Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu chính của văn minh Ấn Độ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179965" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px"><strong>5. Tôn giáo</strong></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/threads/an-do-co-dai.77722/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Ấn Độ</span></a><span style="font-size: 18px"> là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là đạo Bàlamôn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>a) Đạo Bàlamôn - Đạo Hindu</strong></span></p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><span style="font-size: 18px">Đạo Bàlamôn.</span></li> </ul><p><span style="font-size: 18px">Trong thời kỳ đầu của </span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-co-dai-nguyen-thuy-the-ky-v.108/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">thời Vêđa</span></a><span style="font-size: 18px">, quan niệm tín ngưỡng của người Ấn Độ còn mang nhiều dấu vết của thời nguyên thủy. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn nên họ sùng bái rất nhiều thứ, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, người chết và nhiều loài động vật...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến những thế kỷ đầu của thiên kỷ I TCN, do sự phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng về đẳng cấp ngày càng sâu sắc, từ các hình thức tín ngưỡng dân gian dần dần đã tập hợp thành một tôn giáo lớn gọi là đạo Bàlamôn. Như vậy, đạo Bàlamôn là một tôn giáo không có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội chặt chẽ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Bàlamôn là một tôn giáo đa thần trong đó cao nhất là thần Brama. Đó là vị thần sáng tạo thế giới. Tuy vậy, có nơi cho thần Siva, vị thần phá hoại là thần cao nhất; có nơi lại cho thần Visnu, thần bảo vệ, thần ánh sáng, thần bốn mùa, thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm mưa tưới cho ruộng đồng tươi tốt là vị thần cao nhất. Do vậy, đến những thế kỷ đầu công nguyên, đạo Bàlamôn chia thành hai phái là phái thờ thần Siva và phái thờ thần Visnu. Để thống nhất các phái đó, đạo Bàlamôn nêu ra quan niệm thần sáng tạo Brama, thần phá hoại Siva và thần bảo vệ Visnu tuy là ba nhưng vốn là một.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài ra, nhiều loài động vật như voi, khỉ và nhất là bò cũng là những đối tượng sùng bái của đạo Bàlamôn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Trong giáo lý của đạo Bàlamôn</span></a><span style="font-size: 18px"> có một nội dung rất quan trọng, đó là thuyết luân hồi. Đạo Bàlamôn giải thích rằng linh hồn của con người là một bộ phận của Brama mà Brama là một tồn tại vĩnh hằng, cho nên con người tuy có sống có chết, nhưng linh hồn thì còn mãi mãi và sẽ luân hồi trong nhiều kiếp sinh vật khác nhau. Những người giữ đúng luật lệ của tôn giáo và các quy tắc mà thần đã định sẵn cho mình thì kiếp sau sẽ được đầu thai thành người cao quý, trái lại thì sẽ càng khổ cực, thậm chí sẽ bị đầu thai làm chó lợn và những động vật bẩn thỉu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trước khi đạo Bàlamôn ra đời, trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy của người Arya, chế độ đẳng cấp đã xuất hiện rồi. Đó là chế độ chia cư dân tự do thành 4 đẳng cấp: Braman, Ksatơrya, Vaisya, Suđra.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sĩ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, một số nghề thủ công.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy. Ví dụ, luật Manu, một bộ luật về tập quán được hoàn thành vào khoảng đầu công nguyên chép:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">“Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình, ngài (thần Brama) đã tạo nên Braman, Ksatơrya, Vaisya và Sudra”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong 4 đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn có địa vị cao nhất. Luật Manu viết: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brama, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa, Bàlamôn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài Bàlamôn, chỉ có hai đẳng cấp Ksatơrya và Vaisya mới được trở thành tín đồ của đạo Bàlamôn và cả ba đẳng cấp trên được quan niệm là những người sinh hai lần; còn Suđra không được dự các buổi lễ tôn giáo và được quan niệm là những người sinh một lần.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Bàlamôn đã truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỷ. Đến khoảng thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới là đạo Phật. Đạo Bàlamôn bị suy thoái trong một thời gian dài.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>* Đạo Hindu</strong> (Ấn Độ giáo).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau một thời gian hưng thịnh, đến khoảng thế kỷ VII, đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Nhân tình hình đó, đạo Bàlamôn dần dần phục hưng, đến khoảng thế kỷ VIII, IX đạo Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ... Từ đó, đạo Bàlamôn được gọi là đạo Hinđu, trước đây ta hay gọi là Ấn Độ giáo.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đối tượng sùng bái chủ yếu của đạo Hinđu vẫn là ba thần Brama, Siva và Visnu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thần Brama được thể hiện bằng một hình tượng có 4 đầu để chứng tỏ thần có thể nhìn thấu mọi nơi. Bốn tập kinh Vêđa chính là được phát ra từ 4 cái miệng của thần Brama.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thần Siva được thể hiện thành hình tượng có mắt thứ ba ở trên trán, luôn luôn cầm một cái đinh ba Siva thường cưỡi bò hoặc ngồi trên tấm da hổ, có những con rắn hổ mang quấn quanh cổ. Thần Siva là thần phá hoại những thứ mà thần Brama sáng tạo ra, nhưng Siva cũng có mặt sáng tạo. Sự sáng tạo ấy được thể hiện qua hình tượng linga - yoni mà nhân dân Ấn Độ sùng bái.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Liên quan đến thần Siva có nữ thần Kali (còn gọi là nữ thần Pácvati), vợ của thần Siva và thần Ganêxa, con trai của thần.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nữ thần Kali (Pavacti) được thể hiện thành hình tượng một phụ nữ mặt đen, miệng há hoác, lưỡi lè ra. Nữ thần cũng trang sức bằng những con rắn, đeo hoa tai bằng xác đàn ông, chuỗi hạt là những sọ người, mặt và ngực bôi đầy máu. Thần có 4 tay, một tay cầm gươm, một tay cầm một đầu người, còn hai tay nữa thì đưa ra để ban phúc lành. Trước kia có khi phải giết người để tế thần Kali, về sau chỉ cúng bằng dê cái.