pi bằng tỉ số 3927: 1250 = 3,1416. Tổ Xung Chi (429-500) cũng chú thích Cửu chương toán thuật. Đặc biệt, ông là người sớm nhất thế giới tìm được số pi rất chính xác gồm 7 số lẻ nằm giữa hai số 3,1415926 và 3,1415927. Đời Đường, Trung Quốc cũng có nhiều nhà toán học có tên tuổi như nhà sư Nhất Hạnh đã nêu ra công thức phương trình bậc hai, Vương Hiếu Thông soạn sách [I]Tập cổ toán kinh,[/I] dùng phương trình bậc 3 để giải quyết nhiều vấn đề toán học. Thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại càng có nhiều nhà toán học, trong số đó Giả Hiến, Thẩm Quát đời Tống có thể coi là những người tiêu biểu. Giả Hiến đã tìm được phương pháp giải các phương trình bậc cao, Thẩm Quát đã nêu ra những ý kiến về cấp số, cách tính độ dài của cung và dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung. Đặc biệt, thời kỳ Tống, Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra cái bàn tính, rất tiện lợi cho việc tính toán. [I][B]b) [/B][/I][/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/threads/trung-quoc-co-dai.77723/'][SIZE=5][I][B]Thiên văn và phép làm lịch.[/B][/I][/SIZE][/URL] [SIZE=5] Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn. Đến thời Thương, trong tài liệu ghi bằng chữ giáp cốt đã có chép về nhật thực và nguyệt thực. Đó là những tài liệu sớm nhất thế giới về mặt này. Trong sách [I]Xuân thu[/I] cũng có chép trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay đã chứng minh được 33 lần hoàn toàn chính xác. Sách [I]Xuân Thu[/I]còn chép năm 613 TCN “sao Bột nhập vào Bắc đẩu”. Đó là sao chổi Halây được ghi chép sớm nhất trong lịch sử thế giới. Chu kỳ của sao chổi này là 76 năm, sau này người ta biết được sao chổi Halây đã đi qua Trung Quốc 31 lần. [/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/nhung-thanh-tuu-chu-yeu-cua-van-minh-ai-cap-co-dai.79169/'][SIZE=5]Thiên [I]Ngũ hành chí[/I] sách [I]Hán thư[/I] [/SIZE][/URL][SIZE=5]thì chép ngày Ất Mùi, tháng 3 năm 28 TCN, “Mặt Trời hiện ra màu vàng, có điểm đen lớn như cục sắt hiện ra giữa Mặt Trời”. Đó cũng là tài liệu sớm nhất ghi chép về điểm đen trong Mặt Trời. Nhà thiên văn học nổi tiếng nhất Trung Quốc là Trương Hành (78-139). Ông đã biết ánh sáng của Mặt Trăng là nhận của Mặt Trời, lần đầu tiên giải thích đúng đắn rằng nguyệt thực là do Mặt Trăng nấp sau bóng của Trái Đất. Tác phẩm thiên văn học của ông nhan đề là [I]“Linh hiến”,[/I] trong đó ông đã tổng kết những tri thức về thiên văn học lúc bấy giờ. Trong [I]“Linh hiến”,[/I] ông đã nêu ra những nhận thức đúng đắn như vũ trụ là vô hạn, sự vận hành của hành tinh nhanh hay chậm là do cự ly cách quả đất gần hay xa. Ông còn cho rằng thiên thể hình cầu như vỏ quả trứng, mà trái đất thì như lòng đỏ. Một vòng của bầu trời là 365° 1/4, một nửa ở trên Trái Đất, một nửa ở dưới Trái Đất. Căn cứ theo suy nghĩ ấy của mình, ông làm một mô hình thiên thể dùng sức nước để chuyển động gọi là “hồn trương” còn gọi là “hồn thiên ghi” khi mô hình này chuyển động thì các vì sao trên đó cũng di chuyển giống như tình hình thực ngoài bầu trời. Trương Hành còn có nhiều hiểu biết về địa lý, địa chất học. Ông chế tạo được một dụng cụ đo động đất gọi là “địa động nghi” có thể đo một cách chính xác phương hướng của động đất. Nhờ sớm có những hiểu biết về thiên văn nên từ sớm Trung Quốc đã có