Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cận Đại (1858-1945)
Những sự kiện lịch sử Việt Nam Thời cận đại
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 182996" data-attributes="member: 288054"><p style="text-align: left"><span style="color: rgb(226, 80, 65)"><strong><u>25-3-1930</u> :Cuộc bãi công của hơn 4000 công nhân Nhà máy sợi Nam Định. </strong></span></p><p></p><p>Cuộc bãi công do tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo kéo dài từ 25-3 đến 16-4, được tổ chức một cách chặt chẽ, có sự phối hợp ủng hộ của nông dân trong tỉnh (một số xã thuộc các huyện Xuân Trường, Ý Yên, Nghĩa Hưng…), và công nhân nhiều nhà máy ở Hà Nội, Hải Phòng… đã buộc giới chủ phải nhượng bộ, đáp ứng yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm. Cuộc bãi công với quy mô lớn này có ảnh hưởng mạnh đến phong trào công nhân cả nước và được coi như cuộc đấu tranh tiêu biểu nhất kể từ sau khi đảng của giai cấp vô sản được thành lập.</p><p> </p><p><strong><span style="color: rgb(226, 80, 65)">1-5-1930 :Kỷ niệm ngày Quốc tế lao động trên cả nước.</span></strong></p><p> </p><p>Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, ngày Quốc tế lao động 1-5 được ghi nhận bằng hàng loạt các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân diễn ra sôi nổi và đồng loạt trên cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và tổ chức công đoàn, tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của 400 nông dân biểu tình kéo vào tỉnh lỵ Thái Bình, các cuộc biểu tình của hàng ngàn nông dân ở Cao Lãnh (Sa Đéc), Chợ Lớn, Chợ Mới (Long Xuyên)…; ở Vinh - Bến Thủy 1.000 công nhân phối hợp với hàng ngàn nông dân khắp Nghệ - Tĩnh… Ngoài ra, các hình thức như rãi truyền đơn, treo cờ đỏ, diễn thuyết… cũng diễn ra ở nhiều địa phương trên toàn quốc. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, riêng ở Thái Bình, đã bắn chết 15 người và làm bị thương nhiều người khác… Theo thống kê chưa đầy đủ trong tháng 5-1930, trên toàn quốc có 54 cuộc đấu tranh. Từ tháng 6 đến tháng 8-1930, có 121 cuộc đấu tranh.. Riêng ở Nghệ - Tĩnh, từ tháng 5 đến tháng 8-1930 có 97 cuộc bãi công, biểu tình của công nông. Tất cả những sự kiện đó đã tạo ra những tiền đề cho cao trào cách mạng từ tháng 9-1930 đến tháng 6-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh.</p><p> </p><p><span style="color: rgb(226, 80, 65)"><strong>Từ 9-1930 :Cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh bùng nổ.</strong></span></p><p> </p><p></p><p>Từ mùa xuân 1930, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, phong trào cách mạng Việt Nam với hạt nhân là lực lượng công nông đã chuyển biến mạnh mẽ. Đến tháng 9-1930, phong trào đã đạt tới đỉnh cao của nó với hàng lọat cuộc đấu tranh có quy mô và tính chất quyết liệt. Đặc biệt, nông dân Nghệ - Tĩnh đã vũ trang tiến công vào bộ máy thống trị thực dân, tiêu biểu như: biểu tình của 3.000 nông dân huyện Nam Đàn (30-8-1930), của 20.000 nông dân huyện Thanh Chương (1-9), của 3.000 nông dân huyện Can Lộc (7-9)…, đỉnh cao là cuộc biểu tình đẩm máu ngày 12-9-1930 của 8.000 nông dân phủ Hưng Nguyên kéo đến phủ lỵ với những khẩu hiệu cách mạng: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến! Bỏ sưu thuế, chia ruộng đất…”. Thực dân Pháp đã dùng máy bay ném bom, giết chết 217 người. Sự kiện này đã thổi bùng thêm ngọn lửa đấu tranh lan rộng khắp các địa phương trong tỉnh, kéo dài cho tới năm 1931, dẫn tới sự tan rã bộ máy chính quyền đế quốc phong kiến và hình thành các Xô viết. Tại Nghệ An, tổ chức Nông hội với các hình thức xô viết đã nắm chính quyền ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Diễn Châu. Ở Hà Tĩnh, tại các huyện Can Lộc, Thạch Hà và Đức Thông có tới 172 xã thành lập xô viết. Trong suốt thời gian tồn tại, các Xô viết đã đóng chức năng là chính quyền chuyên chính công nông, trấn áp bọn phản cách mạng, tổ chức đời sống sản xuất và tinh thần của nhân dân…Phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đã giành được sự ủng hộ dưới nhiều hình thức của các địa phương, đồng thời cũng là ngòi nổ kích thích phong trào cách mạng trên toàn quốc dâng cao. Mặc dầu cuối cùng, các Xô viết đều bị đàn áp, tổ chức cách mạng bị khủng bố và chịu những tổn thất to lớn, nhưng như Nguyễn Ái Quốc viết: “Tuy đế quốc đã dập tắt phong trào đó trong bể máu, nhưng Xô viết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng tám thắng lợi lớn sau này”.