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thần Ganêxa tuy có hình thù kỳ dị đầu voi mình người nhưng đó là thần Trí tuệ và Thịnh vượng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Thần Visnu</span></a><span style="font-size: 18px"> được quan niệm là đã giáng trần 9 lần. Trong sáu lần đầu, thần xuất hiện dưới dạng các động vật như cá, lợn rừng... Đến lần thứ 7, thần Visnu chính là Rama, nhân vật chính trong sử thi Ramayana. Lần thứ 8, thần Visnu giáng thế thành thần Krisna. Thần Krisna thường bênh vực kẻ nghèo, chữa bệnh cho người mù, người điếc và làm cho người chết sống lại. Lần thứ 9, thần Visnu biến thành Phật Thích ca. Đây là một biểu tượng chứng tỏ đạo Hinđu có tiếp thu một số yếu tố của đạo Phật, đồng thời đây cũng là một thủ đoạn để đạo Hinđu thu hút các tín đồ đạo Phật cải giáo theo đạo Hinđu. Đến kiếp thứ 10 tức là lần giáng sinh cuối cùng, thần Visnu sẽ biến thành thần Kali. Đó là vị thần sẽ hủy diệt thế giới cũ tội lỗi, tạo dựng thế giới mới với đạo đức trong sáng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài các vị thần nói trên, các loài động vật như khỉ, bò, rắn, hổ, cá sấu, chim công, vẹt, chuột v.v... cũng là các thần đạo Hindu, trong đó được tôn sùng hơn cả là thần khỉ và thần bò.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thần khỉ Hanuman sở dĩ được tôn thờ vì có công giúp Rama (tức là Visnu) giết được quỷ Ravan để đưa Sita trở về quê hương. Vì vậy thần Hanuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành. Để cúng thần Hanuman người theo đạo Hinđu ăn chay vào ngày thứ ba hàng tuần. Hình thức ăn chay là ban ngày chỉ uống nước, tối mới được ăn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thần bò Kamđênu được thần Krisna (kiếp thứ 8 của Visnu) chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần Kamđênu được quan niệm là do thần Brama tạo ra đồng thời với đẳng cấp Bàlamôn và được coi là mẹ của hầu hết các thần. Vì vậy, cho đến nay, bò được coi là một con vật thiêng liêng. Tín đồ đạo Hinđu không những kiêng ăn thịt bò mà còn không dùng những đồ dùng làm bằng da bò.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mỗi buổi sáng, tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phái Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò cái hoặc đeo ở tay, ở cổ cái linga. Tuy nhiên hai phái đó vẫn đoàn kết với nhau và có khi cùng cúng tế trong một ngôi đền.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Hinđu cũng chú trọng thuyết luân hồi, cho rằng con người sau khi chết, linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần. Mỗi lần đầu thai như vậy con người sẽ sung sướng hơn hay khổ cực hơn kiếp trước là tùy thuộc vào những việc làm của kiếp trước tức là quả báo (Karma).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Kinh thánh của đạo Hinđu, ngoài các tập <em>Vêđa</em> và <em>Upanisát</em> còn có <em>Mahabharata, Bhagavad Gita, Ramayana</em> và <em>Purana.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Mahabharata, Bhagavad Gita và Ramayana là những tập trường ca, còn Purana là tập truyện cổ nói về sự sáng tạo, sự biến chuyển và sự hủy diệt của thế giới.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau khi phục hưng, đạo Hinđu được các vương công Ấn Độ hết sức ủng hộ, do đó đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa nguy nga và ban cấp cho rất nhiều ruộng đất, có khi lên đến hàng nghìn làng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong các chùa ấy đã tạc rất nhiều tượng thần để thờ. Các tượng thần đạo Hinđu thường có hình thù kỳ dị đáng sợ như nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay... trong các chùa lớn có tới hàng nghìn tu sĩ Bàlamôn và hàng nghìn vũ nữ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Khỉ tế lễ, các tu sĩ thường xoa dầu, xức nước hoa cho tượng, dùng thịt dê cùng các thức ăn uống khác để cúng thần. Trong khi cử hành lễ cúng, các thầy tu đọc kinh, còn các vũ nữ thì múa những điệu múa tôn giáo.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về tục lệ, </span><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">đạo Hinđu </span></a><span style="font-size: 18px">cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Đến thời kỳ này, do sự phát triển của các ngành nghề, trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ (vama) đã xuất hiện rất nhiều đẳng cấp nhỏ mới gọi là <em>jati.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Những đẳng cấp nhỏ này cũng có sự phân biệt về địa vị xã hội rất khắt khe, đóng kín về mọi mặt và đời đời cha truyền con nối. Đặc biệt đạo Hinđu hết sức khinh bỉ và ghê tởm tầng lớp lao động nghèo khổ phải làm các nghề bị coi là hèn hạ như quét rác, đồ tể, đao phủ, đốt than, đánh cá v.v... Những người làm các nghề đó bị coi là những người ô uế, không thể tiếp xúc được. Nếu những người sạch sẽ nhỡ đụng chạm vào họ thì phải tẩy uế. Nếu nhiễm uế nhẹ thì chỉ cần vẩy nước thánh là được; nếu nặng thì phải rửa bằng nước tiểu bò, thậm chí phải uống một thứ nước gồm 5 chất của bò cái: sữa lỏng, sữa đặc, bơ, nước tiểu và phân.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Hinđu còn duy trì lâu dài nhiều tục lệ lạc hậu như tảo hôn, vợ góa phải hỏa táng theo chồng. Nếu không tuẫn tiết thì phải cạo trọc đầu và ở vậy suốt đời không được tái giá. Ngày nay các tục lệ đó đều đã bãi bỏ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời kỳ đạo Phật thịnh hành, đạo Bàlamôn - đạo Hinđu là tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Tôn giáo này còn truyền bá sang một số nước Đông Nam Á, đặc biệt là Campuchia từ thời Ăngco về trước.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngày nay, ở Ấn Độ có khoảng 84% tổng số cư dân theo đạo Hinđu. Ngoài Ấn Độ, đa số dân Nêpan và đảo Bali ở Inđônêxia, gần 20% dân Bănglađét và Xri Lanca vẫn theo đạo Hinđu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ở nước ta, một bộ phận đồng bào Chăm cũng là tín đồ của đạo này, nhưng đó là một thứ đạo Bàlamôn - Hinđu đã sửa đổi nhiều.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>b) Đạo Phật</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vào giữa thiên kỷ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện một số dòng tư tưởng chống đạo Bàlamôn. Đạo Phật là một trong những dòng tư tưởng ấy.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là Xitđácta Gôtama (Siddharta Gautama), sau khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni (Thích ca Mâuni), con vua Sutđôđana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Năm 29 tuổi, hoàng tử Xitđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Đến năm 35 tuổi, Xitđácta đã nghĩ ra được cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được con đường cứu vớt. Từ đó, ông được gọi là Buddha, ta quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là “người đã giác ngộ”, “người đã hiểu được chân lý”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhau. Có một số người cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số người khác thì cho rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-trung-dai-the-ky-v-xvi.109/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Học thuyết Phật giáo.</span></a></li> </ul><p><span style="font-size: 18px">Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói sau đây của Phật Thích ca: “Trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khô”. “Cũng như nước đại dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể hiện trong thuyết <em>“tứ thánh đế”</em> hoặc còn gọi <em>“tứ diệu đế”, “tứ chân đế”</em>, <em>“tứ đế”,</em> nghĩa là 4 chân lý thánh. Đó là: <em>khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Khổ đế</em></strong> <em>là chân lý về các nỗi khổ. Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ): sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không được, giữ lấy 5 uẩn (thủ ngũ uẩn).</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>“Uẩn (skandha) là tập hợp, tích tụ. Đạo Phật cho rằng con người không có thực thể tự nó (vô ngã) mà chỉ là sự tập hợp 5 thứ:</em> <strong><em>sắc</em></strong> <em>(vật chất tạo thành thân thể),</em> <strong><em>thụ</em></strong> <em>(cảm giác),</em> <strong><em>tưởng</em></strong> <em>(quan niệm),</em><strong><em>hành</em></strong> <em>(hành động),</em> <strong><em>thức</em></strong> <em>(nhận thức). Vì con người chỉ là sự tập hợp của 5 thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, đối với con người, ngoài khổ đau vô tận, không có cái gì khác.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Tập đế</em></strong> <em>là chân lý về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu là luân hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn như ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang... Ham muốn không dứt thì nghiệp không dứt, nghiệp không dứt thì luân hồi mãi mãi.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Diệt đế</em></strong> <em>là chân lý về sự chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải chấm dứt nghiệp. Đó là một món nợ truyền từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo nên, do đó nói vắn tắt muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Một khi đã chấm dứt được luân hồi thì sẽ được yên tĩnh, thanh thản, sáng suốt và như vậy đã đạt tới cảnh giới Niết bàn (Nirvana).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo đế là chân lý về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt khổ. Con đường đó gọi là “bát chính đạo” (8 con đường đúng đắn), gồm:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính kiến: tín ngưỡng đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính ngữ: nói năng đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính nghiệp: hành động đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính mệnh: sống đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính tịnh tiến: mơ tưởng những cái đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính niệm: tưởng nhớ những cái đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">chính định: tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Chung quy “bát chính đạo” là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng đắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về giới luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 thứ (ngũ giới):</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">không sát sinh.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">không trộm cắp.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">không tà dâm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">không nói dối.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">không uống rượu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong số đó, giới luật “không sát sinh” là không được giết người, còn giết các động vật thì luật cấm không khắt khe lắm. Phật giáo ban đầu không cấm tín đồ ăn thịt.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tục tín đồ, nhất là các tăng ni phải ăn chay, không được ăn thịt động vật là do vua Lương Vũ đế (502-549) của Trung Quốc đặt ra vào thời kỳ đạo Phật thịnh hành ở nước này.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết <em>duyên khởi.</em> Duyên khởi là chữ nói tắt câu “chư pháp do nhân duyên nhi khởi” nghĩa là “các pháp đều do nhân duyên mà có”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">“Pháp” (dharma) là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần. Giáo lý của đạo Phật cũng là sự vật nên cũng gọi là “pháp”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Còn nhân duyên là nguyên nhân, nhưng trong đó, nhân là nguyên nhân chủ yếu, duyên là nguyên nhân phụ. Ví dụ: Sở dĩ một cái cây có thể nảy mầm và phát triển được là nhờ có hạt giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng, trong đó, hạt giống là nhân, đất nước, khi trời ánh sáng là duyên.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nhưng duyên khởi do đâu mà có? Học thuyết Phật giáo giải thích rằng duyên khởi do tâm mà ra. Tâm là nguồn gốc của duyên khởi thì cũng là nguồn gốc của vạn vật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương “vô tạo giả” tức là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là một nội dung cơ bản mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn và cũng là một sự khác biệt quan trọng giữa đạo Phật với nhiều tôn giáo khác.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bên cạnh thuyết <em>“vô tạo giả”,</em> đạo Phật còn nêu ra các thuyết <em>“vô ngã”, “vô thường”.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Vô ngã</em></strong> <em>là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài. Đây là nội dung thứ hai mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn, vì đạo Bàlamôn chủ trương có bản ngã.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Vô thường</em></strong> <em>là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ không bao giờ được ổn định.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trương vô thần (vô tạo giả) nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, vì đạo Phật cho rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu vớt. Mọi người, dù thuộc đẳng cấp nào một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật thì đều trở thành những thành viên bình đẳng của một Tăng đoàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đồng thời đạo Phật mong muốn có một xã hội trong đó vua thì có đạo đức và phải dựa vào pháp luật để trị nước, không được chuyên quyền độc đoán, còn nhân dân thì được an cư lạc nghiệp.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy, đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng đế và các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp thầy cúng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><span style="font-size: 18px">Sự phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ</span></li> </ul><p><span style="font-size: 18px">Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ. Để soạn thảo giáo lý, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức, từ thế kỷ V-III TCN, đạo Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa, quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ. Từ nửa sau thế kỷ III TCN, tức là sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trước tiên được truyền sang Xri Lanca, sau đó truyền đến các nước khác như Myanma, Thái Lan, Inđônêxia...