lịch. [/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/nhung-thanh-tuu-chu-yeu-cua-van-minh-ai-cap-co-dai.79169/'][SIZE=5]Theo truyền thuyết,[/SIZE][/URL][SIZE=5] Hoàng Đế đã sai Dung Thành đặt ra lịch, thời Chuyên Húc sửa lại thành lịch mới, một năm chia thành 12 tháng. Đường Nghiêu lại sai hai họ Hy, Hòa sửa lại lịch một lần nữa. Đến đời Hạ lại sửa lại lịch của Nghiêu. Lịch đời Hạ lấy tháng giêng âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm. Đến đời Thương, Trung Quốc đã biết kết hợp giữa vòng quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời để đặt ra lịch. Loại lịch này, một năm chia làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Để cho khớp với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, người đời Thương đã biết thêm vào một tháng nhuận. Lúc đầu cứ 3 năm thêm một tháng nhuận hoặc 5 năm thêm 2 tháng nhuận, về sau đến giữa thời Xuân Thu, cứ 19 năm thì thêm 7 tháng nhuận. Lịch đời Thương lấy tháng 12 âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm và quy định lúc gà gáy là lúc bắt đầu ngày đầu năm. Thời Chu lấy tháng 11 âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm và quy định lúc nửa đêm là lúc bắt đầu ngày đầu năm. Đời Tần và đầu đời Hán đã từng lấy tháng 10 âm lịch làm tháng đầu năm. Năm Thái sơ thứ nhất thời Hán Vũ đế (104 TCN) Trung Quốc đổi dùng một loại lịch cải cách gọi là lịch Thái sơ. Lịch này lấy tháng giêng âm lịch làm tháng đầu năm, từ đó loại lịch này về cơ bản được dùng cho đến ngày nay. Từ thời Xuân Thu, người Trung Quốc đã biết chia một năm thành 4 mùa, 4 mùa có 8 tiết là Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia một năm thành 24 tiết, trong đó có 12 trung khí còn 12 tiết khác gọi là tiết khí. Thường thì mỗi tháng có 1 trung khí, nếu tháng nào không có trung khí thì thành tháng nhuận. Từ đó việc bố trí tháng nhuận đã có quy luật, không tùy tiện như trước nữa. Người Trung Quốc ngày xưa chia một ngày đêm thành 12 giờ và dùng 12 địa chi (Tí, Sửu...) để đặt tên giờ. Mỗi giờ chia thành 8 khắc. Để đo thời gian, đầu tiên, người Trung Quốc dùng một cái cọc gọi là “khuê” để đo bóng mặt trời, do đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí làm cho cách tính lịch càng chính xác. Sau đó, người Trung Quốc lại dùng cái “nhật quỹ”. Đó là một cái đĩa tròn trên mặt có khắc 12 giờ và 96 khấc, đặt nghiêng song song với bề mặt của đường xích đạo, ở giữa có một cái kim cắm theo hướng bắc nam. Khi mặt trời di chuyển thì bóng của kim cũng di chuyển trên mặt đĩa có khắc giờ. Đến khoảng đời Chu, Trung Quốc đã phát minh ra “lậu hồ” (bình có lỗ rò) để đo thời gian. Lúc đầu lậu hồ chỉ có một bình, dưới đáy có lỗ rò. Nước trong bình vơi đến đâu thì biết lúc đó giờ gì. Để việc đo thời gian được chi ly hơn, về sau người ta dùng một hệ thống bốn năm bình xếp thành nhiều bậc. Nước từ bình trên cùng nhỏ dần xuống các bình dưới. Trong bình dưới cùng có một cái phao có gắn một thanh tre nhỏ trên đó có khắc giờ. Nước trong bình dâng lên thì thanh tre chỉ giờ cũng dâng lên cao hơn miệng bình, có thể biết được giờ khắc. Cái bình này thường làm bằng đồng nên dụng cụ đo thời gian này gọi là “đồng hồ trích lậu” (cái bình bằng đồng rò nước). Đến đầu thế kỷ XVII, đồng hồ của phương Tây truyền vào Trung Quốc, từ đó loại “đồng hồ nước” mới không dùng nữa. [I][B]c) [/B][/I][/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/'][SIZE=5][I][B]Y dược học.