Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Những phóng sự về chiến tranh Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="vodanhtran03" data-source="post: 70297" data-attributes="member: 54609"><p>Một hành động dã man bị khám phá, tháng 11-1969 VỤ THẢM SÁT MỸ LAI Seymour M. Hersh St. Luis Post – Dispatch, 13-11-1969 Trung uý bị kết tội giết 109 thường dân. Căn cứ Benning, Georgia, 13-11 – Trung uý William L. Calley Jr, 26 tuổi, là 1 cưụ chiến binh chiến đấu tại VN trông còn trai trẻ và có tác phong chừng mực với biệt danh “Rusty”. Quân đội đã hoàn tất cuộc điều tra về những cáo buộc rằng anh ta cố tình sát hại ít nhất 109 thường dân VN trong 1 cuộc hành quân tìm - và - diệt vào tháng 3-1968 tại 1 nơi được gọi tên là “Pinkville”. Calley chính thức bị cao buộc 6 điểm về tội giết người hàng loạt. Mỗi yếu tố kết tội đều nêu số người chết, cộng lại thành 109, và cáo buộc rằng Calley đã làm “việc sát nhân có suy tính trước… những người phương Đông, với tên họ và giới tính chưa rõ, bằng cách bắn họ với 1 khẩu súng trường”. Quân đội gọi đó là sát nhân; Calley, luật sư của anh và những người khác có dính đến sự cố này mô tả đó như 1 trường hợp thi hành mệnh lệnh. “Pinkville” đã trở thành 1 bí danh phổ biến trong giới quân sự trong 1 vụ án mà nhiều sỹ quan cũng như 1 số dân biểu nghị sỹ tin rằng sẽ gây rất nhiều tranh cãi, hơn là những cáo buộc 8 lính Mỹ mũ nồi xanh về tội sát nhân. [Ngày 6-8-1969 Quân đội thông báo rằng đại tá Robert Rheault, cựu chỉ huy nhóm 5 Lực lượng đặc biệt, và 7 binh sỹ dưới quyền đã bị cáo buộc tội sát nhân vào ngày 20-6-1969, đối với 1 nhân viên tình báo người Việt mà họ tình nghi làm việc cho cả VC lẫn Mỹ. Lời cáo buộc bị bác bỏ ngày 29-9-1969 sau khi CIA từ chối công bố tài liệu liên quan đến vụ án]. Các tổ điều tra của Lục quân bỏ ra gần 1 năm nghiên cứu sự cố trước khi đâm đơn kiện Calley. Vào thời điểm xảy ra vụ thảm sát, anh ta là 1 trung đội trưởng của Lữ đoàn 11 thuộc Sư đoàn Americal. Calley bị chính thức kết tội hình như là ngày 6-9-1969, về tội thảm sát nhiều người, chỉ vài ngày trước khi anh ta mãn hạn phục vụ tại ngũ. Calley sau đó đã thuê một luật sư dân sự xuất sắc, George W. Latimer, cựu chánh án Tòa thượng thẩm quân đội Mỹ, và hiện đang chờ 1 quyết định quân sự xem bằng chứng có đủ để đưa ra tòa án binh hay không. Các quan chức Lầu Năm Góc mô tả giai đaọn hiện nay của vụ án là tương tự 1 thủ tục tố tụng dân sự với đại bồi thẩm đoàn. Trong khi đó, Calley, bị quản thúc tại căn cứ Benning, ở đấy việc đi lại của anh ta bị giới hạn chặt chẽ. Tuy nhiên nơi cư trú của anh ta trong căn cứ là bí mật, cả chỉ huy quân cảnh lẫn ban điều tra tội phạm của quân đội cũng không biết anh ta bị giữ ở đâu. Lục quân từ chối bình luận về vụ này, “để không làm thiên lệch tiến trình điều tra và các quyền của bị cáo”. Tương tự, Calley – tuy đồng ý trả lời phỏng vấn – cũng từ chối nói chi tiết về những chuyện đã xảy ra vào ngày 16-3-1968.. Tuy nhiên, nhiều sỹ quan và viên chức khác, 1 số giận dữ trước hành động của Calley và 1 số khác giận dữ vì những cáo buộc sát nhân được đưa vào vụ án, đã nói chuyện thoải mái trong các cuộc phỏng vấn ở căn cứ Benning và Washington. Những yếu tố không ai tranh cãi là: Khu vực Pinkville là 1 làng cách Quảng Ngãi độ 10km về phía đông bắc. Vào đầu tháng 2-1968, 1 đại đội thuộc Lữ đoàn 11, vốn nằm trong Lực lượng đặc nhiệm Barker, tiến qua khu vực này và bị bắn dự dội. Trung đội của Calley bị nhiều tổn thất. Sau trận Mậu Thân tháng 2-1968, họ lại tiến hành 1 đợt tấn công lớn và lại chịu tổn thất nặng và chẳng có kết quả gì. Trận tấn công thứ ba được tiến hành và thắng lợi. Lục quân tuyên bố hạ được 128 VC. Nhiều thường dân cũng bị giết trong cuộc hành quân. Khu vực này là vùng xạ kích tự do mà truyền đơn đã thúc giục thường dân di tản khỏi đó. Những vùng như vậy có nhiều trên khắp Nam VN. Một người từng tham gia chiến dịch với Calley nói: “Chúng tôi được lệnh phải quét sạch khu vực đó. Đó là đội hình tấn công tiêu biểu. Chúng tôi tiến vào mau lẹ, với trọng pháo mở đường phía trước, đi dọc tuyến và tiêu huỷ khu làng. Trận tấn công nào cũng có thường dân thương vong” Anh ta còn cho biết mệnh lệnh quét sạch khu vực được truyền từ tiểu đoàn trưởng xuống đại đội trưởng và đến Calley. Luật sư của Calley nói trong cuộc phỏng vấn: “Đây là kiểu vụ kiện mà lẽ ra không bao giờ nên đưa ra. Nếu có vụ giết người nào thì nó cũng trong 1 cuộc chạm súng có liên quan đến cuộc hành quân. Không được rảnh tay để đoán 1 thường dân nào đó có phải VC hay không. Hoặc anh bắn họ hoặc ngược lại. Vụ kiện này sẽ rất quan trọng – Bạn ràng buộc 1 sỹ quan chiến đấu vào tiêu chuẩn nào khi họ thi hành 1 nhiệm vụ” Có 1 khía cạnh khác trong vụ án Calley – 1 khía cạnh mà quân đội không thể nói ra. Các cuộc phỏng vấn đã nêu lên được sự kiện là, việc điều tra sự cố Pinkville chỉ được bắt đầu 6 tháng sau sự cố đó, sau khi có 1 số lính của Calley lên tiếng. Lục quân có những bức ảnh được coi như chụp lúc xảy ra sự cố, tuy chúng đã không được đưa ra làm bằng chứng trong vụ kiện, và có lẽ sẽ không được đưa ra. “Họ bắn vào ngôi làng, và Calley chỉ huy toán quân ấy” - Một nguồn tin ở Washington nói. “Khi 1 người lính từ chối làm điều đó, Calley đã cầm khẩu súng và tự mình làm chuyện đó”. Được hỏi về điều này, Calley đã tử chối trả lời. Một sỹ quan Lầu Năm Góc khi bàn về vụ kiện đã vỗ vào đầu gối và nhận xét: “Một số