</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến khoảng năm 100 sau CN, đạo Phật triệu tập đại hội lần thứ tư tại nước Cusan ở Tây Bắc Ấn Độ. Đại hội này thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách, và phái Phật giáo mới này được gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi là phái Tiểu thừa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiện ở các mặt sau đây:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Phái Tiểu thừa (Hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp” cho rằng chỉ có những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là cỗ xe lớn hoặc “con đường cứu vớt rộng” thì cho rằng không phải chỉ những người tu hành mà cả những người trần tục quy y theo Phật cũng được cứu vớt.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Phái Tiểu thừa cho rằng chỉ có Phật Thích Ca là Phật duy nhất. Việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới làm được, những người thường không thể thành Phật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Phái Đại thừa cho rằng Phật Thích Ca là Phật cao nhất, nhưng ngoài Phật Thích Ca còn có nhiều Phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư. Phật A Di Đà hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây. Phật Di Lặc là vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này mà sách Phật gọi là cõi Ta bà (Saha) nghĩa là nơi khó chịu đựng. Phật Dược Sư ở cõi Tĩnh lưu ly ở phía đông thế giới chúng ta. Phật Dược Sư thường cứu giúp chúng sinh tai qua nạn khỏi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hơn nữa phái Đại thừa cho rằng ai cũng có thể thành Phật và thực tế đã có nhiều người đã đạt đến cõi Phật. Đó là các Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Địa Tạng... Tuy đã thành Phật, nhưng các Bồ tát không lên cõi Niết bàn mà tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Phái Tiểu thừa quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau. Phật Thích Ca đã đạt đến cảnh giới Niết bàn vào năm 35 tuổi, sau đó Phật vẫn tiếp tục sống và hoạt động 45 năm nữa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Phái Đại thừa thì quan niệm Niết bàn là thế giới của các Phật giống như thiên đường của các tôn giáo khác. Đồng thời với quan niệm đó, phái Đại Thừa còn tạo ra địa ngục, nơi đày đọa những kẻ tội lỗi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Phái Đại thừa còn đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là kẻ trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ đó, tượng Phật được tạc đúc rất nhiều, nghi thức cúng bái càng phức tạp, hương hoa cũng được sử dụng trong khi cúng Phật.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sau đại hội Phật giáo lần thứ tư, các nhà sư càng được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo; do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và Trung Quốc. Những thế kỷ tiếp sau đó, đạo Phật suy yếu dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát triển ở phần lớn Châu Á và đã trở thành quốc giáo của một số nước như Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>c) Đạo Jain (Jainisme, Kỳna)</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Jain (Giainơ) là một người xuất thân từ đẳng cấp Ksatơrya ở ngoại ô thành Vaixali thuộc tỉnh Biha ngày nay. Sau khi đắc đạo, ông được các tín đồ gọi là Mihariva nghĩa là “Đại anh hùng”. Về niên đại có thuyết nói ông sinh năm 599 và chết năm 527 TCN, có thuyết nói ông sinh năm 549 và chết năm 477 TCN.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Năm Mihariva 30 tuổi, cha mẹ ông vì lòng tin tôn giáo đã nhịn ăn tự tử. Buồn rầu từ việc đó, ông từ bỏ gia đình và từ bỏ mọi tiện nghi kể cả quần áo, đi lang thang tu hành khổ hạnh ở miền Tây Bengan. Sau 13 năm, ông được các tín đồ của mình tôn là “Jina” nghĩa là khắc phục ham muốn và gọi tôn giáo do ông sáng lập là đạo Jain.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Jain chủ trương không thờ thượng đế vì họ cho rằng vũ trụ không phải do một đấng hóa công nào sáng tạo ra, nhưng lại thờ tất cả các thần thánh trong huyền thoại. Đồng thời họ cũng cho rằng vạn vật đều có linh hồn và cũng tán thành thuyết luân hồi. Chỉ có những linh hồn hoàn hảo nhất mới chấm dứt được vòng luân hồi, được giải thoát vĩnh viễn và được tồn tại một cách sung sướng ở Niết bàn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Giới luật của đạo Jain cũng gồm có 5 điều chủ yếu:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Không được giết bất cứ một sinh vật nào.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Không nói dối.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Không lấy bất kỳ một vật gì của kẻ khác nếu không phải là tặng phẩm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Không dâm dục.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Không được tích lũy của cải quá nhiều. Phải sống khổ hạnh, từ chối mọi thú vui của xã hội.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Tín đồ đạo Jain thường thực hiện giới Luật đó một cách rất máy móc. Ví dụ để giữ đúng luật không sát sinh, họ kiêng cày ruộng để khỏi làm chết các sinh vật trong đất; kiêng ăn mật để khỏi làm hại đến đời sống của ong; kiêng lọc nước để khỏi làm chết các sinh vật nhỏ trong nước; mỗi lần bước chân đi đều phải quét sạch mặt đất phía trước để khỏi dẫm chết các sinh vật nhỏ ở trên đường v.v... Trái lại, đối với bản thân mình tín đồ đạo Jain phải thản nhiên trước cái chết tức là phải thắng được lòng ham sống, rồi đến một tuổi nào đó, họ chủ trương tuyệt thực tự tử.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Do quan niệm của đạo Jain về thế giới và nhân sinh như vậy nên đạo Jain chống lại uy quyền của kinh Vêđa, cho rằng lời trong kinh Vêđa không phải là lời dạy của Thượng đế vì đơn giản là không có Thượng đế. Đạo Jain cũng chống đạo Bàlàmôn và những hình thức cúng bái phiền phức của nó, đồng thời cũng chống chế độ đẳng cấp.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến khoảng thế kỷ I sau CN, đạo Jain chia thành hai phái: phái Svetambara là phái áo trắng và phái Đigambara là phái áo trời tức là khỏa thân. Về sau tín đồ phái Đigambara cũng mặc quần áo bình thường, chỉ có các đạo sĩ của họ thì hoàn toàn không mặc quần áo kể cả khi ra ngoài đường.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đền thờ của đạo Jain mang tính chất quần thể, thường gồm nhiều ngôi đền giống nhau. Trong đền có rất nhiều cột, có đền có đến trên 1.000 cột. Đặc biệt là những cột ấy đều làm bằng đá cẩm thạch trắng và được chạm khắc rất đẹp và mỗi cột có một vẻ khác nhau.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Do đạo Jain là một tôn giáo khắt khe và có phần kỳ quặc nên truyền bá không được rộng rãi. Tuy vậy đạo Jain vẫn tồn tại ở Ấn Độ suốt chiều dài lịch sử và ngày nay số tín đồ chiếm khoảng 0,7% dân số Ấn Độ, tập trung chủ yếu ở miền Tây và Tây nam đất nước này.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>d) Đạo Xích (Sikh)</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Từ thế kỷ VIII, đạo Phật hoàn toàn suy, đạo Hinđu trở thành tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Cũng vào thời kỳ này, đạo Hồi bắt đầu được truyền vào Ấn Độ và từ thế kỷ XIII về sau thì trở thành tôn giáo có thế lực ở quốc gia này.