Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu chính của văn minh Ấn Độ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 179962" data-attributes="member: 288054"><p><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-co-dai-nguyen-thuy-the-ky-v.108/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á</span></a><span style="font-size: 18px">, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. </span><a href="https://vnkienthuc.com/threads/an-do-co-dai.77722/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Ấn Độ</span></a><span style="font-size: 18px"> chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông). Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này. </span></p><p></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">[ATTACH=full]2913[/ATTACH]</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>1. Chữ viết</strong></span></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/" target="_blank"><span style="font-size: 18px">Chữ viết đầu tiên ở Ấn Độ </span></a><span style="font-size: 18px">được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn đã phát hiện được hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa. Suốt nửa thế kỷ từ khi phát hiện lần đầu tiên vào năm 1921, nhiều tác giả của nhiều nước đã nghiên cứu cách đọc loại chữ này nhưng chưa thành công. Mãi đến cách đây vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn Độ là Tiến sĩ S.R. Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ này.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Theo ông Rao, đây là một loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần. Trong số hơn 3.000 con dấu ấy có 22 dấu cơ bản. Loại chữ này chủ yếu viết từ phải sang trái. Những con dấu đã phát hiện được là những con dấu dùng để đóng trên các kiện hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứ của những hàng hóa đó.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Đến khoảng thế kỷ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết của vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Axôca đều viết bằng loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Đêvanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Xanxcrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nêpan vẫn dùng loại chữ này.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>2. Văn học</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ấn Độ là một nước có nền văn học rất phát triển. Thời cổ đại văn học Ấn Độ gồm hai bộ phận quan trọng là Vêđa và sử thi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">a) Vêđa</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vêđa vốn nghĩa là hiểu biết. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama Vêda, Yagiua Vêđa và Atácva Vêđa.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ba tập Vêđa trên gồm những bài ca và những bài cầu nguyện phản ánh tình hình người Arya tràn vào Ấn Độ, tình hình tan rã của chế độ thị tộc, tình hình cư dân đấu tranh với thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt. Trong đó, Rích Vêđa với 1028 bài thơ là tập quan trọng nhất.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Còn Atácva Vêđa chủ yếu bao gồm các bài chú nhưng nội dung mà tập Vêđa này đề cập đến gồm các mặt như chế độ đẳng cấp, việc hành quân, chữa bệnh, đánh bạc và cả tình yêu nữa.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ca ngợi thần sét Inđra, Rích Vêđa viết:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tôi muốn ca ngợi sự tích anh hùng của thần Inđra,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Những chiến công của vị thần Thiên Lôi ấy,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ngài đã chém con ác long cho nước mưa tuôn chảy,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Và mở toang các hang động trên non cao.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nói về uy quyền của đẳng cấp Bàlamôn khi họ làm cố vấn tôn giáo cho nhà vua, Atácva Vêđa viết:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Sắc hơn lưỡi búa,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Sáng hơn ngọn lửa,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vang hơn tiếng sét của Indra.