cậu bé mà anh ta bắn chỉ cao cỡ này. Tôi không nghĩ chúng là VC. Anh có nghĩ thế không?” Trong những người được phỏng vấn, không ai phủ nhận chuyện có những phụ nữ và trẻ em bị bắn. Tất cả những người được phỏng vấn đều ngạc nhiên trước việc câu chuyện này lại tới được tai báo giới. “Pinkville là 1 từ quen thuộc trong lính Mỹ cả năm nay”, 1 quan chức nói. “Tôi luôn ngạc nhiên là chưa ai viết gì về nó trước đó”. Một sỹ quan cao cấp nói rằng lần đầu tiên ông ta nghe nói tới sự cố Pinkville ngay sau khi nó xuất hiện; ông ta đang làm nhiệm vụ ở Sài Gòn vào thời điểm đó. Tại sao Lục quân quyết định truy tố vụ này? Lới cáo buộc cho rằng Calley hành động có suy tính trước khi giết người đã dựa trên cái gì? Tòa án binh phải đưa ra được câu trả lời cho những câu hỏi này, nhưng 1 số người đã có ý kiến riêng của họ. “Lục quân biết rằng đến lúc nào đó họ sẽ đánh gục ở điểm này”, 1 nguồn tin quân sự bình luận. “Nếu họ không truy tố 1 ai đó, nếu chuyện này bị tiết lộ mà Lục quân không có hành động gì thì tình hình có thể còn tồi tệ hơn”. Một quan điểm khác cho rằng giới chóp bu trong quân đội đang ưu tư về khả năng có thể có những phiên tòa xử tội ác chiến tranh sau cuộc chiến VN. Còn về Calley - mỗi ngày anh ta hút 4 gói thuốc lá và gầy rộc đi. Anh ta cao khoảng 1,7 mét, gầy gò, với đôi mắt xám hờ hững và mái tóc thưa màu nâu. Trông anh ta hơi hoang mang và đau khổ vì những lời cáo buộc. Anh ta nói, chẳng muốn gì khác hơn là được minh oan và trở lại quân đội. “Tôi biết chuyện này nghe kỳ cục”, anh ta nói trong 1 cuộc phỏng vấn, “nhưng tôi thích quân đội… và tôi không muốn làm gì phương hại đến quân đội”. Các bạn bè mô tả Calley là 1 “quân nhân năng nổ… kiểu nhà binh về mọi mặt”. Chua chát thay, nagy cả những người ủng hộ anh ta cũng thừa nhận, sự nhiệt tình của anh ta cũng bị kết tội ít nhiều. “Có lẽ anh ta hiểu mệnh lệnh quét sạch ngôi làng theo nghĩa đen”, 1 người bạn nói. Calley đã được đưa về nước sớm, sau khi Lục quân từ chối lời anh thỉnh cầu được xin kéo dài thời hạn phục vụ tại VN. Cho đến trước khi xảy ra vụ Pinkville, các sỹ quan cấp trên luôn đánh giá anh rất cao. Anh ta nói anh cố gắng trong chiến đấu, song từ khi về căn cứ Benning anh ta chẳng nghe tin gì về những huy chương ấy. Calley ra đời tại Miami, Florida, và bị rớt khỏi trường Palm Beach Junior College trước khi đang vào Lục quân. Anh ta đeo lon thiếu úy tháng 9-1967, ít lâu sau khi tới VN. Lục quân ghi nơi cư trú của anh ta là ở Waynesville, Bắc Carolina. Tờ bản tin do sỹ quan phụ trách quan hệ đại chúng của Sư đoàn Americal phát hành 1 ngày sau cuộc hành quân 16-3 có đề cập qua sự cố này: “Tốc độ của các đơn vị di chuyển vào khu vực này đã làm địch quân kinh ngạc. Sau trận đánh lữ đoàn 11 đã tiến vào làng lục soát từng căn nhà và đường hầm”. Vụ tấn công ngôi làng được gọi là “sát nhân trực xạ” St. Luis Post – Dispatch, 20-11-1969 Washington, 20-11, ba lính Mỹ đã tham gia cuộc tấn công hồi tháng 3-1968 vào 1 ngôi làng VN được đặt tên là Pinkville đã nói trong 1 cuộc phỏng vấn được công bố hôm nay rằng đơn vị chiến đấu của họ đã phạm tội, theo lời 1 người trong bọn, “sát nhân trực xạ” vào cư dân ở đó. “Toàn bộ việc này rất tế nhị. Đó là sát nhân trực xạ và tôi đứng đó nhìn” - trung sỹ Micael Bernhardt, ở Franklin Square, New York, hiện đang hoàn tất đợt công tác ở căn cứ Dix, New Jersey - nói như thế. Bernhardt là thành viên của 1 trong 3 trung đội thuộc 1 đại đội của Lữ đoàn bộ binh 11 do đại úy Ernest Medina chỉ huy. Đại đội tiến vào vùng do VC kiểm soát ngày 16-3-1968 trong 1 chiến dịch tìm - và - diệt. Pinkville, mà người VN gọi là làng Sơn Mỹ cách Quảng Ngãi độ 10km về phía đông bắc. Lục quân đã cáo buộc trung úy William L. Calley Jr, quê Miami, 1 trong những trung đội trưởng của Medina phạm tội sát nhân đối với 109 thường dân VN trong cuộc tấn công. Là tiểu đội trưởng trong trung đội của Calley, trung sỹ David Mitchell, quê St. Francisvolle, Louisiana, đang bị điều tra về tội tấn công với ý định sát nhân. Ít nhất 4 người khác, trong đó có Medina, đang bị điều tra vì có liên quan đến sự cố này. Calley và luật sư của anh ta, George W. Latimer, quê Salt Lake City, đã nói rằng đơn vị nhận được lệnh quét sạch khu vực nói trên. Bernhardt, được phỏng vấn tại căn cứ Dix, nói rằng anh ta đã đi chậm trong cuộc hành quân và hơi rơi lại phía sau đại đội, lúc đó do trung đội của Calley dẫn đầu, khi nó tiến vào khu làng. Sau đây là lời anh ta kể về những gì đã sảy ra: “Họ (lính của Calley) nổ súng lung tung trong đó dữ lắm, nhưng không thấ có gì bắn trả. Tôi có mặt ở đó đủ lâu để các đ5nh điều này. Tôi nghĩ họ đang tiến vào làng với hỏa lực mạnh. Tôi đi tới trước và thấy những lính đó đang làm những chuyện kỳ lạ. Thứ nhất: Họ phóng hỏa những căn nhà chòi lá và chờ người trong đó chạy ra và bắn loạn xạ vào họ. Thú nhì: Họ đi thẳng vào các căn nhà và bắn chết người ở trong đó. Thứ ba: Họ gom người thành nhóm rồi bắn chết hết. Khi tôi đi vào, bạn có thể thấy những đống xác người suốt trong ngôi làng… khắp nơi. Họ bị gom thành những nhóm lớn. Tôi thấy lính bắn 1 quả M-79 vào 1 nhóm người vẫn còn sống. Những việc bắn giết hầu như đã hoàn tất với 1 khẩu liên thanh. Họ bắn đàn bà và trẻ em cũng như mọi người khác. Chúng tôi không gặp kháng cự nào và tôi chỉ thấy 3 võ khí bị tịch thu. Chúng tôi không bị tổn thất gì. Nó cũng giống y như các làng VN khác – những ông già, đàn bà và trẻ con. Sự