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Dựa trên giáo lý của đạo Hinđu và đạo Hồi, đến cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, ở Ấn Độ xuất hiện một giáo phái mới gọi là đạo Xích. Chữ “Sikh” vốn bắt nguồn từ chữ Sishya nghĩa là “đệ tử”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Người sáng lập đạo Xích là Nanac Đép (Nanak Dev, 1469-1538).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đạo Xích chỉ tin vào một vị thần tối cao duy nhất, chống việc thờ các tượng thần. Họ phản đối sự cuồng tín của đạo Hinđu và đạo Hồi, không hành hương đến các con sông như đạo Hinđu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Kinh thánh của đạo xích là Gran Sahep bao gồm tác phẩm của 10 giáo sĩ đạo xích cùng với kinh của đạo Hinđu và kinh của đạo Hồi. Ngôi đền thờ lớn nhất của đạo Xích là đền vàng ở bang Punjap.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về mặt xã hội, đạo Xích chống chế độ đẳng cấp, thực hiện sự khoan dung và yêu mến mọi người, coi trọng sự mến khách, sẵn sàng giúp đỡ những người đến nương náu trong đền thờ của họ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến thế kỷ XVII, giáo sĩ Gôbin Xinh bổ sung cho đạo Xích yếu tố vũ trang để đối phó với nạn khủng bố người theo đạo Xích. Từ đó tên của nam tín đồ đạo Xích đều có thêm chữ Xinh. Đồng thời giáo sĩ Gôbin Xinh quy định 5 đặc điểm của tín đồ đạo Xích là:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Không cắt tóc, không cạo râu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Luôn luôn mang theo lược chải đầu bằng gỗ hoặc ngà.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Mặc quần ngắn.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Đeo vòng tay bằng sắt.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Mang kiếm ngắn hoặc dao găm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngày nay số tín đồ đạo xích chiếm khoảng 2% dân số Ấn Độ. Họ đòi tách bang Punjap khỏi Ấn Độ để thành lập một nước độc lập gọi là Khalixtan.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">Nguồn :</span></strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)"> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục </span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179965, member: 288054"] [SIZE=5][B]5. Tôn giáo[/B][/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/threads/an-do-co-dai.77722/'][SIZE=5]Ấn Độ[/SIZE][/URL][SIZE=5] là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là đạo Bàlamôn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích. [B]a) Đạo Bàlamôn - Đạo Hindu[/B][/SIZE] [LIST] [*][SIZE=5]Đạo Bàlamôn.[/SIZE] [/LIST] [SIZE=5]Trong thời kỳ đầu của [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-co-dai-nguyen-thuy-the-ky-v.108/'][SIZE=5]thời Vêđa[/SIZE][/URL][SIZE=5], quan niệm tín ngưỡng của người Ấn Độ còn mang nhiều dấu vết của thời nguyên thủy. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn nên họ sùng bái rất nhiều thứ, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, người chết và nhiều loài động vật... Đến những thế kỷ đầu của thiên kỷ I TCN, do sự phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng về đẳng cấp ngày càng sâu sắc, từ các hình thức tín ngưỡng dân gian dần dần đã tập hợp thành một tôn giáo lớn gọi là đạo Bàlamôn. Như vậy, đạo Bàlamôn là một tôn giáo không có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội chặt chẽ. Đạo Bàlamôn là một tôn giáo đa thần trong đó cao nhất là thần Brama. Đó là vị thần sáng tạo thế giới. Tuy vậy, có nơi cho thần Siva, vị thần phá hoại là thần cao nhất; có nơi lại cho thần Visnu, thần bảo vệ, thần ánh sáng, thần bốn mùa, thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm mưa tưới cho ruộng đồng tươi tốt là vị thần cao nhất. Do vậy, đến những thế kỷ đầu công nguyên, đạo Bàlamôn chia thành hai phái là phái thờ thần Siva và phái thờ thần Visnu. Để thống nhất các phái đó, đạo Bàlamôn nêu ra quan niệm thần sáng tạo Brama, thần phá hoại Siva và thần bảo vệ Visnu tuy là ba nhưng vốn là một. Ngoài ra, nhiều loài động vật như voi, khỉ và nhất là bò cũng là những đối tượng sùng bái của đạo Bàlamôn. [/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/forums/lich-su-the-gioi.786/'][SIZE=5]Trong giáo lý của đạo Bàlamôn[/SIZE][/URL][SIZE=5] có một nội dung rất quan trọng, đó là thuyết luân hồi. Đạo Bàlamôn giải thích rằng linh hồn của con người là một bộ phận của Brama mà Brama là một tồn tại vĩnh hằng, cho nên con người tuy có sống có chết, nhưng linh hồn thì còn mãi mãi và sẽ luân hồi trong nhiều kiếp sinh vật khác nhau. Những người giữ đúng luật lệ của tôn giáo và các quy tắc mà thần đã định sẵn cho mình thì kiếp sau sẽ được đầu thai thành người cao quý, trái lại thì sẽ càng khổ cực, thậm chí sẽ bị đầu thai làm chó lợn và những động vật bẩn thỉu. Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ. Trước khi đạo Bàlamôn ra đời, trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy của người Arya, chế độ đẳng cấp đã xuất hiện rồi. Đó là chế độ chia cư dân tự do thành 4 đẳng cấp: Braman, Ksatơrya, Vaisya, Suđra. Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo. Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sĩ. Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, một số nghề thủ công. Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy. Ví dụ, luật Manu, một bộ luật về tập quán được hoàn thành vào khoảng đầu công nguyên chép: “Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình, ngài (thần Brama) đã tạo nên Braman, Ksatơrya, Vaisya và Sudra”. Trong 4 đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn có địa vị cao nhất. Luật Manu viết: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brama, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa, Bàlamôn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy”. Ngoài Bàlamôn, chỉ có hai đẳng cấp Ksatơrya và Vaisya mới được trở thành tín đồ của đạo Bàlamôn và cả ba đẳng cấp trên được quan niệm là những người sinh hai lần; còn Suđra không được dự các buổi lễ tôn giáo và được quan niệm là những người sinh một lần. Đạo Bàlamôn đã truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỷ. Đến khoảng thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới là đạo Phật. Đạo Bàlamôn bị suy thoái trong một thời gian dài. [B]* Đạo Hindu[/B] (Ấn Độ giáo). Sau một thời gian hưng thịnh, đến khoảng thế kỷ VII, đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Nhân tình hình đó, đạo Bàlamôn dần dần phục hưng, đến khoảng thế kỷ VIII, IX đạo Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ... Từ đó, đạo Bàlamôn được gọi là đạo Hinđu, trước đây ta hay gọi là Ấn Độ giáo. Đối tượng sùng bái chủ yếu của đạo Hinđu vẫn là ba thần Brama, Siva và Visnu. Thần Brama được thể hiện bằng một hình tượng có 4 đầu để chứng tỏ thần có thể nhìn thấu mọi