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Cố vấn của người như thế chính là ta.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Trong Atácva Vêđa cũng có những bài thơ tỏ tình:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Như gió lay ngọn cỏ,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Anh lay chuyển lòng em</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Rồi em sẽ yêu anh</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Và không rời anh nữa.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Kế tiếp theo 4 tập Vêđa và có liên quan với Vêđa còn có các tác phẩm <em>Bramana (Phạn thư), Araniaca</em> (sách <em>rừng rậm) Ypanisát</em> (sách nghĩa sâu) v.v... Những sách này đều viết bằng văn xuôi, nội dung bao gồm những bài cầu nguyện, thần chú, những nghi thức cúng bái, những bài thuyết pháp, những lời giải thích triết lý trong kinh Vêđa chứ về văn học thì không có giá trị gì đáng kể.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">b) Sử thi</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là <em>Mahabharata</em> và <em>Ramayana.</em> Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ nửa đầu thiên kỷ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỷ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Xanxcrit.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- </span><a href="https://vnkienthuc.com/threads/an-do-co-dai.77722/" target="_blank"><span style="font-size: 18px"><em>Mahabharata</em> </span></a><span style="font-size: 18px">có 18 chương và 1 chương bổ sung tài liệu, gồm 220.000 câu. Đây là bộ sử thi dài nhất thế giới, so với cả hai bộ Iliat và Ôđixê của Hy Lạp cổ đại gộp lại còn dài hơn 8 lần. Tương truyền rằng người soạn lại bộ sử thi này là Viasa. Chủ đề của tác phẩm này là cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ. Bởi vậy tập thơ lấy tên là Mahabharata nghĩa là “Cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata”.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Cốt truyện như sau: <em>Ở thành phố Haxtinapua có một dòng họ vua chúa gọi là Curu vốn là con cháu của vua Bharata. Dòng họ này có hai anh em là Đritarattơra và Panđu. Vì người anh bị mù nên Pandu được làm vua. Đritarattơra có 100 con trai, gọi chung là anh em Curu, còn Panđu có 5 con trai, gọi chung là anh em Panđu.</em></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Sau khi Panđu chết, anh em Curu và anh em Panđu chia đôi vương quốc. Nhưng vì muốn chiếm toàn bộ đất nước, anh em Curu đã thách anh em Pađu đánh bạc. Nhờ gian lận, anh em Curu thắng liên tiếp. Bị mất hết mọi của cải, anh em Panđu đặt phần đất nước của mình vào canh bạc nhưng cũng bị thua nốt. Theo lời giao hẹn, anh em Panđu bị trục xuất và phải trốn tránh trong 13 năm, không được để phía anh em Curu phát hiện.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Hết kỳ hạn, anh em Panđu trở về yêu cầu anh em Curu trả lại đất đai cho họ, nhưng bị từ chối, do đó một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai bên bùng nổ. Sau 18 ngày đánh nhau dữ dội, hàng trăm triệu người đã bị tử trận, phe Curu chỉ có 3 người sống sót, cả 100 anh em Curu đều chết. Phe Panđu tuy thắng lợi nhưng cũng chỉ còn lại 6 người, trong đó có 5 anh em Panđu.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Xoáy vào cốt truyện ấy, bộ sử thi này đã miêu tả rất nhiều cảnh khác nhau với những chi tiết ly kỳ như cảnh ăn chơi xa hoa ở chốn cung đình, những cuộc tình duyên éo le nhưng chung thủy, những cảnh sinh hoạt trong xã hội lúc bấy giờ và đậm nét nhất là cảnh chiến đấu anh dũng nhưng vô cùng thảm khốc. Hơn nữa, cùng với thời gian, những câu chuyện như vậy không ngừng được bổ sung vào làm cho tác phẩm càng thêm phong phú.