thực tôi không nhớ mình có nhìn thấy 1 người nam giới nào trong độ tuổi cầm súng được ở khắp ngôi làng đó, dù còn sống hay đã chết. Tù nhân duy nhất tôi thấy là 1 người cỡ 50 tuổi”. Một thông cáo của Lục quân tường thuật về cuộc hành quân nói rằng đại đội của Medina tịch thu được 2 súng trường M-1, 1 súng carbine, 1 máy phát làn sóng ngắn và nhiều tài liệu của địch trong cuộc tấn công. Xác VC đếm được là 128 và không có đề cập đến thương vong thường dân. Bernhardt, thấp và đậm người, kể lại câu chuyện theo kiểu cắt vụn của anh ta, với 1 vẻ nhẹ nhõm rõ ràng khi sau cùng cũng nói được nó ra. Được 1 lúc anh ta nói với người phỏng vấn mình: “Ông ngạc nhiên hả? Tôi thì chẳng ngạc nhiên được trước bất cứ việc gì của bọn đó (những người làm việc bắn giết)”. Bernhardt nói anh ta không biết chính xác báo nhiêu dân làng bị bắn chết. Anh ta nói có nghe những kết quả đếm xác thay đổi từ 170 đến 700. Bernhardt cũng nói rằng anh ta không rõ có phải Calley đích thân bắn 109 thường dân hay không, như Lục quân đã cáo buộc. Tuy nhiên anh ta nói: “Tôi biết chắc chắn rằng anh ta đã giết rất nhiều người”. Cư dân trong vùng Pinkville đã nói với phóng viên báo chí rằng 567 dân làng đã bị giết trong cuộc hành quân. Tại sao những người lính đó lên cơn cuồng sát như vậy? “Theo tôi nghĩ” – anh trung sỹ nói – “Cà đại đội đã được huấn luyện để hành động như thế. Cách cư xử thật tệ… Chúng tôi lúc nào cũng hành quân trong rừng. Tôi nghĩ họ hy vọng chúng tôi gặp kháng cự tại Pinkville và cũng dự trù bọn nó (VC) dùng dân chúng làm con tin. Sau khi mọi chuyện đã xong, 1 đại tá nọ đến căn cứ hỏa lực nơi chúng tôi đóng quân và hỏi han về chuyện đó, nhưng tôi không nghe nói gì thêm. Sau đó, họ (Medina và mấy sỹ quan khác) kêu tôi lên bộ chỉ huy và yêu cầu tôi đừng viết thư cho dân biểu ở quê tôi”. (về sau Lục quân đã minh chứng lời buộc tội của Bernhardt. Trong 1 thư riêng đề ngày 6-8-1969, đại tá John G. Hill Jr. 1 phụ tá về quản lý hoạt động tham mưu trong văn phòng của Tham mưu trưởng lục quân William C. Westmoreland đã viết rằng Medina đã thừa nhận rằng ông ta đã yêu cầu Bernhardt đôi cho đến khi lữ đoàn kếtthúc cuộc điều tra về sự cố. Cuộc điều tra không đem lại kết quả nào). Bernhardt nói rằng khoảng 90% của 60 tới 70 lính trong đại đội thiếub quân số này có dính tới việc bắn giết. Anh ta nói anh ta không hề tham gia. “Tôi chỉ bắn vào người nào có bắn tôi. Quân đội ra lệnh cho tôi không được kể chuyện, nhưng có những mệnh lệnh mà tôi phải tự quyết định xem có nên tuân theo hay không; tôi có lương tâm của mình để suy xét. Toàn bộ sự vụ cũng khiến tôi hoang mang là liệu mình còn có thể tin người khác nữa hay không”. Bernhardt nói, ý kiến của anh ta là, chắc hẳn đã có 1 sỹ quan cao cấp ra lệnh tiêu hủy Pinkville. “Carley chỉ là sỹ quan chỉ huy cấp thấp”, anh ta nói. Bernhardt nói những cấp cao của Lục quân hẳn đã biết chuyện xảy ra ở Pinkville. “Họ có những ảnh chụp. Một ai đó đã tháp tùng cuộc hành quân và chụp hình”. Bernhardt nói anh ta được cho xem những bức ảnh đó theo thủ tục quy định bởi Điều luật 32, thủ tục này kết luận rằng lời cáo buộc đối với Calley đã được chứng minh. “Những bức ảnh cho thấy cả một khối người… người chất đống. Tôi không hiểu làm sao ai đó có thể nói chính trọng pháo hay lằn lựu đạn của 2 bên đã giết những người đó được.”. (Tờ Cleveland Plain Dealer hôm nay đã in những bức ảnh chụp những thường dân Nam VN được cho rằng đã bị giết trong sự cố. Tờ báo cũng nói họ nhận được những bức ảnh này từ cựu nhiếp ảnh viên chiến trường của Lục quân, Ronald L. Haeberle, ngụ ở Cleveland. Haeberle nói trong 1 bài báo rằng anh ta tháp tùng đại đội ngay trước khi nó tiến vào ngôi làng và nghe lính nói chuyện rằng làng này bị tình nghi là cảm tình viên của VC. Anh ta nói đã nhìn thấy đàn ông, đàn bà và trẻ em bị giết) Bài báo này là của Joe Eszterhas viết cho tờ Plain Dealer. Haeberle sau đó bán những bức ảnh này cho tờ Life được 19.550 USD và chúng được in trên tạp chí này ngày 5-12-1969. Một nhân chứng khác của vụ bắn giết là Michael Terry, ở Orem, Utah, lúc đó là lính của Trung đội C thuộc đại đội của Medina và hiện là sinh viên năm thứ nhì Đại học Brigham Young. Khi được phỏng vấn tại nhà, Terry nói anh ta cũng đến hiện trường vài phút sau khi việc bắn giết bắt đầu. “Họ đi qua làng và bắn tất cả mọi người”. Có vẻ như chẳng ai nói gì cả… Họ chỉ lôi người ta ra và bắn họ”. Có lúc anh ta nói, hơn 20 dân làng bị xếp hàng trước 1 đường mương và bắn chết. “Họ bắt một nhóm người ra đứng bên đường mương – giống kiểu bọn Đức Quốc xã đã làm… Một sỹ quan ra lệnh cho 1 đứa nhỏ bắn súng máy vào mọi người, nhưng đứa nhỏ không làm vậy được. Nó quăng súng xuống và viên sỹ quan nhặt lên… Tôi không nhớ có nhìn thấy người đàn ông nào dưới mương hay không. Hâu hết là đàn bà và trẻ con”. Sau đó anh ta và toán trung đội dưới quyền đang nghỉ ăn trưa gần đường mương thì, anh ta nhận thấy “có người trong bọn họ còn thở… Họ bị bắn nát người. Họ không thể có trợ giúp cứu thương gì cả, và do đó chúng tôi bắn họ. Bắn có lẽ 5 người trong bọn họ…” Tại sao lại có chuyện đó? “Tôi nghĩ có lẽ các sỹ quan không thực sự hiểu họ có được lệnh giết các dân làng hay không… Rất nhiều lính cảm thấy rằng họ (thường dân VN) không phải con người. Chúng ta chỉ đối xử với họ như những con vật”. Rõ ràng 1 sỹ quan không nằm trong đại đội của Medina đã cố ngăn cuộc bắn giết lại. Terry và Bernhardt