[/B][/I][/SIZE][/URL] [SIZE=5] Nền y dược học Trung Quốc có lịch sử phát triển lâu đời và vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay không những ở Trung Quốc mà cả trên thế giới. Từ thời Chiến quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện một tác phẩm y học nhan đề là [I]Hoàng đế nội kinh,[/I] trong đó đã nêu ra những vấn đề về sinh lý, bệnh lý và nguyên tắc chữa bệnh như “chữa bệnh phải tìm tận gốc”, phải “tìm mầm mống phát sinh” của bệnh. Đến cuối thời Đông Hán, kết hợp những thành tựu y học đời trước với những kinh nghiệm của mình, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách “[I]Thương hàn tạp bệnh luận”[/I] gồm hai phần: “Thương hàn luận” và “Kim quỹ ngọc hàm kinh”. Cả hai phần này nội dung tương tự như nhau, chủ yếu nói về cách chữa bệnh thương hàn. Đến thời Bắc Tống, qua hiệu đính, sách này tách thành hai tác phẩm. Đến nay, sách này vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung Quốc. Thầy thuốc nổi tiếng sớm nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống vào thời Chiến quốc. Ông vốn tên là Trần Việt Nhân, biết chữa nhiều loại bệnh, đi nhiều nơi để hành nghề y, ở nước Triệu thì làm thầy thuốc phụ khoa, đến nước Chu thì làm thầy thuốc chữa tai mắt mũi, đến nước Tấn thì làm thầy thuốc chữa bệnh cho trẻ em. Ở nước Tần ông bị quan thái y của vua Tần ghen ghét nên bị ra lệnh giết chết. Về sau, ông được tôn sùng là người khởi xướng của ngành mạch học ở Trung Quốc. Từ Hán về sau ở Trung Quốc càng có nhiều thầy thuốc giỏi, trong đó nổi tiếng nhất là Hoa Đà (? -208). Ông là một thầy thuốc đa năng, giỏi về các khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu, song có sở trường nhất là khoa ngoại. Hoa Đà đã phát minh ra phương pháp dùng rượu để gây mê trước khi mổ cho bệnh nhân, mổ xong khâu lại, dùng cao dán lên chỗ mổ, bốn năm ngày sau là khỏi, trong vòng một tháng thì bình thường trở lại. Hoa Đà chủ trương muốn không có bệnh tật thì phải luyện tập thân thể để huyết mạch được lưu thông, giống như cái trục cánh cửa sở dĩ không mục là vì chuyển động luôn. Chính ông đã soạn ra một bài thể dục gọi là “ngũ cầm hý” (trò chơi của 5 loại muông thú), trong đó bắt chước các động tác của 5 loài động vật là hổ, hươu, gấu, vượn và chim. Về sau, vì không chịu làm thầy thuốc riêng của Tào Tháo nên bị Tào Tháo giết chết. Nhà y dược học nổi tiếng thời Minh là Lý Thời Trân (15181593). Ông xuất thân từ một gia đình nhiều đời làm thầy thuốc. Ngoài việc chữa bệnh, ông bỏ rất nhiều công sức để nghiên cứu các cây thuốc, do đó đã soạn được một bộ sách thuốc nhan đề là [I]“Bản thảo cương mục[/I]”. Trong tác phẩm này, ông đã ghi chép 1892 loại cây thuốc, đã phân loại, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình các cây thuốc đó. Vì vậy, sách này không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực vật học quan trọng. Ngoài ra, các mặt khác như địa lý, nông học... cũng có [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/threads/la-ma-co-dai.77725/#post-179884'][SIZE=5]những thành tựu rất lớn.[/SIZE][/URL] [SIZE=5] [B][COLOR=rgb(65, 168, 95)]( Còn Tiếp [/COLOR][/B][COLOR=rgb(65, 168, 95)])[/COLOR][/SIZE] [COLOR=rgb(65, 168, 95)][SIZE=5][B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục[/SIZE] [/COLOR] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu của văn minh Trung Quốc
Top