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- <em>Ramayana</em> có VII chương, trong đó chương I và chương VII về sau mới thêm vào, gồm 48.000 câu. Tương truyền rằng tác giả là Vanmiki. Chủ đề của tác phẩm này là câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Cốt truyện như sau: <em>Trong thời Vêđa, vương quốc Côxala được sống trong cảnh thanh bình dưới sự trị vì của vua Đaxarađa. Người con trưởng của vua là Rama, một thanh niên thông minh dũng cảm và có đạo đức được vua chọn làm thái tử nối ngôi.</em></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Gần đó, có một vương quốc khác là Viđêha, dân chúng cũng được an cư lạc nghiệp dưới quyền thống trị của vua Gianắc. Bản thân vua cũng cầm cày cày ruộng. Một hôm nhà vua đang cày, bỗng thấy từ luống cày hiện lên một thiếu nữ xinh đẹp. Nhà vua đem về nuôi, đặt tên là Sita và coi như con. Khi Sita đến tuổi lấy chồng, nhà vua tổ chức một cuộc thi bắn cung để kén phò mã. Nhiều thanh niên tham dự cuộc thi, nhưng chỉ có Rama giương nổi cây cung của nhà vua. Rama được kết hôn với công chúa Sita.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nhưng một ái phi của vua Đaxarata vì ghen với hoàng hậu có con trai là Rama được làm thái tử nối ngôi nên yêu cầu vua đày Rama ra khỏi đất nước 14 năm.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Rama cùng Sita đến sống ở trong rừng. Một công chúa góa chồng một hôm dạo chơi trong rừng gặp Rama rồi đem lòng yêu chàng. Bị từ chối quyết liệt, nàng công chúa ấy tức giận nên bảo em trai mình là Ravan, vua nước Quỷ ở đảo Lanca bắt cóc Sita.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nhờ sự giúp đỡ của vua nước Vượn là Xugriva, Rama tổ chức được một đội quân gồm toàn vượn và gấu. Theo lệnh của Rama, một cái cầu được xây dựng nối liền lục địa với đảo Lanca. Ngày nay, giữa Ấn Độ và Xri Lanca có những hòn đảo mà theo truyền thuyết của cư dân địa phương, đó chính là dấu vết của cái cầu ấy. Với đội quân vượn và gấu đó, Rama đánh bại vua nước Quỷ và cứu được Sita. Thời gian đi đày cũng hết, Rama trở về đất nước của mình và lên làm vua.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chương cuối do người đời sau thêm vào kể tiếp rằng mặc dầu Sita đã thắng được cuộc thử lửa, Rama vẫn nghĩ nàng không giữ được trinh tiết với mình trong thời gian ở trong cung điện của Ravan, nên Rama đã đày vợ vào rừng. Tại đây, Sita sinh được 2 đứa con trai và gặp Vanmiki mà về sau trở thành tác giả của tập thơ. Lớn lên 2 đứa con ấy trở thành người đi hát rong và một hôm chúng đã hát cho Rama nghe bản trường ca Ramayana. Rama nhận ra con mình, sai sứ giả vào rừng đón Sita về cung. Sita được minh oan nhưng vẫn đau khổ vì đã bị chồng nghi ngờ nên biến vào lòng đất, người mẹ trước đây đã sinh ra nàng từ luống cày. Rama tiếp tục trị vì trong nhiều năm nữa, nhân dân được sống yên vui, nhưng bản thân ông phải sống trong cảnh buồn rầu cô độc.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana là những công trình sáng tác tập thể của nhân dân Ấn Độ trong nhiều thế kỷ và là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ trong hai ngàn năm nay. Cho đến nay, các nhà văn nghệ sĩ Ấn Độ thuộc các ngành thơ kịch, họa, điêu khắc... vẫn tìm được ở trong hai tác phẩm vĩ đại ấy nhiều đề tài và cảm hứng để sáng tác.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài văn học tiếng Xanxcrít ra, còn có những tác phẩm viết bằng các thứ ngôn ngữ khác, trong đó trước hết cần phải kể đến những tác phẩm viết bằng tiếng Pali về chủ đề Phật giáo.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">c) Những tác phẩm của Caliđaxa</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỷ V). Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là vở kịch Sơcuntla.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vở kịch Sơcuntla vốn phỏng theo một câu chuyện dân gian chép trong sử thi Mahabharata, nhưng đã được tác giả cải biên và thêm nhiều tình tiết. Nội dung của vở kịch miêu tả câu chuyện tình duyên giữa nàng Sơcuntla và vua Đusơnta, trải qua nhiều éo le trắc trở, cuối cùng hai người được đoàn tụ và được hạnh phúc đời đời.