đều báo cáo rằng 1phi công trực thăng của 1 đơn vị yểm trợ đã đáp xuống ngay giữa sự cố và cố gắng chặn việc này lại. (Đó là phi công trực thăng quan sát Hugh Thompson Jr. của Tiểu đoàn không vân 123) Viên sỹ quan cảnh báo rằng ông ta sẽ báo cáo vụ bắn giết. Ngày hôm sau, viên phi công bị chết khi thi hành nhiệm vụ và cuộc điều tra sau đó vốn do những viên chức của Lữ đoàn 11 khởi sự đã bị gác lại sau 1 ngày rưỡi không đủ chứng cớ. (Glenn Andreotta, cơ trưởng trên trực thăng của Thompson, chết khi làm nnhiệm vụ ngày 4-8-1968. Thompson báo cáo những gì mình thấy ở Mỹ Lai cho các sỹ quan cấp trên ngày 16-3 và cho đại tá Oran Henderson, tư lệnh Lữ đoàn 11 ngày 18-3. Sau đó ông ta ra làm chứng trước tòa án binh xử Calley cùng với xạ thủ trực thăng Lawrence Colburn. Năm 1998, Thompson, Colburn và Andereotta được Quân đội thưởng huy chương chiến sỹ vì đã cứu mạng ít nhất 10 dân làng ở Mỹ Lai). Terry nói lần đầu tiên anh ta được biết về cuộc điều tra này khi mùa xuân rồi có 1 đại ta từ Ban Tổng Thanh tra quân đội đến phỏng vấn anh ta. Bernhardt không bị phỏng vấn cho đến khi có 1 nhóm từ ban điều tra tội phạm của Lục quân đến gặp anh ta hồi 2 tháng trước. Nhân chứng thứ 3 cho vụ Pinkville không thể xác minh được. Anh ta vẫn còn phục vụ trong Lục quân ở West Coast. Nhưng anh ta khẳng định chi tiết các lời kể của Bernhardt và Terry về ngày đó trong tháng 3-1968. “Tôi lo bắn heo và gà trong khi những lính khác bắn người. Nó không chỉ là cơn ác mộng; tôi hoàn toàn ý thức nó là thực đến thế nào. Đó là điều mà tôi nghĩ không ai có thể hiểu được – thực thế về chuyện đó mãi đến gần đây tôi mới nhới lại, khi tôi đọc được chuyện đó trên báo”. Cả 3 người lính đều được đọc những đoạn trích quan trọng từ 1 lá thư 3 trang viết vào tháng 3 bởi 1 cựu quân nhân, Ronald Ridenhour, gửi Lục quân và 30 viên chức khác, kể cả 1 số nghị sỹ. lá thư phác họa lại sự cố Pinkville theo cách hiểu của anh ta. Chính sự kiên định của Ridenhour đã thúc đẩy Lục quân bắt đầu cuộc điều tra ở cấp cao vào tháng 4. Ridenhour, hiện là sinh viên ở Claremont Men’s College, không nằm trong đại đội của Medina và không tham gia vụ bắn giết. Anh ta dựa trên thông tin từ Terry và Bernhardt, cùng nhiều nguồn khác, để viết lá thư này. Luật sư của Calley từ chối bình luận về những lời cáo buộc mới được nêu ra trong các cuộc phỏng vấn. Nhưng 1 nguồn tin khác, khio bàn đến vị trí của Calley, đã nói: “Cho đến nay chưa ai chỉ rõ được người ta đã khởi sự vụ này”. Nguốn tin này cũng nói rằng anh ta đã hiểu Calley và những sỹ quan khác trong đại đội ban đầu đã chống lại mệnh lệnh nhưng sau cùng cũng phải làm việc của họ. Trung đội của Calley tiến hành tấn công vào làng, cùng những đơn vị khác tạo thành đội hình vòng cung quanh khu vực để ngăn không cho địch quân bỏ chạy. “Tôi không cần biết Calley có sử dụng phán đoán tốt nhất hay không – anh ta bị đối mặt với 1 quyết định gay go”, nguốn tin ấy nói. Cựu quân nhân kể lại việc giết dân thường ở Pinkville St. Louis Post – Dispatch, 23-11-1969. Terre Haut, Indiana, 25-11 – Một cựu quân nhân nhân kể lại trong những cuộc phỏng vấn hôm qua việc anh ta đã hành quyết theo mệnh lệnh, các thường dân Nam VN như thế nào trong cuộc tấn công của quân Mỹ vào làng Sơn Mỹ hồi tháng 3-1968. Anh ta ước lượng rằng anh ta cùng đồng bọn đã bắn vào 370 dân làng trong cuộc hành quân tại khu làng hiện được biết dưới tên Pinkville. Paul Meadlo, 22 tuổi, ở West Terre Haut, Indiana, một cộng đồng nông trại ở gần biên giới bang Illinois, đã kể lại điều mắt thấy tai nghe – lời kể lần đầu tiên được đưa ra tính cho đến nay – về sự cố khi trung đội của trung úy William L. Calley Jr. tiến vào Pinkville trong 1 cuộc hành quân tìm-và-diệt. Lục quân đã xác nhận rằng có ít nhất 100 thường dân đã bị anh này giết chết. Những người Việt sống sót đã nói với các phóng viên rằng tổng số người chết là 567. Meadlo, người bị thương vì mìn sau ngày vụ Pinkville, tiết lộ rằng đại úy đại đội trưởng Ernest Medina, đã có mặt tại khu vực đó khi sảy ra vụ bắn giết và đã không làm gì để ngăn nó lại. Calley, 26 tuổi ở Waynesville, Bắc Carolina, đã bị kết tội sát nhân có suy tính trước đối với 109 thường dân trong vụ này. Medina, với tư cách chỉ huy đơn vị thuộc Lữ đoàn 11 bộ binh, đang bi điều tra về vai trò của ông ta trong vụ bắn giết này. Tuần rồi, Lục quân thông báo rằng có ít nhất 24 người khác cũng đang bị điều tra, trong đó có hạ sỹ quan hành chính của Calley, trung sỹ David Mitchell, 29 tuổi, ở St. Francisville, Louisiana, người đang bị điều tra về tội tấn công với ý đồ sát nhân. (Mitchell ra tòa án binh vì tội tấn công với ý đồ sát nhân và được tha bổng ngày 20-11-1970. Calley bị kết án sát nhân có suy tính trước ngày 29-3-1971 và bị tù chung thân. Ngày 1-4-1971, tổng thống Nixon ra lệnh thả Calley khỏi tù và cho quản thúc tại gia ở Căn cứ Benning, Georgia, trong khi anh ta kháng án. Bản án của Calley được giảm xuống còn 20 năm vào tháng 8-1971 rối xuống còn 10 năm vào tháng 4-1974. Anh ta được thả tự do có giám sát ngày 9-11-1974. 