</p><p> </p><p><strong><span style="color: rgb(226, 80, 65)">14-10-1930: Ngày thành lập hội nông dân Việt Nam</span></strong></p><p> </p><p>Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và thanh niên cách mạng đồng chí hội, cuối năm 1926 đầu năm 1927, một số địa phương hình thành “Nông Hội Đỏ” chỉ đạo cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống thực dân, địa chủ phong kiến và tư sản, đòi quyền dân sinh dân chủ; tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Cao Lãnh, Sa Đéc, Gia Định, Đức Phổ, Duyên Hà, Tiền Hải…. đi tới đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.</p><p></p><p>Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục, tổ chức, động viên đưa quần chúng ra đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân chính trị quần chúng cách mạng. Tại kỳ họp ban chấp hành Trung Ương Đảng lần I (khoá I) từ 14/10 đến cuối tháng 10 năm 1930, “Nông hội đỏ” chính thức ra đời. Sự kiện thành lập Nông hôi đỏ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng về chất của giai cấp nông dân Việt Nam. Lần đầu tiên đưa gia cấp nông dân có đoàn thể cách mạng của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.</p><p></p><p>Để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, tổ chức Hội nông dân Việt Nam liên tục phát triển dưới nhiều hình thức và tên gọi phù hợp: “Hội tương tê ái hữu”, “Hội nông dân phản đế”, “Hội nông dân cứu quốc”, trở thành một thành viên chủ lực của mặt trận Việt Minh, là lực lượng nòng cốt và đông đảo nhất tham gia khởi nghĩa tháng tám 1945.</p><p></p><p>Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tổ chức Hội được duy trì và liên tục phát triển. Hội nông dân giải phóng Miền Nam được thành lập, là thành viên quan trọng của mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, tham gia các phong trào cách mạng: đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận; xây dựng hậu phương chiến đấu tại chỗ…., góp phần làm thất bại mọi âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Ở miền Bắc, hội nông dân tập thể đã vận động nông dân đi theo con đường hợp tác hoá: vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ hậu phương, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam – thành đồng tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.</p><p></p><p>Chiến thắng mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bước vào thời kỳ mới, nông dân 2 miền Nam Bắc sát cánh cùng toàn dân đi tiếp con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn; nhiệt tình tham gia xây dựng tổ chức của giai cấp nông dân - hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam từng bước lớn mạnh. Ngày 1/3/1988, hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam được đổi tên là hội nông dân Việt Nam.</p><p>Đại hội đại biểu toàn quốc lần I hội nông dân Việt Nam họp từ ngày 28 đến ngày 29/3/1988 tại Hà Nội, là một cột móc quan trọng, một bước ngoặc có ý nghĩa lịch sử trong sự phát triển của phong trào nông dân: Hội nông dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân được chính thức thành lập, có hệ thống từ Trung Ương đến cơ sở; khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng ta về vai trò, vị trí của giai cấp công nông dân và hội nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời đề ra những mục tiêu, nội dung hoạt động của Hội, thực hiện đường lối mới của Đảng.</p><p> </p><p><strong><span style="color: rgb(226, 80, 65)">20-10-1930: Ngày thành lập hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam</span></strong></p><p> </p><p>Từ nghị quyết đầu tiên về công tác vận động phụ nữ (tháng 10/1939) đến các nghị quyết của Đảng nói về công tác phụ nữ, các bài viết của chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta đều gắng liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng loài người. Phụ nữ được coi là một tổ chức quần chúng của Đảng. Qua các thời kỳ, tổ chức phụ nữ đã có những tên gọi khác nhau phù hợp với nhiệm vụ cách mạng:</p><p style="margin-left: 20px">* Hội phụ nữ phản đế (20/10/1930)</p> <p style="margin-left: 20px">* Đoàn phụ nữ cứu quốc (16/6/1941)</p> <p style="margin-left: 20px">* Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20/10/1946)</p><p>Với đoàn phụ nữ cứu quốc làm nòng cốt, tháng 4/1950 đoàn phụ nữ cứu quốc đã họp nhất vào hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Hội phụ nữ giải phóng (thành lập ngày 8/3/1961) ở miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cũng hợp nhất vào hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tháng 6/1976. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam được Đảng tổ chức và lãnh đạo để làm cách mạng và chăm lo quyền lợi cho phụ nữ Việt Nam, thực hiện nam nữ bình đẳng.</p><p>Qua gia đoạn cách mạng, phụ nữ Việt Nam luôn luôn xứng đáng với lời khen ngợi của chủ tịch Hồ Chí Minh “<strong>Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.</strong>” Nhân diệp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, nhà nước ta tặng huân chương Hồ Chí Minh. Nhân kỷ niệm lần thứ 55 ngày thành lập hội, Đảng và nhà nước ta đã trao tặng huân chương sao vàng cho Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.</p><p> </p><p><strong><span style="color: rgb(184, 49, 47)">26-03-1931:THÀNH LẬP ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH</span></strong></p><p> </p><p>Vào mùa xuân năm 1931, ở thời điểm từ ngày 20 đến 26/3/1931, khi tiến hành hội nghị ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ hai, cuộc họp đã dành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp bộ Đảng từ Trung Ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viện của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự phát triển và lớn mạnh của phong trào Đoàn trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất hiện nhiều tổ chức đoàn cơ sở với khoảng hơn 1.500 đoàn viên và một số địa phương đã hình thành hệ thống tổ chức Đoàn xã, huyện lên đến tỉnh. Đến cuối năm 1931, số lượng đoàn viện trên cả nước lên đến hơn 2.500 đồng chí, chứng tỏ sự tác động tích cực của hội nghị trung ương lần thứ hai (tháng 3/1931).</p><p></p><p>Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi cấp bách của phong trào thanh niên nước ta bấy giờ. Được Bộ chính Trị Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép thể theo đề nghị của Ban thường vụ Trung ương Đoàn Thanh Niên lao động Việt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ bai họp từ ngày 22 – 25/3/1961, đã quyết định lấy ngày 26/3/1931( một ngày trong thời gian cuối của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 đã dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng đối với công tác vận động thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm.</p><p></p><p>Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, Đoàn đã đổi tên nhiều lần :</p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><p style="text-align: left">Từ 1931 – 1936 : Đoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Đông Dương</p> </li> <li data-xf-list-type="ul"><p style="text-align: left">Từ 1937 – 1939 : Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương.</p> </li> <li data-xf-list-type="ul"><p style="text-align: left">Tháng 11/1939 – 1941 : Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương</p> </li> <li data-xf-list-type="ul"><p style="text-align: left">Từ 5/1941 – 1956 : Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam</p> </li> <li data-xf-list-type="ul"><p style="text-align: left">Từ 25/10/1956 – 1970 : Đoàn Thanh niên Lao Động Việt Nam</p> </li> <li data-xf-list-type="ul"><p style="text-align: left">Từ 3/2/1970 – 1976 : Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh.</p> </li> <li data-xf-list-type="ul"><p style="text-align: left">Từ 12/1976 đến nay : Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.</p> </li> </ul><p>Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đó là lớp thanh niên cảm tử cho tổ quốc quyết sinh mà tiêu biều là Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Cù Chính Lan, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót. Đó là thế hệ thanh niên anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với những người con ưu tú như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Thái Văn A…</p><p></p><p>Với các phong trào “ Thanh niên xung phong tình nguyện”, “ Ba sẵn sàng”, “ Năm xung kích”, “Thanh niên kiên cường thắng Mỹ” , “Quyết thắng”. Thế hệ thứ ba này có mặt trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy thần tốc mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.