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tuy là một nhà soạn kịch cung đình, lại chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối, lừa gạt, không chung thủy của giai cấp thống trị, và trên chừng mực nhất định đã chống quan niệm về đẳng cấp.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. Suốt 15 thế kỷ nay, Sơcuntla đã trở thành nguồn cảm hứng, nguồn đề tài của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau của Ấn Độ như kịch, điện ảnh, họa, nhạc, vũ v.v... Không những ở Ấn Độ mà đối với thế giới, tác phẩm Sơcuntla cũng có một tiếng vang rất lớn.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Gớt, nhà đại văn hào Đức đã không tiếc lời ca ngợi:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">“Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và trái mùa thu,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Một tiếng làm đắm say nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất,</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Thì tôi gọi: Sơcuntla.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tiếng đó nói lên tất cả.”</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ngày nay Caliđaxa được xếp vào loại các nhà văn lớn của thế giới và năm 1957 ông đã được Hội đồng hòa bình thế giới tổ chức kỷ niệm.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">d) Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Từ cuối thế kỷ X về sau, ngoài văn học tiếng Xanxcrít đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn học viết bằng các loại phương ngữ khác nhau.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vào thế kỷ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương trong <em>bộ sử thi Mahabharata</em> ra tiếng Têlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được phổ cập rộng rãi.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Đến thế kỷ XVI, XVII, dưới triều Môgôn, có một số nhà thơ đã sáng tác bằng tiếng Ba Tư. Tuy nhiên, phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng tiếng Inđi và các loại ngôn ngữ địa phương khác. Thiên trường ca <em>Ramayana</em> do Tunxi Đát viết bằng tiếng Inđi là một tác phẩm nổi tiếng được nhân dân rất ưa thích.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tập thơ Xuốc của nhà thơ mù Xuốc Đát viết bằng một loại phương ngữ khác trong tiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình yêu cũng là một tác phẩm có giá trị.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Những bài ca du dương, gợi cảm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Ấn Độ của ca sĩ kiêm nhà thơ Tanxen cũng rất nổi tiếng. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có nhiều nhà thơ khác. Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân gian chứ không dùng ngôn ngữ cung đình, đồng thời còn sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân rất thích thú.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><span style="color: rgb(65, 168, 95)">(Còn Tiếp)</span></strong></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px"><span style="color: rgb(65, 168, 95)"><strong>Nguồn :</strong> Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục </span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 179962, member: 288054"] [URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-co-dai-nguyen-thuy-the-ky-v.108/'][SIZE=5]Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á[/SIZE][/URL][SIZE=5], từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/threads/an-do-co-dai.77722/'][SIZE=5]Ấn Độ[/SIZE][/URL][SIZE=5] chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông). Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này. [/SIZE] [SIZE=5][ATTACH=full]2913._xfImport[/ATTACH][/SIZE] [SIZE=5][B]1. Chữ viết[/B][/SIZE] [URL='https://vnkienthuc.com/forums/the-gioi-can-dai-giua-the-ky-xvi-nam-1917.110/'][SIZE=5]Chữ viết đầu tiên ở Ấn Độ [/SIZE][/URL][SIZE=5]được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn đã phát hiện được hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa. Suốt nửa thế kỷ từ khi phát hiện lần đầu tiên vào năm 1921, nhiều tác giả của nhiều nước đã nghiên cứu cách đọc loại chữ này nhưng chưa thành công. Mãi đến cách đây vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn Độ là Tiến sĩ S.R. Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ này.[/SIZE] [SIZE=5]Theo ông Rao, đây là một loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần. Trong số hơn 3.000 con dấu ấy có 22 dấu cơ bản. Loại chữ này chủ yếu viết từ phải sang trái. Những con dấu đã phát hiện được là những con dấu dùng để đóng trên các kiện hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứ của những hàng hóa đó.[/SIZE] [SIZE=5]Đến khoảng thế kỷ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết của vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Axôca đều viết bằng loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Đêvanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Xanxcrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nêpan vẫn dùng loại chữ này.[/SIZE] [SIZE=5][B]2. Văn học[/B] Ấn Độ là một nước có nền văn học rất phát triển. Thời cổ đại văn học Ấn Độ gồm hai bộ phận quan trọng là Vêđa và sử thi. a) Vêđa[/SIZE] [SIZE=5]Vêđa vốn nghĩa là hiểu biết. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama Vêda, Yagiua Vêđa và Atácva Vêđa.[/SIZE] [SIZE=5]Ba tập Vêđa trên gồm những bài ca và những bài cầu nguyện phản ánh tình hình người Arya tràn vào Ấn Độ, tình hình tan rã của chế độ thị tộc, tình hình cư dân đấu tranh với thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt. Trong đó, Rích Vêđa với 1028 bài thơ là tập quan trọng nhất.[/SIZE] [SIZE=5]Còn Atácva Vêđa chủ yếu bao gồm các bài chú nhưng nội dung mà tập Vêđa này đề cập đến gồm các mặt như chế độ đẳng cấp, việc hành quân, chữa bệnh, đánh bạc và cả tình yêu nữa.[/SIZE] [SIZE=5]Ca ngợi thần sét Inđra, Rích Vêđa viết:[/SIZE] [SIZE=5]Tôi muốn ca ngợi sự tích anh hùng của thần Inđra,[/SIZE] [SIZE=5]Những chiến công của vị thần Thiên Lôi ấy,[/SIZE] [SIZE=5]Ngài đã chém con ác long cho nước mưa tuôn chảy,[/SIZE] [SIZE=5]Và mở toang các hang động trên non cao.[/SIZE] [SIZE=5]Nói về uy quyền của đẳng cấp Bàlamôn khi họ làm cố vấn tôn giáo cho nhà vua, Atácva Vêđa viết:[/SIZE] [SIZE=5]Sắc hơn lưỡi búa,[/SIZE] [SIZE=5]Sáng hơn ngọn lửa,[/SIZE] [SIZE=5]Vang hơn tiếng sét của Indra.[/SIZE] [SIZE=5]Cố vấn của người như thế chính là ta.[/SIZE] [SIZE=5]Trong Atácva Vêđa cũng có những bài thơ tỏ tình:[/SIZE] [SIZE=5]Như gió lay ngọn cỏ,[/SIZE] [SIZE=5]Anh lay chuyển lòng em[/SIZE] [SIZE=5]Rồi em sẽ yêu anh[/SIZE] [SIZE=5]Và không rời anh nữa.[/SIZE] [SIZE=5]Kế tiếp theo 4 tập Vêđa và có liên quan với Vêđa còn có các tác phẩm [I]Bramana (Phạn thư), Araniaca[/I] (sách [I]rừng rậm) Ypanisát[/I] (sách nghĩa sâu) v.v... Những sách này đều viết bằng văn xuôi, nội dung bao gồm những bài cầu nguyện, thần chú, những nghi thức cúng bái, những bài thuyết pháp, những lời giải thích triết lý trong kinh Vêđa chứ về văn học thì không có giá trị gì đáng kể.[/SIZE] [SIZE=5]b) Sử thi[/SIZE] [SIZE=5]Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là [I]Mahabharata[/I] và [I]Ramayana.[/I] Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ nửa đầu thiên kỷ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỷ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Xanxcrit.[/SIZE] [SIZE=5]- [/SIZE][URL='https://vnkienthuc.com/threads/an-do-co-dai.77722/'][SIZE=5][I]Mahabharata[/I] [/SIZE][/URL][SIZE=5]có 18 chương và 1 chương bổ sung tài liệu, gồm 220.000 câu. Đây là bộ sử thi dài nhất thế giới, so với cả hai bộ Iliat và Ôđixê của Hy Lạp cổ đại gộp lại còn dài hơn 8 lần. Tương truyền rằng người soạn lại bộ sử thi này là Viasa. Chủ đề của tác phẩm này là cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ. Bởi vậy tập thơ lấy tên là Mahabharata nghĩa là “Cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata”.[/SIZE] [SIZE=5]Cốt truyện như sau: [I]Ở thành phố Haxtinapua có một dòng họ vua chúa gọi là Curu vốn là con cháu của vua Bharata. Dòng họ này có hai anh em là Đritarattơra và Panđu. Vì người anh bị mù nên Pandu được làm vua. Đritarattơra có 100 con trai, gọi chung là anh em Curu, còn Panđu có 5 con trai, gọi chung là anh em Panđu.