10 người lính khác của Đại đội Charlie bị cáo buộc vì những tội đã phạm ở Mỹ Lai; 1 được tha bổng ngay tại tòa án binh, và các cáo buộc đối với 9 người kia cũng bị bác bỏ. Đại tá Oran Henderson, cựu tư lệnh Lữ đoàn 11, bị ra tòa án binh vì vai trò của ông ta trong việc che giấu vụ thảm sát và được tha bổng ngày 17-12-1091. Những cáo buộc tương tự với 13 sỹ quan khác, trong đó có trung tướng Samuel Koster, cựu tư lệnh Sư đoàn Americal, bị bác bỏ). Sau đây là câu chuyện của Meadlo kể trong buổi phỏng vấn tại nhà mẹ anh ta gần Terre Haut: “Người ta cho rằng có 1 số VC tại Pinkville và chúng tôi bắt đầu tiến hành càn quét qua chỗ đó. Khi tới nơi, chúng tôi bắt đầu tập hợp mọi người lại… khởi sự chia họ thành những nhóm lớn. Đã có khoảng 40 hay 45 thường dân đứng trong 1 vòng tròn lớn ngay giữa làng… Calley bảo tôi và 1 nhóm lính khác canh chừng họ. “Các bạn biết tôi muốn các bạn làm gì mà” – anh ta nói. (Meadlo kể lại. Anh ta và những người lính khác tiếp tục canh chừng nhóm người đó) “Khoảng 10 phút sau Calley trở lại. “Cảnh giác đấy. Tôi muốn họ chết”. “Thế là chúng tôi đứng cách họ độ 4-5 mét, rồi anh ta (Calley) bắt đầu bắn họ. Rồi anh ta bảo tôi bắn họ… Tôi khởi sự bắn, nhưng những người lính khác (những anh được phân công canh gác đám thường dân) không làm chuyện đó. Thế là chúng tôi (Meadlo và Calley) tiếp tục bắn giết bọn họ. Tôi sài hết nhiều hơn 1 băng đạn – sự thực tôi đã sài 4 hay 5 băng. (Có 17 viên M-16 trong 1 băng)”. Anh ta ước lượng mình đã giết ít nhất 15 thường dân hay gần nửa số người trong vòng tròn (Để giảm rủi ro kẹt đạn, lính Mỹ thường chỉ nạp 17 hay 18 viên vào 1 băng có thể chứa 20 viên). Khi được hỏi anh ta đã nghĩ gì lúc đó, Meadlo nói: “Tôi chỉ nghĩ người ta muốn chúng tôi làm thế”. Sau này, anh ta nói rằng việc bắn giết “đã làm nhẹ lương tâm của tôi về những đồng đội đã mất. Đó chỉ là trả thù. Chỉ có vậy”. Đại đội ở trận địa đến 40 ngày mà không được thay thế trước khi vụ Pinkville xảy ra ngày 16-3, và đã mất đi 1 số lính vì mìn. Lòng căm ghét người Việt trong đại đội lên rất cao, Meadlo nói. Cuộc bắn giết tiếp tục. “Chúng tôi cho tập họp khoảng 7 hay 8 thường dân trong 1 căn chòi, và tôi định thảy 1 trái lựu đạn vào đó. Nhưng có người bảo tôi dẫn họ ra bờ mương và bắn chết. Calley đang ở đó và nói với tôi: “Meadlo, mình có 1 việc nữa phải làm”. Thế là chúng tôi đẩy 7 tới 8 người vào chung với số người kia. Và thế là chúng tôi bắt đầu bắn cả bọn. Mitchell, Calley… cũng làm như thế. (đến đây Meadlo không nhớ thêm được tên của bất kỳ người lính nào đã tham gia). Tôi đoán mình đã bắn có lẽ 25 hay 20 người dưới mương” Vai trò của anh ta trong vụ bắn giết cũng chưa hết. “Sau vụ bên đường mương, chỉ còn vào người trong chòi. Tôi biết còn có vài người nữa trong 1 chòi kia, có lẽ 2 hay 3 người, nên tôi chỉ thảy vào đó 1 trái lựu đạn” Meadlo người cao lớn, tóc húi sát, một thợ mỏ ở Indiana. Anh ta kết hôn với người yêu ở ngoại ô Terre Haut, đang nuôi nấng cả gia đình (anh ta có 2 con) thì bị gọi nhập ngũ. Cho đến lúc xảy ra vụ Pinkville anh ta đã ở VN được 4 tháng. Ngày hôm sau, 17-3, trong khi theo Calley trong 1cuộc hành quân, anh ta bị mìn nổ đứt bàn chân. Trong khi Meadlo chờ được di tản, những người lính khác trong đại đội đã báo cáo với rằng anh ta có nói với Calley: “Đây là sự trừng phạt cho những gì anh ta đã làm hôm trước”. Anh ta cảnh báo, thoe những người chứng kiến, Calley cũng sẽ đến ngày bị phán xử thôi. Khi được hỏi về điều này. Meadlo nói anh ta chẳng nhớ được. Meadlo hiện đang làm việc trong 1 xí nghiệp ở Terre Haut, đang cố gắng đòi trợ cấp thương tật toàn phần ở Sở Cựu chiến binh. Việc mất bàn chân phải có vẻ không làm cho anh ta phiền lòng bằng việc bị mất lòng tự trọng. Giống như những người bạn khác trong đại đội, anh ta, trước cuộc phỏng vấn, đã được 1 sỹ quan ở căn cứ Benning, nơi Calley bị quản thúc, đến thăm và khuyên anh ta đừng nói chuyện về vụ này với phóng viên. Nhưng, giống như những bạn khác trong đại đội, anh ta có vẻ rất muốn kể chuyện. “Chuyện này đã làm nó rất bồn chồn”, mẹ anh ta, bà Myrtkle Meaddlo, 57 ruổi, ở New Goshen, Indiana, giải thích. “Làm như nó không thể vượt qua chuyện đó. Tôi đã gửi cho quân đội 1 đứa con tử tế, và họ biến nó thành kẻ sát nhân”. Tại sao anh ta làm thế? “Chúng tôi đều phải tuân lệnh”, Meadlo nói. “Tất cả chúng tôi đều nghĩ mình đang làm chuyện đúng… Lúc đó nó chẳng làm tôi áy náy gì cả”. Đêm đó anh ta bắt đầu hồ nghi dữ dội về điều mình đã làm ở Pinkville. Anh ta nói cho đến bây giờ anh vẫn còn thấy hồ nghi. “Trẻ con và phụ nữ - họ không có bất cứ quyền nào phải chết. Ban đầu tôi chỉ nghĩ mình sẽ giết VC”. Anh ta, giống như các bạn trong đại đội đêm hôm trước, lúc đó đại đội trưởng Medina đã hứa hẹn sẽ có 1 cuộc chạm súng ra trò. Calley và trung đội của anh ta được phân công giữ vai trò chủ chốt trong việc tiến vào Pinkville trước hết. “Khi đến nơi chúng tôi nghĩ mình sẽ bị bắn”, Meadlo nói, tuy rằng đại đội không bị tổn thất gì. “Chúng tôi từ ngoài đồng trống đi vào làng, và có ai đó nhìn thấy 1 người ngoài kia. Anh ta hụp xuống 1 chỗ núp, sợ hãi co rúm lại… Có ai đó nói: “Có 1 tên vàng ngoài kia”, và hỏi phải làm gì đây. Mitchell nói: “Bắn nó đi”, và người đó bắn. Người nông dân đứng dậy, run rẩy và vung 2 tay khi anh ta trúng đạn. “Rồi chúng tôi đến căn nhà này, nó có 1 cái cửa không mở ra được”. Meadlo nói anh ta đã tông cửa vào và “thấy 1 ông già trong đó đang run rẩy. Tôi bảo với đồng đội, “Tao vớ được 1”, và chính Mitchell bảo tôi bắn lão đi. Đó là người đầu tiên tôi bắn. Ông ta đang trốn trong 1 cái hầm, lắc đầu và quơ tay lia lịa, cố gắng xin tôi đừng bắn ông ta”. Sau cuộc tàn sát, Meadlo nói: “Tôi nghe nói điều chúng tôi cần làm chỉ là giết VC. Mitchell nói việc của chúng tôi chỉ là bắn