nơi. Bốn tập kinh Vêđa chính là được phát ra từ 4 cái miệng của thần Brama. Thần Siva được thể hiện thành hình tượng có mắt thứ ba ở trên trán, luôn luôn cầm một cái đinh ba Siva thường cưỡi bò hoặc ngồi trên tấm da hổ, có những con rắn hổ mang quấn quanh cổ. Thần Siva là thần phá hoại những thứ mà thần Brama sáng tạo ra, nhưng Siva cũng có mặt sáng tạo. Sự sáng tạo ấy được thể hiện qua hình tượng linga - yoni mà nhân dân Ấn Độ sùng bái. Liên quan đến thần Siva có nữ thần Kali (còn gọi là nữ thần Pácvati), vợ của thần Siva và thần Ganêxa, con trai của thần. Nữ thần Kali (Pavacti) được thể hiện thành hình tượng một phụ nữ mặt đen, miệng há hoác, lưỡi lè ra. Nữ thần cũng trang sức bằng những con rắn, đeo hoa tai bằng xác đàn ông, chuỗi hạt là những sọ người, mặt và ngực bôi đầy máu. Thần có 4 tay, một tay cầm gươm, một tay cầm một đầu người, còn hai tay nữa thì đưa ra để ban phúc lành. Trước kia có khi phải giết người để tế thần Kali, về sau chỉ cúng bằng dê cái. Thần Ganêxa tuy có hình thù kỳ dị đầu voi mình người nhưng đó là thần Trí tuệ và Thịnh vượng. [/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/'][SIZE=5]Thần Visnu[/SIZE][/URL][SIZE=5] được quan niệm là đã giáng trần 9 lần. Trong sáu lần đầu, thần xuất hiện dưới dạng các động vật như cá, lợn rừng... Đến lần thứ 7, thần Visnu chính là Rama, nhân vật chính trong sử thi Ramayana. Lần thứ 8, thần Visnu giáng thế thành thần Krisna. Thần Krisna thường bênh vực kẻ nghèo, chữa bệnh cho người mù, người điếc và làm cho người chết sống lại. Lần thứ 9, thần Visnu biến thành Phật Thích ca. Đây là một biểu tượng chứng tỏ đạo Hinđu có tiếp thu một số yếu tố của đạo Phật, đồng thời đây cũng là một thủ đoạn để đạo Hinđu thu hút các tín đồ đạo Phật cải giáo theo đạo Hinđu. Đến kiếp thứ 10 tức là lần giáng sinh cuối cùng, thần Visnu sẽ biến thành thần Kali. Đó là vị thần sẽ hủy diệt thế giới cũ tội lỗi, tạo dựng thế giới mới với đạo đức trong sáng. Ngoài các vị thần nói trên, các loài động vật như khỉ, bò, rắn, hổ, cá sấu, chim công, vẹt, chuột v.v... cũng là các thần đạo Hindu, trong đó được tôn sùng hơn cả là thần khỉ và thần bò. Thần khỉ Hanuman sở dĩ được tôn thờ vì có công giúp Rama (tức là Visnu) giết được quỷ Ravan để đưa Sita trở về quê hương. Vì vậy thần Hanuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành. Để cúng thần Hanuman người theo đạo Hinđu ăn chay vào ngày thứ ba hàng tuần. Hình thức ăn chay là ban ngày chỉ uống nước, tối mới được ăn. Thần bò Kamđênu được thần Krisna (kiếp thứ 8 của Visnu) chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần Kamđênu được quan niệm là do thần Brama tạo ra đồng thời với đẳng cấp Bàlamôn và được coi là mẹ của hầu hết các thần. Vì vậy, cho đến nay, bò được coi là một con vật thiêng liêng. Tín đồ đạo Hinđu không những kiêng ăn thịt bò mà còn không dùng những đồ dùng làm bằng da bò. Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva. Mỗi buổi sáng, tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phái Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò cái hoặc đeo ở tay, ở cổ cái linga. Tuy nhiên hai phái đó vẫn đoàn kết với nhau và có khi cùng cúng tế trong một ngôi đền. Đạo Hinđu cũng chú trọng thuyết luân hồi, cho rằng con người sau khi chết, linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần. Mỗi lần đầu thai như vậy con người sẽ sung sướng hơn hay khổ cực hơn kiếp trước là tùy thuộc vào những việc làm của kiếp trước tức là quả báo (Karma). Kinh thánh của đạo Hinđu, ngoài các tập [I]Vêđa[/I] và [I]Upanisát[/I] còn có [I]Mahabharata, Bhagavad Gita, Ramayana[/I] và [I]Purana.[/I] Mahabharata, Bhagavad Gita và Ramayana là những tập trường ca, còn Purana là tập truyện cổ nói về sự sáng tạo, sự biến chuyển và sự hủy diệt của thế giới. Sau khi phục hưng, đạo Hinđu được các vương công Ấn Độ hết sức ủng hộ, do đó đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa nguy nga và ban cấp cho rất nhiều ruộng đất, có khi lên đến hàng nghìn làng. Trong các chùa ấy đã tạc rất nhiều tượng thần để thờ. Các tượng thần đạo Hinđu thường có hình thù kỳ dị đáng sợ như nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay... trong các chùa lớn có tới hàng nghìn tu sĩ Bàlamôn và hàng nghìn vũ nữ. Khỉ tế lễ, các tu sĩ thường xoa dầu, xức nước hoa cho tượng, dùng thịt dê cùng các thức ăn uống khác để cúng thần. Trong khi cử hành lễ cúng, các thầy tu đọc kinh, còn các vũ nữ thì múa những điệu múa tôn giáo. Về tục lệ, [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/'][SIZE=5]đạo Hinđu [/SIZE][/URL][SIZE=5]cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Đến thời kỳ này, do sự phát triển của các ngành nghề, trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ (vama) đã xuất hiện rất nhiều đẳng cấp nhỏ mới gọi là [I]jati.[/I] Những đẳng cấp nhỏ này cũng có sự phân biệt về địa vị xã hội rất khắt khe, đóng kín về mọi mặt và đời đời cha truyền con nối. Đặc biệt đạo Hinđu hết sức khinh bỉ và ghê tởm tầng lớp lao động nghèo khổ phải làm các nghề bị coi là hèn hạ như quét rác, đồ tể, đao phủ, đốt than, đánh cá v.v... Những người làm các nghề đó bị coi là những người ô uế, không thể tiếp xúc được. Nếu những người sạch sẽ nhỡ đụng chạm vào họ thì phải tẩy uế. Nếu nhiễm uế nhẹ thì chỉ cần vẩy nước thánh là được; nếu nặng thì phải rửa bằng nước tiểu bò, thậm chí phải uống một thứ nước gồm 5 chất của bò cái: sữa lỏng, sữa đặc, bơ, nước tiểu và phân. Đạo Hinđu còn duy trì lâu dài nhiều tục lệ lạc hậu như tảo hôn, vợ góa phải hỏa táng theo chồng. Nếu không tuẫn tiết thì phải cạo trọc đầu và ở vậy suốt đời không được tái giá. Ngày nay các tục lệ đó đều đã bãi bỏ. Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời kỳ đạo Phật thịnh hành, đạo Bàlamôn - đạo Hinđu là tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Tôn giáo này còn truyền bá sang một số nước Đông Nam Á, đặc biệt là Campuchia từ thời Ăngco về trước. Ngày nay, ở Ấn Độ có khoảng 84% tổng số cư dân theo đạo Hinđu. Ngoài Ấn Độ, đa số dân Nêpan và đảo Bali ở Inđônêxia, gần 20% dân Bănglađét và Xri Lanca vẫn theo đạo Hinđu. Ở nước ta, một bộ phận đồng bào Chăm cũng là tín đồ của đạo này, nhưng đó là một thứ đạo Bàlamôn - Hinđu đã sửa đổi nhiều. [B]b) Đạo Phật[/B] Vào giữa thiên kỷ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện một số dòng tư tưởng chống đạo Bàlamôn. Đạo Phật là một trong những dòng tư tưởng ấy. Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là Xitđácta Gôtama (Siddharta Gautama), sau khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni (Thích ca Mâuni), con vua Sutđôđana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay. Năm 29 tuổi, hoàng tử Xitđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Đến năm 35 tuổi, Xitđácta đã nghĩ ra được cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được con đường cứu vớt. Từ đó, ông được gọi là Buddha, ta quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là “người đã giác ngộ”, “người đã hiểu được chân lý”. Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhau. Có một số người cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số người khác thì cho rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo. [/SIZE] [LIST] [*][URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-trung-dai-the-ky-v-xvi.109/'][SIZE=5]Học thuyết Phật giáo.[/SIZE][/URL] [/LIST] [SIZE=5]Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói sau đây của Phật Thích ca: “Trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khô”. “Cũng như nước đại dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt”. Cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể hiện trong thuyết [I]“tứ thánh đế”[/I] hoặc còn gọi [I]“tứ diệu đế”, “tứ chân đế”[/I], [I]“tứ đế”,[/I] nghĩa là 4 chân lý thánh. Đó là: [I]khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.[/I] [B][I]Khổ đế[/I][/B] [I]là chân lý về các nỗi khổ. Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ): sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không được, giữ lấy 5 uẩn (thủ ngũ uẩn).[/I] [I]“Uẩn (skandha) là tập hợp, tích tụ. Đạo Phật cho rằng con người không có thực thể tự nó (vô ngã) mà chỉ là sự tập hợp 5 thứ:[/I] [B][I]sắc[/I][/B] [I](vật chất tạo thành thân thể),[/I] [B][I]thụ[/I][/B] [I](cảm giác),[/I] [B][I]tưởng[/I][/B] [I](quan niệm),[/I][B][I]hành[/I][/B] [I](hành động),[/I] [B][I]thức[/I][/B] [I](nhận thức). Vì con người chỉ là sự tập hợp của 5 thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.[/I] Như vậy, đối với con người, ngoài khổ đau vô tận, không có cái gì khác. [B][I]Tập đế[/I][/B] [I]là chân lý về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu là luân hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn như ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang... Ham muốn không dứt thì nghiệp không dứt, nghiệp không dứt thì luân hồi mãi mãi.[/I] [B][I]Diệt đế[/I][/B] [I]là chân lý về sự chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải chấm dứt nghiệp. Đó là một món nợ truyền từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo nên, do đó nói vắn tắt muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn.[/I] Một khi đã chấm dứt được luân hồi thì sẽ được yên tĩnh, thanh thản, sáng suốt và như vậy đã đạt tới cảnh giới Niết bàn (Nirvana). Đạo đế là chân lý về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt khổ. Con đường đó gọi là “bát chính đạo” (8 con đường đúng đắn), gồm: chính kiến: tín ngưỡng đúng đắn. chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn. chính ngữ: nói năng đúng đắn. chính nghiệp: hành động đúng đắn. chính mệnh: sống đúng đắn. chính tịnh tiến: mơ tưởng những cái đúng đắn. chính niệm: tưởng nhớ những cái đúng đắn. chính định: tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ đúng đắn. Chung quy “bát chính đạo” là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng đắn. Về giới luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 thứ (ngũ giới): không sát sinh. không trộm cắp. không tà dâm. không nói dối. không uống rượu. Trong số đó, giới luật “không sát sinh” là không được giết người, còn giết các động vật thì luật cấm không khắt khe lắm. Phật giáo ban đầu không cấm tín đồ ăn thịt. Tục tín đồ, nhất là các tăng ni phải ăn chay, không được ăn thịt động vật là do vua Lương Vũ đế (502-549) của Trung Quốc đặt ra vào thời kỳ đạo Phật thịnh hành ở nước này. Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết [I]duyên khởi.[/I] Duyên khởi là chữ nói tắt câu “chư pháp do nhân duyên nhi khởi” nghĩa là “các pháp đều do nhân duyên mà có”. “Pháp” (dharma) là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần. Giáo lý của đạo Phật cũng là sự vật nên cũng gọi là “pháp”. Còn nhân duyên là nguyên nhân, nhưng trong đó, nhân là nguyên nhân chủ yếu, duyên là nguyên nhân phụ. Ví dụ: Sở dĩ một cái cây có thể nảy mầm và phát triển được là nhờ có hạt giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng, trong đó, hạt giống là nhân, đất nước, khi trời ánh sáng là duyên. Như vậy, mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nhưng duyên khởi do đâu mà có? Học thuyết Phật giáo giải thích rằng duyên khởi do tâm mà ra. Tâm là nguồn gốc của duyên khởi thì cũng là nguồn gốc của vạn vật. Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương “vô tạo giả” tức là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là một nội dung cơ bản mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn và cũng là một sự khác biệt quan trọng giữa đạo Phật với nhiều tôn giáo khác. Bên cạnh thuyết [I]“vô tạo giả”,[/I] đạo Phật còn nêu ra các thuyết [I]“vô ngã”, “vô thường”.[/I] [B][I]Vô ngã[/I][/B] [I]là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài. Đây là nội dung thứ hai mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn, vì đạo Bàlamôn chủ trương có bản ngã.[/I] [B][I]Vô thường[/I][/B] [I]là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ không bao giờ được ổn định.[/I] Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trương vô thần (vô tạo giả) nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan. Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, vì đạo Phật cho rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu vớt. Mọi người, dù thuộc đẳng cấp nào một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật thì đều trở thành những thành viên bình đẳng của một Tăng đoàn. Đồng thời đạo Phật mong muốn có một xã hội trong đó vua thì có đạo đức và phải dựa vào pháp luật để trị nước, không được chuyên quyền độc đoán, còn nhân dân thì được an cư lạc nghiệp. Như vậy, đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng đế và các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp thầy cúng. [/SIZE] [LIST] [*][SIZE=5]Sự phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ[/SIZE] [/LIST] [SIZE=5]Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ. Để soạn thảo giáo lý, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức, từ thế kỷ V-III TCN, đạo Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa, quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ. Từ nửa sau thế kỷ III TCN, tức là sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trước tiên được truyền sang Xri Lanca, sau đó truyền đến các nước khác như Myanma, Thái Lan, Inđônêxia... Đến khoảng năm 100 sau CN, đạo Phật triệu tập đại hội lần thứ tư tại nước Cusan ở Tây Bắc Ấn Độ. Đại hội này thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách, và phái Phật giáo mới này được gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi là phái Tiểu thừa. Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiện ở các mặt sau đây: - Phái Tiểu thừa (Hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp” cho rằng chỉ có những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt. Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là cỗ xe lớn hoặc “con đường cứu vớt rộng” thì cho rằng không phải chỉ những người tu hành mà cả những người trần tục quy y theo Phật cũng được cứu vớt. - Phái Tiểu thừa cho rằng chỉ có Phật Thích Ca là Phật duy nhất. Việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới làm được, những người thường không thể thành Phật. Phái Đại thừa cho rằng Phật Thích Ca là Phật cao nhất, nhưng ngoài Phật Thích Ca còn có nhiều Phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư. Phật A Di Đà hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây. Phật Di Lặc là vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này mà sách Phật gọi là cõi Ta bà (Saha) nghĩa là nơi khó chịu đựng. Phật Dược Sư ở cõi Tĩnh lưu ly ở phía đông thế giới chúng ta. Phật Dược Sư thường cứu giúp chúng sinh tai qua nạn khỏi. Hơn nữa phái Đại thừa cho rằng ai cũng có thể thành Phật và thực tế đã có nhiều người đã đạt đến cõi Phật. Đó là các Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Địa Tạng... Tuy đã thành Phật, nhưng các Bồ tát không lên cõi Niết bàn mà tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh. - Phái Tiểu thừa quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau. Phật Thích Ca đã đạt đến cảnh giới Niết bàn vào năm 35 tuổi, sau đó Phật vẫn tiếp tục sống và hoạt động 45 năm nữa. Phái Đại thừa thì quan niệm Niết bàn là thế giới của các Phật giống như thiên đường của các tôn giáo khác. Đồng thời với quan niệm đó, phái Đại Thừa còn tạo ra địa ngục, nơi đày đọa những kẻ tội lỗi. Phái Đại thừa còn đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là kẻ trung gian giữa tín đồ và Bồ tát. Từ đó, tượng Phật được tạc đúc rất nhiều, nghi thức cúng bái càng phức tạp, hương hoa cũng được sử dụng trong khi cúng Phật. Sau đại hội Phật giáo lần thứ tư, các nhà sư càng được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo; do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và Trung Quốc. Những thế kỷ tiếp sau đó, đạo Phật suy yếu dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát triển ở phần lớn Châu Á và đã trở thành quốc giáo của một số nước như Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào. [B]c) Đạo Jain (Jainisme, Kỳna)[/B] Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Jain (Giainơ) là một người xuất thân từ đẳng cấp Ksatơrya ở ngoại ô thành Vaixali thuộc tỉnh Biha ngày nay. Sau khi đắc đạo, ông được các tín đồ gọi là Mihariva nghĩa là “Đại anh hùng”. Về niên đại có thuyết nói ông sinh năm 599 và chết năm 527 TCN, có thuyết nói ông sinh năm 549 và chết năm 477 TCN. Năm Mihariva 30 tuổi, cha mẹ ông vì lòng tin tôn giáo đã nhịn ăn tự tử. Buồn rầu từ việc đó, ông từ bỏ gia đình và từ bỏ mọi tiện nghi kể cả quần áo, đi lang thang tu hành khổ hạnh ở miền Tây Bengan. Sau 13 năm, ông được các tín đồ của mình tôn là “Jina” nghĩa là khắc phục ham muốn và gọi tôn giáo do ông sáng lập là đạo Jain. Đạo Jain chủ trương không thờ thượng đế vì họ cho rằng vũ trụ không phải do một đấng hóa công nào sáng tạo ra, nhưng lại thờ tất cả các thần thánh trong huyền thoại. Đồng thời họ cũng cho rằng vạn vật đều có linh hồn và cũng tán thành thuyết luân hồi. Chỉ có những linh hồn hoàn hảo nhất mới chấm dứt được vòng luân hồi, được giải thoát vĩnh viễn và được tồn tại một cách sung sướng ở Niết bàn. Giới luật của đạo Jain cũng gồm có 5 điều chủ yếu: - Không được giết bất cứ một sinh vật nào. - Không nói dối. - Không lấy bất kỳ một vật gì của kẻ khác nếu không phải là tặng phẩm. - Không dâm dục. - Không được tích lũy của cải quá nhiều. Phải sống khổ hạnh, từ chối mọi thú vui của xã hội. [I]Tín đồ đạo Jain thường thực hiện giới Luật đó một cách rất máy móc. Ví dụ để giữ đúng luật không sát sinh, họ kiêng cày ruộng để khỏi làm chết các sinh vật trong đất; kiêng ăn mật để khỏi làm hại đến đời sống của ong; kiêng lọc nước để khỏi làm chết các sinh vật nhỏ trong nước; mỗi lần bước chân đi đều phải quét sạch mặt đất phía trước để khỏi dẫm chết các sinh vật nhỏ ở trên đường v.v... Trái lại, đối với bản thân mình tín đồ đạo Jain phải thản nhiên trước cái chết tức là phải thắng được lòng ham sống, rồi đến một tuổi nào đó, họ chủ trương tuyệt thực tự tử.[/I] Do quan niệm của đạo Jain về thế giới và nhân sinh như vậy nên đạo Jain chống lại uy quyền của kinh Vêđa, cho rằng lời trong kinh Vêđa không phải là lời dạy của Thượng đế vì đơn giản là không có Thượng đế. Đạo Jain cũng chống đạo Bàlàmôn và những hình thức cúng bái phiền phức của nó, đồng thời cũng chống chế độ đẳng cấp. Đến khoảng thế kỷ I sau CN, đạo Jain chia thành hai phái: phái Svetambara là phái áo trắng và phái Đigambara là phái áo trời tức là khỏa thân. Về sau tín đồ phái Đigambara cũng mặc quần áo bình thường, chỉ có các đạo sĩ của họ thì hoàn toàn không mặc quần áo kể cả khi ra ngoài đường. Đền thờ của đạo Jain mang tính chất quần thể, thường gồm nhiều ngôi đền giống nhau. Trong đền có rất nhiều cột, có đền có đến trên 1.000 cột. Đặc biệt là những cột ấy đều làm bằng đá cẩm thạch trắng và được chạm khắc rất đẹp và mỗi cột có một vẻ khác nhau. Do đạo Jain là một tôn giáo khắt khe và có phần kỳ quặc nên truyền bá không được rộng rãi. Tuy vậy đạo Jain vẫn tồn tại ở Ấn Độ suốt chiều dài lịch sử và ngày nay số tín đồ chiếm khoảng 0,7% dân số Ấn Độ, tập trung chủ yếu ở miền Tây và Tây nam đất nước này. [B]d) Đạo Xích (Sikh)[/B] Từ thế kỷ VIII, đạo Phật hoàn toàn suy, đạo Hinđu trở thành tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Cũng vào thời kỳ này, đạo Hồi bắt đầu được truyền vào Ấn Độ và từ thế kỷ XIII về sau thì trở thành tôn giáo có thế lực ở quốc gia này. Dựa trên giáo lý của đạo Hinđu và đạo Hồi, đến cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, ở Ấn Độ xuất hiện một giáo phái mới gọi là đạo Xích. Chữ “Sikh” vốn bắt nguồn từ chữ Sishya nghĩa là “đệ tử”. Người sáng lập đạo Xích là Nanac Đép (Nanak Dev, 1469-1538). Đạo Xích chỉ tin vào một vị thần tối cao duy nhất, chống việc thờ các tượng thần. Họ phản đối sự cuồng tín của đạo Hinđu và đạo Hồi, không hành hương đến các con sông như đạo Hinđu. Kinh thánh của đạo xích là Gran Sahep bao gồm tác phẩm của 10 giáo sĩ đạo xích cùng với kinh của đạo Hinđu và kinh của đạo Hồi. Ngôi đền thờ lớn nhất của đạo Xích là đền vàng ở bang Punjap. Về mặt xã hội, đạo Xích chống chế độ đẳng cấp, thực hiện sự khoan dung và yêu mến mọi người, coi trọng sự mến khách, sẵn sàng giúp đỡ những người đến nương náu trong đền thờ của họ. Đến thế kỷ XVII, giáo sĩ Gôbin Xinh bổ sung cho đạo Xích yếu tố vũ trang để đối phó với nạn khủng bố người theo đạo Xích. Từ đó tên của nam tín đồ đạo Xích đều có thêm chữ Xinh. Đồng thời giáo sĩ Gôbin Xinh quy định 5 đặc điểm của tín đồ đạo Xích là: - Không cắt tóc, không cạo râu. - Luôn luôn mang theo lược chải đầu bằng gỗ hoặc ngà. - Mặc quần ngắn. - Đeo vòng tay bằng sắt. - Mang kiếm ngắn hoặc dao găm. Ngày nay số tín đồ đạo xích chiếm khoảng 2% dân số Ấn Độ. Họ đòi tách bang Punjap khỏi Ấn Độ để thành lập một nước độc lập gọi là Khalixtan. [B][COLOR=rgb(65, 168, 95)]Nguồn :[/COLOR][/B][COLOR=rgb(65, 168, 95)] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục [/COLOR][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu chính của văn minh Ấn Độ
Top