[/I][/SIZE] [SIZE=5]Sau khi Panđu chết, anh em Curu và anh em Panđu chia đôi vương quốc. Nhưng vì muốn chiếm toàn bộ đất nước, anh em Curu đã thách anh em Pađu đánh bạc. Nhờ gian lận, anh em Curu thắng liên tiếp. Bị mất hết mọi của cải, anh em Panđu đặt phần đất nước của mình vào canh bạc nhưng cũng bị thua nốt. Theo lời giao hẹn, anh em Panđu bị trục xuất và phải trốn tránh trong 13 năm, không được để phía anh em Curu phát hiện.[/SIZE] [SIZE=5]Hết kỳ hạn, anh em Panđu trở về yêu cầu anh em Curu trả lại đất đai cho họ, nhưng bị từ chối, do đó một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai bên bùng nổ. Sau 18 ngày đánh nhau dữ dội, hàng trăm triệu người đã bị tử trận, phe Curu chỉ có 3 người sống sót, cả 100 anh em Curu đều chết. Phe Panđu tuy thắng lợi nhưng cũng chỉ còn lại 6 người, trong đó có 5 anh em Panđu.[/SIZE] [SIZE=5]Xoáy vào cốt truyện ấy, bộ sử thi này đã miêu tả rất nhiều cảnh khác nhau với những chi tiết ly kỳ như cảnh ăn chơi xa hoa ở chốn cung đình, những cuộc tình duyên éo le nhưng chung thủy, những cảnh sinh hoạt trong xã hội lúc bấy giờ và đậm nét nhất là cảnh chiến đấu anh dũng nhưng vô cùng thảm khốc. Hơn nữa, cùng với thời gian, những câu chuyện như vậy không ngừng được bổ sung vào làm cho tác phẩm càng thêm phong phú.[/SIZE] [SIZE=5]- [I]Ramayana[/I] có VII chương, trong đó chương I và chương VII về sau mới thêm vào, gồm 48.000 câu. Tương truyền rằng tác giả là Vanmiki. Chủ đề của tác phẩm này là câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita.[/SIZE] [SIZE=5]Cốt truyện như sau: [I]Trong thời Vêđa, vương quốc Côxala được sống trong cảnh thanh bình dưới sự trị vì của vua Đaxarađa. Người con trưởng của vua là Rama, một thanh niên thông minh dũng cảm và có đạo đức được vua chọn làm thái tử nối ngôi.[/I][/SIZE] [SIZE=5]Gần đó, có một vương quốc khác là Viđêha, dân chúng cũng được an cư lạc nghiệp dưới quyền thống trị của vua Gianắc. Bản thân vua cũng cầm cày cày ruộng. Một hôm nhà vua đang cày, bỗng thấy từ luống cày hiện lên một thiếu nữ xinh đẹp. Nhà vua đem về nuôi, đặt tên là Sita và coi như con. Khi Sita đến tuổi lấy chồng, nhà vua tổ chức một cuộc thi bắn cung để kén phò mã. Nhiều thanh niên tham dự cuộc thi, nhưng chỉ có Rama giương nổi cây cung của nhà vua. Rama được kết hôn với công chúa Sita.[/SIZE] [SIZE=5]Nhưng một ái phi của vua Đaxarata vì ghen với hoàng hậu có con trai là Rama được làm thái tử nối ngôi nên yêu cầu vua đày Rama ra khỏi đất nước 14 năm.[/SIZE] [SIZE=5]Rama cùng Sita đến sống ở trong rừng. Một công chúa góa chồng một hôm dạo chơi trong rừng gặp Rama rồi đem lòng yêu chàng. Bị từ chối quyết liệt, nàng công chúa ấy tức giận nên bảo em trai mình là Ravan, vua nước Quỷ ở đảo Lanca bắt cóc Sita.[/SIZE] [SIZE=5]Nhờ sự giúp đỡ của vua nước Vượn là Xugriva, Rama tổ chức được một đội quân gồm toàn vượn và gấu. Theo lệnh của Rama, một cái cầu được xây dựng nối liền lục địa với đảo Lanca. Ngày nay, giữa Ấn Độ và Xri Lanca có những hòn đảo mà theo truyền thuyết của cư dân địa phương, đó chính là dấu vết của cái cầu ấy. Với đội quân vượn và gấu đó, Rama đánh bại vua nước Quỷ và cứu được Sita. Thời gian đi đày cũng hết, Rama trở về đất nước của mình và lên làm vua.[/SIZE] [SIZE=5]Chương cuối do người đời sau thêm vào kể tiếp rằng mặc dầu Sita đã thắng được cuộc thử lửa, Rama vẫn nghĩ nàng không giữ được trinh tiết với mình trong thời gian ở trong cung điện của Ravan, nên Rama đã đày vợ vào rừng. Tại đây, Sita sinh được 2 đứa con trai và gặp Vanmiki mà về sau trở thành tác giả của tập thơ. Lớn lên 2 đứa con ấy trở thành người đi hát rong và một hôm chúng đã hát cho Rama nghe bản trường ca Ramayana. Rama nhận ra con mình, sai sứ giả vào rừng đón Sita về cung. Sita được minh oan nhưng vẫn đau khổ vì đã bị chồng nghi ngờ nên biến vào lòng đất, người mẹ trước đây đã sinh ra nàng từ luống cày. Rama tiếp tục trị vì trong nhiều năm nữa, nhân dân được sống yên vui, nhưng bản thân ông phải sống trong cảnh buồn rầu cô độc.