đàn ông”. Đàn bà và trẻ em cũng bị bắn. Meadlo ước lượng có ít nhất 310 người bị lính Mỹ bắn chết ngày hôm đó. “Tôi biết nó cao hơn nhiều so với con số 100 mà Lục quân Mỹ đưa ra. Tôi hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Xác người khắp nơi mà”. Anh ta có 1 số ký ức đầy ám ảnh, anh ta nói: “Họ không hề chống cự hay làm gì cả. Các phụ nữ rúm lại bên con cái và lãnh đạn. Họ ôm chặt con vào lòng, hay lấy thân mình che cho con mong cứu được chúng. Làm vậy chũng chẳng được gì”. Có 2 điều kiện khiến anh ta bối rối. Anh tranh cãi quyết liệt về tiếng trọng pháo lặp lại trước khi họ tiến vào làng. “Không có tiếng đại bác nào trong làng cả. Chỉ có vài trực thăng bắn từ trên xuống”. Hôm thứ Bảy, chính phủ Nam VN nói rằng có 20 thường dân bị giết trong vụ tấn công Sơn Mỹ, hầu hết nạn nhân của không kích hoặc trọng pháo trước khi binh lính Mỹ tiến vào. Chính phủ bác bỏ những báo cáo về 1 cuộc thảm sát. Meadlo thắc mắc về vai trò của đại úy Medina trong vụ này. “Tôi không biết liệu đại đội trưởng có ra lệnh giết hay không, nhưng ông ta có mặt ở đó khi mọi chuyện xảy ra. Tại sao ông ta không chặn nó lại? Ông ta và Calley sáng hôm đó chạm mặt nhau nhiều lần nhưng chẳng nói gì cả. Medina cứ đi tới đi lui, ông ta chắc chắn có thể dừng nó lại bất cứ lúc nào ông ta muốn”. Toàn bộ cuộc hành quân chỉ có dài khoảng 30 phút, Meadlo nói. Còn về Calley, Meadlo nói về một sự cố vài tuần trước vụ Pinkville. “Chúng tôi thấy 1 phụ nữ băng qua ruộng lúa và Calley nói: “Bắn nó đi”, và chúng tôi bắn. Khi ra đến đó, chúng tôi thấy cô ta còn sống, bị trúng đạn bên sườn. Calley cố ra lệnh cho người khác bắn cô ấy. Tôi không biết anh ta có bắn không”. Ngoài gì, Medina và Calley đã nói với binh lính trước vụ Pinkville, Meadlo nói rằng “nếu chúng ta có bắn thường dân nào, chúng ta phải tiến tới và cài 1 trái lựu đạn vào tay họ”. Meadlo không dám chắc, nhưng anh ta nghĩ cảm giác về cái chết đến với đại đội rất nhanh ngay khi đến với Việt nam…</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="vodanhtran03, post: 70297, member: 54609"] Một hành động dã man bị khám phá, tháng 11-1969 VỤ THẢM SÁT MỸ LAI Seymour M. Hersh St. Luis Post – Dispatch, 13-11-1969 Trung uý bị kết tội giết 109 thường dân. Căn cứ Benning, Georgia, 13-11 – Trung uý William L. Calley Jr, 26 tuổi, là 1 cưụ chiến binh chiến đấu tại VN trông còn trai trẻ và có tác phong chừng mực với biệt danh “Rusty”. Quân đội đã hoàn tất cuộc điều tra về những cáo buộc rằng anh ta cố tình sát hại ít nhất 109 thường dân VN trong 1 cuộc hành quân tìm - và - diệt vào tháng 3-1968 tại 1 nơi được gọi tên là “Pinkville”. Calley chính thức bị cao buộc 6 điểm về tội giết người hàng loạt. Mỗi yếu tố kết tội đều nêu số người chết, cộng lại thành 109, và cáo buộc rằng Calley đã làm “việc sát nhân có suy tính trước… những người phương Đông, với tên họ và giới tính chưa rõ, bằng cách bắn họ với 1 khẩu súng trường”. Quân đội gọi đó là sát nhân; Calley, luật sư của anh và những người khác có dính đến sự cố này mô tả đó như 1 trường hợp thi hành mệnh lệnh. “Pinkville” đã trở thành 1 bí danh phổ biến trong giới quân sự trong 1 vụ án mà nhiều sỹ quan cũng như 1 số dân biểu nghị sỹ tin rằng sẽ gây rất nhiều tranh cãi, hơn là những cáo buộc 8 lính Mỹ mũ nồi xanh về tội sát nhân. [Ngày 6-8-1969 Quân đội thông báo rằng đại tá Robert Rheault, cựu chỉ huy nhóm 5 Lực lượng đặc biệt, và 7 binh sỹ dưới quyền đã bị cáo buộc tội sát nhân vào ngày 20-6-1969, đối với 1 nhân viên tình báo người Việt mà họ tình nghi làm việc cho cả VC lẫn Mỹ. Lời cáo buộc bị bác bỏ ngày 29-9-1969 sau khi CIA từ chối công bố tài liệu liên quan đến vụ án]. Các tổ điều tra của Lục quân bỏ ra gần 1 năm nghiên cứu sự cố trước khi đâm đơn kiện Calley. Vào thời điểm xảy ra vụ thảm sát, anh ta là 1 trung đội trưởng của Lữ đoàn 11 thuộc Sư đoàn Americal. Calley bị chính thức kết tội hình như là ngày 6-9-1969, về tội thảm sát nhiều người, chỉ vài ngày trước khi anh ta mãn hạn phục vụ tại ngũ. Calley sau đó đã thuê một luật sư dân sự xuất sắc, George W. Latimer, cựu chánh án Tòa thượng thẩm quân đội Mỹ, và hiện đang chờ 1 quyết định quân sự xem bằng chứng có đủ để đưa ra tòa án binh hay không. Các quan chức Lầu Năm Góc mô tả giai đaọn hiện nay của vụ án là tương tự 1 thủ tục tố tụng dân sự với đại bồi thẩm đoàn. Trong khi đó, Calley, bị quản thúc tại căn cứ Benning, ở đấy việc đi lại của anh ta bị giới hạn chặt chẽ. Tuy nhiên nơi cư trú của anh ta trong căn cứ là bí mật, cả chỉ huy quân cảnh lẫn ban điều tra tội phạm của quân đội cũng không biết anh ta bị giữ ở đâu. Lục quân từ chối bình luận về vụ này, “để không làm thiên lệch tiến trình điều tra và các quyền của bị cáo”. Tương tự, Calley – tuy đồng ý trả lời phỏng vấn – cũng từ chối nói chi tiết về những chuyện đã xảy ra vào ngày 16-3-1968.. Tuy nhiên, nhiều sỹ quan và viên chức khác, 1 số giận dữ trước hành động của Calley và 1 số khác giận dữ vì những cáo buộc sát nhân được đưa vào vụ án, đã nói chuyện thoải mái trong các cuộc phỏng vấn ở căn cứ Benning và Washington. Những yếu tố không ai tranh cãi là: Khu vực Pinkville là 1 làng cách Quảng Ngãi độ 10km về phía đông bắc. Vào đầu tháng 2-1968, 1 đại đội thuộc Lữ đoàn 11, vốn nằm trong Lực lượng đặc nhiệm Barker, tiến qua khu vực này và bị bắn dự dội. Trung đội của Calley bị nhiều tổn thất. Sau trận Mậu Thân tháng 2-1968, họ lại tiến hành 1 đợt tấn công