</p><p></p><p>Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, hàng chục triệu đoàn viên đã hăng hái dấy lên phong trào: Ba xung kích làm chủ tập thể” , “Thanh niên lao động sáng tạo” đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, thể hiện ý chí tiến công của tuổi trẻ dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.</p><p></p><p>Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã động viên tổ chức thế hệ trẻ tham gia tích cực các phong trào: “Thanh niên nông thôn sản xuất kinh doanh giỏi”, phong trào CKT ( chất lượng, kiểu dáng, tiết kiệm) trong thanh niên công nhân, phong trào “ Xứng danh bộ đội cụ Hồ” trong thanh niên quân đội, phong trào “Tuổi trẻ công an hành động cách mạng theo 6 điều Bác Hồ dạy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện”, “Cuộc vận động 3 mục tiêu dân số - sức khoẻ - môi trường”. Các phong trào này bước đầu gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân, khẳng định vai trò quan trọng chiến lược của thanh niên trong tình hình mới.</p><p></p><p>Từ ngày thành lập đến nay Đoàn ta đã tổ chức 7 lần Đại Hội :</p><ul> <li data-xf-list-type="ul">Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đoàn khai mạc vào ngày 7/02/1950 tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên với hơn 400 đại biểu. Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn Lam làm Bí thư.</li> <li data-xf-list-type="ul">Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn họp từ 25/10 đến 04/11/1956 tại thủ đô Hà Nội, có 479 đại biểu. Đại hội bầu 30 đồng chí vào ban chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư thứ nhất.</li> <li data-xf-list-type="ul">Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III họp từ 23 đến 25/3/1961 tại thủ đô Hà Nội có 677 đại biểu. Đại hội bầu 71 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm bí thư thứ nhất. Sau đó đồng chí Nguyễn Lam chuyển công tác khác của Đảng, đồng chí Vũ Quang được bầu làm Bí thư thứ nhất.</li> <li data-xf-list-type="ul">Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV họp từ 20 đến 22/11/1980 tại Hà Nội có 623 đại biểu. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương và Ban bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Đặng Quốc Bảo, uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm bí thư thứ nhất. Sau đó đồng chí Đặng Quốc Bảo nhận công tác khác, đồng chí Vũ Mão được bầu làm bí thư thứ nhất.</li> <li data-xf-list-type="ul">Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V họp từ 27 đến 30/11/1987 tại Hà Nội có 750 đại biểu. Đại hội bầu 150 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành đã bầu Ban thường vụ Trung ương Đoàn gồm 23 đồng chí. Đồng chí Hà Quang Dự được bầu làm bí thư thứ nhất.</li> <li data-xf-list-type="ul">Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI họp từ 15 đến 18/10/1992 có 797 đại biểu. Đại hội bầu 91 đồng chí uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương bầu 14 thường vụ. Đồng chí Hồ Đức Việt được bầu làm bí thư thứ nhất</li> <li data-xf-list-type="ul">Đại hội toàn quốc lần thứ VII họp từ 26 đến 27/11/1997 có 899 đại biểu. Đại hội bầu 125 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, Ban chấp hành bầu Ban Bí thư gồm 5 đồng chí. Đồng chí Vũ Trọng Kim được bầu làm bí thư thứ nhất.</li> </ul><p> </p><p><strong><span style="color: rgb(226, 80, 65)">6-6-1931 :Nguyễn Ái Quốc bị đế quốc Anh bắt giam ở Hồng Công.</span></strong></p><p> </p><p></p><p>Uy tín và vai trò của Nguyễn Ái Quốc làm cho đế quốc Pháp phải hoaûng sợ và tìm mọi cách để ám hại. Câu kết với đế quốc Pháp, ngày 6-6-1931, mật thám Anh đã bắt giữ một cách trái phép Nguyễn Ái Quốc (khi đó Người mang bí danh Tống Văn Sơ) tại ngôi nhà số 186 phố Tam Lung, Cửu Long (Hồng Công) và bí mật giam giữ với ý định sẽ giao cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương.</p><p>Nhờ sự giúp đỡ của các chiến sĩ yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở Hồng Công và đặc biệt nhờ vào sự nhiệt tình của ông Lôdơbai (Loseby), một luật sư tiến bộ người Anh có thế lực ở Hồng Công, vụ án liên quan đến việc mật thám Anh bắt giữ Nguyễn Ái Quốc đã phải đưa ra tòa án tối cao Hồng Công. Vì không đủ chứng cớ buộc tội, nhà cầm quyền Hồng Công phải tuyên bố Nguyễn Ái Quốc trắng án nhưng buộc phải trở về Đông Dương, có nghĩa là đẩy vào tay đế quốc Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã khán án lên Tòa án tối cao Hòang gia Anh ở Lôn Đôn. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bị ốm và nương náu tại gia đình Luật sư Lôdơbai. Tháng 2-1933, Tòa án tối cao Anh tuyên bố trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Trên đường tới nước Anh, Nguyễn Ái Quốc lại bị bắt giữ tại Xingapo rồi trả lại Hồng Công. Một lần nữa, nhờ sự giúp đỡ của ông Lôdơbai, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Trung Quốc để tiếp tục hoạt động bí mật.</p><p></p><p> (còn tiếp)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 182996, member: 288054"] [LEFT][COLOR=rgb(226, 80, 65)][B][U]25-3-1930[/U] :Cuộc bãi công của hơn 4000 công nhân Nhà máy sợi Nam Định. [/B][/COLOR][/LEFT] Cuộc bãi công do tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo kéo dài từ 25-3 đến 16-4, được tổ chức một cách chặt chẽ, có sự phối hợp ủng hộ của nông dân trong tỉnh (một số xã thuộc các huyện Xuân Trường, Ý Yên, Nghĩa Hưng…), và công nhân nhiều nhà máy ở Hà Nội, Hải Phòng… đã buộc giới chủ phải nhượng bộ, đáp ứng yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm. Cuộc bãi công với quy mô lớn này có ảnh hưởng mạnh đến phong trào công nhân cả nước và được coi như cuộc đấu tranh tiêu biểu nhất kể từ sau khi đảng của giai cấp vô sản được thành lập. [B][COLOR=rgb(226, 80, 65)]1-5-1930 :Kỷ niệm ngày Quốc tế lao động trên cả nước.[/COLOR][/B] Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, ngày Quốc tế lao động 1-5 được ghi nhận bằng hàng loạt các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân diễn ra sôi nổi và đồng loạt trên cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và tổ chức công đoàn, tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của 400 nông dân biểu tình kéo vào tỉnh lỵ Thái Bình, các cuộc biểu tình của hàng ngàn nông dân ở Cao Lãnh (Sa Đéc), Chợ Lớn, Chợ Mới (Long Xuyên)…; ở Vinh - Bến Thủy 1.000 công nhân phối hợp với hàng ngàn nông dân khắp Nghệ - Tĩnh… Ngoài ra, các hình thức như rãi truyền đơn, treo cờ đỏ, diễn thuyết… cũng diễn ra ở nhiều địa phương trên toàn quốc. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, riêng ở Thái Bình, đã bắn chết 15 người và làm bị thương nhiều người khác… Theo thống kê chưa đầy đủ trong tháng 5-1930, trên toàn quốc có 54 cuộc đấu tranh. Từ tháng 6 đến tháng 8-1930, có 121 cuộc đấu tranh.. Riêng ở Nghệ - Tĩnh, từ tháng 5 đến tháng 8-1930 có 97 cuộc bãi công, biểu tình của công nông. Tất cả những sự kiện đó đã tạo ra những tiền đề cho cao trào cách mạng từ tháng 9-1930 đến tháng 6-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. [COLOR=rgb(226, 80, 65)][B]Từ 9-1930 :Cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh bùng nổ.[/B][/COLOR] Từ mùa xuân 1930, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, phong trào cách mạng Việt Nam với hạt nhân là lực lượng công nông đã chuyển biến mạnh mẽ. Đến tháng 9-1930, phong trào đã đạt tới đỉnh cao của nó với hàng lọat cuộc đấu tranh có quy mô và tính chất quyết liệt. Đặc biệt, nông dân Nghệ - Tĩnh đã vũ trang tiến công vào bộ máy thống trị thực dân, tiêu biểu như: biểu tình của 3.000 nông dân huyện Nam Đàn (30-8-1930), của 20.000 nông dân huyện Thanh Chương (1-9), của 3.000 nông dân huyện Can Lộc (7-9)…, đỉnh cao là cuộc biểu tình đẩm máu ngày 12-9-1930 của 8.000 nông dân phủ Hưng Nguyên kéo đến phủ lỵ với những khẩu hiệu cách mạng: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến! Bỏ sưu thuế, chia ruộng đất…”. Thực dân Pháp đã dùng máy bay ném bom, giết chết 217 người. Sự kiện này đã thổi bùng thêm ngọn lửa đấu tranh lan rộng khắp các địa phương trong tỉnh, kéo dài cho tới năm 1931, dẫn tới sự tan rã bộ máy chính quyền đế quốc phong kiến và hình thành các Xô viết. Tại Nghệ An, tổ chức Nông hội với các hình thức xô viết đã nắm chính quyền ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Diễn Châu. Ở Hà Tĩnh, tại các huyện Can Lộc, Thạch Hà và Đức Thông có tới 172 xã thành lập xô viết. Trong suốt thời gian tồn tại, các Xô viết đã đóng chức năng là chính quyền chuyên chính công nông, trấn áp bọn phản cách mạng, tổ chức đời sống sản xuất và tinh thần của nhân dân…Phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đã giành được sự ủng hộ dưới nhiều hình thức của các địa phương, đồng thời cũng là ngòi nổ kích thích phong trào cách mạng trên toàn quốc dâng cao. Mặc dầu cuối cùng, các Xô viết đều bị đàn áp, tổ chức cách mạng bị khủng bố và chịu những tổn thất to lớn, nhưng như Nguyễn Ái Quốc viết: “Tuy đế quốc đã dập tắt phong trào đó trong bể máu, nhưng Xô viết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng tám thắng lợi lớn sau này”. [B][COLOR=rgb(226, 80, 65)]14-10-1930: Ngày thành lập hội nông dân Việt Nam[/COLOR][/B] Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và thanh niên cách mạng đồng chí hội, cuối năm 1926 đầu năm 1927, một số địa phương hình thành “Nông Hội Đỏ” chỉ đạo cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống thực dân, địa chủ phong kiến và tư sản, đòi quyền dân sinh dân chủ; tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Cao Lãnh, Sa Đéc, Gia Định, Đức Phổ, Duyên Hà, Tiền Hải…. đi tới đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục, tổ chức, động viên đưa quần chúng ra đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân chính trị quần chúng cách mạng. Tại kỳ họp ban chấp hành Trung Ương Đảng lần I (khoá I) từ 14/10 đến cuối tháng 10 năm 1930, “Nông hội đỏ” chính thức ra đời. Sự kiện thành lập Nông hôi đỏ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng về chất của giai cấp nông dân Việt Nam. Lần đầu tiên đưa gia cấp nông dân có đoàn thể cách mạng của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, tổ chức Hội nông dân Việt Nam liên tục phát triển dưới nhiều hình thức và tên gọi phù hợp: “Hội tương tê ái hữu”, “Hội nông dân phản đế”, “Hội nông dân cứu quốc”, trở thành một thành viên chủ lực của mặt trận Việt Minh, là lực lượng nòng cốt và đông đảo nhất tham gia khởi nghĩa tháng tám 1945. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tổ chức Hội được duy trì và liên tục phát triển. Hội nông dân giải phóng Miền Nam được thành lập, là thành viên quan trọng của mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, tham gia các phong trào cách mạng: đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận; xây dựng hậu phương chiến đấu tại chỗ…., góp phần làm thất bại mọi âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Ở miền Bắc, hội nông dân tập thể đã vận động nông dân đi theo con đường hợp tác hoá: vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ hậu phương, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam – thành đồng tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Chiến thắng mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bước vào thời kỳ mới, nông dân 2 miền Nam Bắc sát cánh cùng toàn dân đi tiếp con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn; nhiệt tình tham gia xây dựng tổ chức của giai cấp nông dân - hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam từng bước lớn mạnh. Ngày 1/3/1988, hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam được đổi tên là hội nông dân Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần I hội nông dân Việt Nam họp từ ngày 28 đến ngày 29/3/1988 tại Hà Nội, là một cột móc quan trọng, một bước ngoặc có ý nghĩa lịch sử trong sự phát triển của phong trào nông dân: Hội nông dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân được chính thức thành lập, có hệ thống từ Trung Ương đến cơ sở; khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng ta về vai trò, vị trí của giai cấp công nông dân và hội nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời đề ra những mục tiêu, nội dung hoạt động của Hội, thực hiện đường lối mới của Đảng. [B][COLOR=rgb(226, 80, 65)]20-10-1930: Ngày thành lập hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam[/COLOR][/B] Từ nghị quyết đầu tiên về công tác vận động phụ nữ (tháng 10/1939) đến các nghị quyết của Đảng nói về công tác phụ nữ, các bài viết của chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta đều gắng liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng loài người. Phụ nữ được coi là một tổ chức quần chúng của Đảng. Qua các thời kỳ, tổ chức phụ nữ đã có những tên gọi khác nhau phù hợp với nhiệm vụ cách mạng: [INDENT]* Hội phụ nữ phản đế (20/10/1930) * Đoàn phụ nữ cứu quốc (16/6/1941) * Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20/10/1946)[/INDENT] Với đoàn phụ nữ cứu quốc làm nòng cốt, tháng 4/1950 đoàn phụ nữ cứu quốc đã họp nhất vào hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Hội phụ nữ giải phóng (thành lập ngày 8/3/1961) ở miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cũng hợp nhất vào hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tháng 6/1976. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam được Đảng tổ chức và lãnh đạo để làm cách mạng và chăm lo quyền lợi cho phụ nữ Việt Nam, thực hiện nam nữ bình đẳng. Qua gia đoạn cách mạng, phụ nữ Việt Nam luôn luôn xứng đáng với lời khen ngợi của chủ tịch Hồ Chí Minh “[B]Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.[/B]” Nhân diệp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, nhà nước ta tặng huân chương Hồ Chí Minh. Nhân kỷ niệm lần thứ 55 ngày thành lập hội, Đảng và nhà nước ta đã trao tặng huân chương sao vàng cho Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. [B][COLOR=rgb(184, 49, 47)]26-03-1931:THÀNH LẬP ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH[/COLOR][/B] Vào mùa xuân năm 1931, ở thời điểm từ ngày 20 đến 26/3/1931, khi tiến hành hội nghị ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ hai, cuộc họp đã dành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp bộ Đảng từ Trung Ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viện của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự phát triển và lớn mạnh của phong trào Đoàn trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất hiện nhiều tổ chức đoàn cơ sở với khoảng hơn 1.500 đoàn viên và một số địa phương đã hình thành hệ thống tổ chức Đoàn xã, huyện lên đến tỉnh. Đến cuối năm 1931, số lượng đoàn viện trên cả nước lên đến hơn 2.500 đồng chí, chứng tỏ sự tác động tích cực của hội nghị trung ương lần thứ hai (tháng 3/1931). Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi cấp bách của phong trào thanh niên nước ta bấy giờ. Được Bộ chính Trị Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép thể theo đề nghị của Ban thường vụ Trung ương Đoàn Thanh Niên lao động Việt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ bai họp từ ngày 22 – 25/3/1961, đã quyết định lấy ngày 26/3/1931( một ngày trong thời gian cuối của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 đã dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng đối với công tác vận động thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm. Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, Đoàn đã đổi tên nhiều lần : [LIST] [*][LEFT]Từ 1931 – 1936 : Đoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Đông Dương[/LEFT] [*][LEFT]Từ 1937 – 1939 : Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương.[/LEFT] [*][LEFT]Tháng 11/1939 – 1941 : Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương[/LEFT] [*][LEFT]Từ 5/1941 – 1956 : Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam[/LEFT] [*][LEFT]Từ 25/10/1956 – 1970 : Đoàn Thanh niên Lao Động Việt Nam[/LEFT] [*][LEFT]Từ 3/2/1970 – 1976 : Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh.[/LEFT] [*][LEFT]Từ 12/1976 đến nay : Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.[/LEFT] [/LIST] Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đó là lớp thanh niên cảm tử cho tổ quốc quyết sinh mà tiêu biều là Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Cù Chính Lan, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót. Đó là thế hệ thanh niên anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với những người con ưu tú như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Thái Văn A… Với các phong trào “ Thanh niên xung phong tình nguyện”, “ Ba sẵn sàng”, “ Năm xung kích”, “Thanh niên kiên cường thắng Mỹ” , “Quyết thắng”. Thế hệ thứ ba này có mặt trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy thần tốc mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, hàng chục triệu đoàn viên đã hăng hái dấy lên phong trào: Ba xung kích làm chủ tập thể” , “Thanh niên lao động sáng tạo” đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, thể hiện ý chí tiến công của tuổi trẻ dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã động viên tổ chức thế hệ trẻ tham gia tích cực các phong trào: “Thanh niên nông thôn sản xuất kinh doanh giỏi”, phong trào CKT ( chất lượng, kiểu dáng, tiết kiệm) trong thanh niên công nhân, phong trào “ Xứng danh bộ đội cụ Hồ” trong thanh niên quân đội, phong trào “Tuổi trẻ công an hành động cách mạng theo 6 điều Bác Hồ dạy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện”, “Cuộc vận động 3 mục tiêu dân số - sức khoẻ - môi trường”. Các phong trào này bước đầu gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân, khẳng định vai trò quan trọng chiến lược của thanh niên trong tình hình mới. Từ ngày thành lập đến nay Đoàn ta đã tổ chức 7 lần Đại Hội : [LIST] [*]Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đoàn khai mạc vào ngày 7/02/1950 tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên với hơn 400 đại biểu. Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn Lam làm Bí thư. [*]Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn họp từ 25/10 đến 04/11/1956 tại thủ đô Hà Nội, có 479 đại biểu. Đại hội bầu 30 đồng chí vào ban chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư thứ nhất. [*]Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III họp từ 23 đến 25/3/1961 tại thủ đô Hà Nội có 677 đại biểu. Đại hội bầu 71 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm bí thư thứ nhất. Sau đó đồng chí Nguyễn Lam chuyển công tác khác của Đảng, đồng chí Vũ Quang được bầu làm Bí thư thứ nhất. [*]Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV họp từ 20 đến 22/11/1980 tại Hà Nội có 623 đại biểu. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương và Ban bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Đặng Quốc Bảo, uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm bí thư thứ nhất. Sau đó đồng chí Đặng Quốc Bảo nhận công tác khác, đồng chí Vũ Mão được bầu làm bí thư thứ nhất. [*]Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V họp từ 27 đến 30/11/1987 tại Hà Nội có 750 đại biểu. Đại hội bầu 150 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành đã bầu Ban thường vụ Trung ương Đoàn gồm 23 đồng chí. Đồng chí Hà Quang Dự được bầu làm bí thư thứ nhất. [*]Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI họp từ 15 đến 18/10/1992 có 797 đại biểu. Đại hội bầu 91 đồng chí uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương bầu 14 thường vụ. Đồng chí Hồ Đức Việt được bầu làm bí thư thứ nhất [*]Đại hội toàn quốc lần thứ VII họp từ 26 đến 27/11/1997 có 899 đại biểu. Đại hội bầu 125 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, Ban chấp hành bầu Ban Bí thư gồm 5 đồng chí. Đồng chí Vũ Trọng Kim được bầu làm bí thư thứ nhất. [/LIST] [B][COLOR=rgb(226, 80, 65)]6-6-1931 :Nguyễn Ái Quốc bị đế quốc Anh bắt giam ở Hồng Công.[/COLOR][/B] Uy tín và vai trò của Nguyễn Ái Quốc làm cho đế quốc Pháp phải hoaûng sợ và tìm mọi cách để ám hại. Câu kết với đế quốc Pháp, ngày 6-6-1931, mật thám Anh đã bắt giữ một cách trái phép Nguyễn Ái Quốc (khi đó Người mang bí danh Tống Văn Sơ) tại ngôi nhà số 186 phố Tam Lung, Cửu Long (Hồng Công) và bí mật giam giữ với ý định sẽ giao cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương. Nhờ sự giúp đỡ của các chiến sĩ yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở Hồng Công và đặc biệt nhờ vào sự nhiệt tình của ông Lôdơbai (Loseby), một luật sư tiến bộ người Anh có thế lực ở Hồng Công, vụ án liên quan đến việc mật thám Anh bắt giữ Nguyễn Ái Quốc đã phải đưa ra tòa án tối cao Hồng Công. Vì không đủ chứng cớ buộc tội, nhà cầm quyền Hồng Công phải tuyên bố Nguyễn Ái Quốc trắng án nhưng buộc phải trở về Đông Dương, có nghĩa là đẩy vào tay đế quốc Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã khán án lên Tòa án tối cao Hòang gia Anh ở Lôn Đôn. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bị ốm và nương náu tại gia đình Luật sư Lôdơbai. Tháng 2-1933, Tòa án tối cao Anh tuyên bố trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Trên đường tới nước Anh, Nguyễn Ái Quốc lại bị bắt giữ tại Xingapo rồi trả lại Hồng Công. Một lần nữa, nhờ sự giúp đỡ của ông Lôdơbai, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Trung Quốc để tiếp tục hoạt động bí mật. (còn tiếp) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cận Đại (1858-1945)
Những sự kiện lịch sử Việt Nam Thời cận đại
Top