[/SIZE] [SIZE=5]Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana là những công trình sáng tác tập thể của nhân dân Ấn Độ trong nhiều thế kỷ và là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ trong hai ngàn năm nay. Cho đến nay, các nhà văn nghệ sĩ Ấn Độ thuộc các ngành thơ kịch, họa, điêu khắc... vẫn tìm được ở trong hai tác phẩm vĩ đại ấy nhiều đề tài và cảm hứng để sáng tác.[/SIZE] [SIZE=5]Ngoài văn học tiếng Xanxcrít ra, còn có những tác phẩm viết bằng các thứ ngôn ngữ khác, trong đó trước hết cần phải kể đến những tác phẩm viết bằng tiếng Pali về chủ đề Phật giáo.[/SIZE] [SIZE=5]c) Những tác phẩm của Caliđaxa[/SIZE] [SIZE=5]Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỷ V). Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là vở kịch Sơcuntla.[/SIZE] [SIZE=5]Vở kịch Sơcuntla vốn phỏng theo một câu chuyện dân gian chép trong sử thi Mahabharata, nhưng đã được tác giả cải biên và thêm nhiều tình tiết. Nội dung của vở kịch miêu tả câu chuyện tình duyên giữa nàng Sơcuntla và vua Đusơnta, trải qua nhiều éo le trắc trở, cuối cùng hai người được đoàn tụ và được hạnh phúc đời đời.[/SIZE] [SIZE=5]Tuy là một nhà soạn kịch cung đình, lại chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối, lừa gạt, không chung thủy của giai cấp thống trị, và trên chừng mực nhất định đã chống quan niệm về đẳng cấp.[/SIZE] [SIZE=5]Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. Suốt 15 thế kỷ nay, Sơcuntla đã trở thành nguồn cảm hứng, nguồn đề tài của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau của Ấn Độ như kịch, điện ảnh, họa, nhạc, vũ v.v... Không những ở Ấn Độ mà đối với thế giới, tác phẩm Sơcuntla cũng có một tiếng vang rất lớn.[/SIZE] [SIZE=5]Gớt, nhà đại văn hào Đức đã không tiếc lời ca ngợi:[/SIZE] [SIZE=5]“Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và trái mùa thu,[/SIZE] [SIZE=5]Một tiếng làm đắm say nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn.[/SIZE] [SIZE=5]Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất,[/SIZE] [SIZE=5]Thì tôi gọi: Sơcuntla.[/SIZE] [SIZE=5]Tiếng đó nói lên tất cả.”[/SIZE] [SIZE=5]Ngày nay Caliđaxa được xếp vào loại các nhà văn lớn của thế giới và năm 1957 ông đã được Hội đồng hòa bình thế giới tổ chức kỷ niệm.[/SIZE] [SIZE=5]d) Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ.[/SIZE] [SIZE=5]Từ cuối thế kỷ X về sau, ngoài văn học tiếng Xanxcrít đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn học viết bằng các loại phương ngữ khác nhau.[/SIZE] [SIZE=5]Vào thế kỷ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương trong [I]bộ sử thi Mahabharata[/I] ra tiếng Têlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được phổ cập rộng rãi.[/SIZE] [SIZE=5]Đến thế kỷ XVI, XVII, dưới triều Môgôn, có một số nhà thơ đã sáng tác bằng tiếng Ba Tư. Tuy nhiên, phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng tiếng Inđi và các loại ngôn ngữ địa phương khác. Thiên trường ca [I]Ramayana[/I] do Tunxi Đát viết bằng tiếng Inđi là một tác phẩm nổi tiếng được nhân dân rất ưa thích.[/SIZE] [SIZE=5]Tập thơ Xuốc của nhà thơ mù Xuốc Đát viết bằng một loại phương ngữ khác trong tiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình yêu cũng là một tác phẩm có giá trị.[/SIZE] [SIZE=5]Những bài ca du dương, gợi cảm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Ấn Độ của ca sĩ kiêm nhà thơ Tanxen cũng rất nổi tiếng. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có nhiều nhà thơ khác. Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân gian chứ không dùng ngôn ngữ cung đình, đồng thời còn sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân rất thích thú.[/SIZE] [SIZE=5][B][COLOR=rgb(65, 168, 95)](Còn Tiếp)[/COLOR][/B][/SIZE] [SIZE=5][COLOR=rgb(65, 168, 95)][B]Nguồn :[/B] Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục [/COLOR][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Những thành tựu chính của văn minh Ấn Độ
Top