lớn và lại chịu tổn thất nặng và chẳng có kết quả gì. Trận tấn công thứ ba được tiến hành và thắng lợi. Lục quân tuyên bố hạ được 128 VC. Nhiều thường dân cũng bị giết trong cuộc hành quân. Khu vực này là vùng xạ kích tự do mà truyền đơn đã thúc giục thường dân di tản khỏi đó. Những vùng như vậy có nhiều trên khắp Nam VN. Một người từng tham gia chiến dịch với Calley nói: “Chúng tôi được lệnh phải quét sạch khu vực đó. Đó là đội hình tấn công tiêu biểu. Chúng tôi tiến vào mau lẹ, với trọng pháo mở đường phía trước, đi dọc tuyến và tiêu huỷ khu làng. Trận tấn công nào cũng có thường dân thương vong” Anh ta còn cho biết mệnh lệnh quét sạch khu vực được truyền từ tiểu đoàn trưởng xuống đại đội trưởng và đến Calley. Luật sư của Calley nói trong cuộc phỏng vấn: “Đây là kiểu vụ kiện mà lẽ ra không bao giờ nên đưa ra. Nếu có vụ giết người nào thì nó cũng trong 1 cuộc chạm súng có liên quan đến cuộc hành quân. Không được rảnh tay để đoán 1 thường dân nào đó có phải VC hay không. Hoặc anh bắn họ hoặc ngược lại. Vụ kiện này sẽ rất quan trọng – Bạn ràng buộc 1 sỹ quan chiến đấu vào tiêu chuẩn nào khi họ thi hành 1 nhiệm vụ” Có 1 khía cạnh khác trong vụ án Calley – 1 khía cạnh mà quân đội không thể nói ra. Các cuộc phỏng vấn đã nêu lên được sự kiện là, việc điều tra sự cố Pinkville chỉ được bắt đầu 6 tháng sau sự cố đó, sau khi có 1 số lính của Calley lên tiếng. Lục quân có những bức ảnh được coi như chụp lúc xảy ra sự cố, tuy chúng đã không được đưa ra làm bằng chứng trong vụ kiện, và có lẽ sẽ không được đưa ra. “Họ bắn vào ngôi làng, và Calley chỉ huy toán quân ấy” - Một nguồn tin ở Washington nói. “Khi 1 người lính từ chối làm điều đó, Calley đã cầm khẩu súng và tự mình làm chuyện đó”. Được hỏi về điều này, Calley đã tử chối trả lời. Một sỹ quan Lầu Năm Góc khi bàn về vụ kiện đã vỗ vào đầu gối và nhận xét: “Một số cậu bé mà anh ta bắn chỉ cao cỡ này. Tôi không nghĩ chúng là VC. Anh có nghĩ thế không?” Trong những người được phỏng vấn, không ai phủ nhận chuyện có những phụ nữ và trẻ em bị bắn. Tất cả những người được phỏng vấn đều ngạc nhiên trước việc câu chuyện này lại tới được tai báo giới. “Pinkville là 1 từ quen thuộc trong lính Mỹ cả năm nay”, 1 quan chức nói. “Tôi luôn ngạc nhiên là chưa ai viết gì về nó trước đó”. Một sỹ quan cao cấp nói rằng lần đầu tiên ông ta nghe nói tới sự cố Pinkville ngay sau khi nó xuất hiện; ông ta đang làm nhiệm vụ ở Sài Gòn vào thời điểm đó. Tại sao Lục quân quyết định truy tố vụ này? Lới cáo buộc cho rằng Calley hành động có suy tính trước khi giết người đã dựa trên cái gì? Tòa án binh phải đưa ra được câu trả lời cho những câu hỏi này, nhưng 1 số người đã có ý kiến riêng của họ. “Lục quân biết rằng đến lúc nào đó họ sẽ đánh gục ở điểm này”, 1 nguồn tin quân sự bình luận. “Nếu họ không truy tố 1 ai đó, nếu chuyện này bị tiết lộ mà Lục quân không có hành động gì thì tình hình có thể còn tồi tệ hơn”. Một quan điểm khác cho rằng giới chóp bu trong quân đội đang ưu tư về khả năng có thể có những phiên tòa xử tội ác chiến tranh sau cuộc chiến VN. Còn về Calley - mỗi ngày anh ta hút 4 gói thuốc lá và gầy rộc đi. Anh ta cao khoảng 1,7 mét, gầy gò, với đôi mắt xám hờ hững và mái tóc thưa màu nâu. Trông anh ta hơi hoang mang và đau khổ vì những lời cáo buộc. Anh ta nói, chẳng muốn gì khác hơn là được minh oan và trở lại quân đội. “Tôi biết chuyện này nghe kỳ cục”, anh ta nói trong 1 cuộc phỏng vấn, “nhưng tôi thích quân đội… và tôi không muốn làm gì phương hại đến quân đội”. Các bạn bè mô tả Calley là 1 “quân nhân năng nổ… kiểu nhà binh về mọi mặt”. Chua chát thay, nagy cả những người ủng hộ anh ta cũng thừa nhận, sự nhiệt tình của anh ta cũng bị kết tội ít nhiều. “Có lẽ anh ta hiểu mệnh lệnh quét sạch ngôi làng theo nghĩa đen”, 1 người bạn nói. Calley đã được đưa về nước sớm, sau khi Lục quân từ chối lời anh thỉnh cầu được xin kéo dài thời hạn phục vụ tại VN. Cho đến trước khi xảy ra vụ Pinkville, các sỹ quan cấp trên luôn đánh giá anh rất cao. Anh ta nói anh cố gắng trong chiến đấu, song từ khi về căn cứ Benning anh ta chẳng nghe tin gì về những huy chương ấy. Calley ra đời tại Miami, Florida, và bị rớt khỏi trường Palm Beach Junior College trước khi đang vào Lục quân. Anh ta đeo lon thiếu úy tháng 9-1967, ít lâu sau khi tới VN. Lục quân ghi nơi cư trú của anh ta là ở Waynesville, Bắc Carolina. Tờ bản tin do sỹ quan phụ trách quan hệ đại chúng của Sư đoàn Americal phát hành 1 ngày sau cuộc hành quân 16-3 có đề cập qua sự cố này: “Tốc độ của các đơn vị di chuyển vào khu vực này đã làm địch quân kinh ngạc. Sau trận đánh lữ đoàn 11 đã tiến vào làng lục soát từng căn nhà và đường hầm”. Vụ tấn công ngôi làng được gọi là “sát nhân trực xạ” St. Luis Post – Dispatch, 20-11-1969 Washington, 20-11, ba lính Mỹ đã tham gia cuộc tấn công hồi tháng 3-1968 vào 1 ngôi làng VN được đặt tên là Pinkville đã nói trong 1 cuộc phỏng vấn được công bố hôm nay rằng đơn vị chiến đấu của họ đã phạm tội, theo lời 1 người trong bọn, “sát nhân trực xạ” vào cư dân ở đó. “Toàn bộ việc này rất tế nhị. Đó là sát nhân trực xạ và tôi đứng đó nhìn” - trung sỹ Micael Bernhardt, ở Franklin Square, New York, hiện đang hoàn tất đợt công tác ở căn cứ Dix, New Jersey - nói như thế. Bernhardt là thành viên của 1 trong 3 trung đội thuộc 1 đại đội của Lữ đoàn bộ binh 11 do đại úy Ernest Medina chỉ huy. Đại đội tiến vào vùng do VC kiểm soát ngày 16-3-1968 trong 1 chiến dịch tìm - và - diệt. Pinkville, mà người VN gọi là làng Sơn Mỹ cách Quảng Ngãi độ 10km về phía đông bắc. Lục quân đã cáo buộc trung úy William L. Calley Jr, quê Miami, 1 trong những trung đội trưởng của Medina phạm tội sát nhân đối với 109 thường dân VN trong cuộc tấn công. Là tiểu đội trưởng trong trung đội của Calley, trung sỹ David Mitchell, quê St. Francisvolle, Louisiana, đang bị điều tra về tội tấn công với ý định sát nhân. Ít nhất 4 người khác, trong đó có Medina, đang bị điều tra vì có liên quan đến sự cố này. Calley và luật sư của anh ta, George W. Latimer, quê Salt Lake City, đã nói rằng đơn vị nhận được lệnh quét sạch khu vực nói trên. Bernhardt, được phỏng vấn tại căn cứ Dix, nói rằng anh ta đã đi chậm trong cuộc hành quân và hơi rơi lại phía sau đại đội, lúc đó do trung đội của Calley dẫn đầu, khi nó tiến vào khu làng. Sau đây là lời anh ta kể về những gì đã sảy ra: “Họ (lính của Calley) nổ súng lung tung trong đó dữ lắm, nhưng không thấ có gì bắn trả. Tôi có mặt ở đó đủ lâu để các đ5nh điều này. Tôi nghĩ họ đang tiến vào làng với hỏa lực mạnh. Tôi đi tới trước và thấy những lính đó đang làm những chuyện kỳ lạ. Thứ nhất: Họ phóng hỏa những căn nhà chòi lá và chờ người trong đó chạy ra và bắn loạn xạ vào họ. Thú nhì: Họ đi thẳng vào các căn nhà và bắn chết người ở trong đó. Thứ ba: Họ gom người thành nhóm rồi bắn chết hết. Khi tôi đi vào, bạn có thể thấy những đống xác người suốt trong ngôi làng… khắp nơi. Họ bị gom thành những nhóm lớn. Tôi thấy lính bắn 1 quả M-79 vào 1 nhóm người vẫn còn sống. Những việc bắn giết hầu như đã hoàn tất với 1 khẩu liên thanh. Họ bắn đàn bà và trẻ em cũng như mọi người khác. Chúng tôi không gặp kháng cự nào và tôi chỉ thấy 3 võ khí bị tịch thu. Chúng tôi không bị tổn thất gì. Nó cũng giống y như các làng VN khác – những ông già, đàn bà và trẻ con. Sự thực tôi không nhớ mình có nhìn thấy 1 người nam giới nào trong độ tuổi cầm súng được ở khắp ngôi làng đó, dù còn sống hay đã chết. Tù nhân duy nhất tôi thấy là 1 người cỡ 50 tuổi”. Một thông cáo của Lục quân tường thuật về cuộc hành quân nói rằng đại đội của Medina tịch thu được 2 súng trường M-1, 1 súng carbine, 1 máy phát làn sóng ngắn và nhiều tài liệu của địch trong cuộc tấn công. Xác VC đếm được là 128 và không có đề cập đến thương vong thường dân. Bernhardt, thấp và đậm người, kể lại câu chuyện theo kiểu cắt vụn của anh ta, với 1 vẻ nhẹ nhõm rõ ràng khi sau cùng cũng nói được nó ra. Được 1 lúc anh ta nói với người phỏng vấn mình: “Ông ngạc nhiên hả? Tôi thì chẳng ngạc nhiên được trước bất cứ việc gì của bọn đó (những người làm việc bắn giết)”. Bernhardt nói anh ta không biết chính xác báo nhiêu dân làng bị bắn chết. Anh ta nói có nghe những kết quả đếm xác thay đổi từ 170 đến 700. Bernhardt cũng nói rằng anh ta không rõ có phải Calley đích thân bắn 109 thường dân hay không, như Lục quân đã cáo buộc. Tuy nhiên anh ta nói: “Tôi biết chắc chắn rằng anh ta đã giết rất nhiều người”. Cư dân trong vùng Pinkville đã nói với phóng viên báo chí rằng 567 dân làng đã bị giết trong cuộc hành quân. Tại sao những người lính đó lên cơn cuồng sát như vậy? “Theo tôi nghĩ” – anh trung sỹ nói – “Cà đại đội đã được huấn luyện để hành động như thế. Cách cư xử thật tệ… Chúng tôi lúc nào cũng hành quân trong rừng. Tôi nghĩ họ hy vọng chúng tôi gặp kháng cự tại Pinkville và cũng dự trù bọn nó (VC) dùng dân chúng làm con tin. Sau khi mọi chuyện đã xong, 1 đại tá nọ đến căn cứ hỏa lực nơi chúng tôi đóng quân và hỏi han về chuyện đó, nhưng tôi không nghe nói gì thêm. Sau đó, họ (Medina và mấy sỹ quan khác) kêu tôi lên bộ chỉ huy và yêu cầu tôi đừng viết thư cho dân biểu ở quê tôi”. (về sau Lục quân đã minh chứng lời buộc tội của Bernhardt. Trong 1 thư riêng đề ngày 6-8-1969, đại tá John G. Hill Jr. 1 phụ tá về quản lý hoạt động tham mưu trong văn phòng của Tham mưu trưởng lục quân William C. Westmoreland đã viết rằng Medina đã thừa nhận rằng ông ta đã yêu cầu Bernhardt đôi cho đến khi lữ đoàn kếtthúc cuộc điều tra về sự cố. Cuộc điều tra không đem lại kết quả nào). Bernhardt nói rằng khoảng 90% của 60 tới 70 lính trong đại đội thiếub quân số này có dính tới việc bắn giết. Anh ta nói anh ta không hề tham gia. “Tôi chỉ bắn vào người nào có bắn tôi. Quân đội ra lệnh cho tôi không được kể chuyện, nhưng có những mệnh lệnh mà tôi phải tự quyết định xem có nên tuân theo hay không; tôi có lương tâm của mình để suy xét. Toàn bộ sự vụ cũng khiến tôi hoang mang là liệu mình còn có thể tin người khác nữa hay không”. Bernhardt nói, ý kiến của anh ta là, chắc hẳn đã có 1 sỹ quan cao cấp ra lệnh tiêu hủy Pinkville. “Carley chỉ là sỹ quan chỉ huy cấp thấp”, anh ta nói. Bernhardt nói những cấp cao của Lục quân hẳn đã biết chuyện xảy ra ở Pinkville. “Họ có những ảnh chụp. Một ai đó đã tháp tùng cuộc hành quân và chụp hình”. Bernhardt nói anh ta được cho xem những bức ảnh đó theo thủ tục quy định bởi Điều luật 32, thủ tục này kết luận rằng lời cáo buộc đối với Calley đã được chứng minh. “Những bức ảnh cho thấy cả một khối người… người chất đống. Tôi không hiểu làm sao ai đó có thể nói chính trọng pháo hay lằn lựu đạn của 2 bên đã giết những người đó được.”. (Tờ Cleveland Plain Dealer hôm nay đã in những bức ảnh chụp những thường dân Nam VN được cho rằng đã bị giết trong sự cố. Tờ báo cũng nói họ nhận được những bức ảnh này từ cựu nhiếp ảnh viên chiến trường của Lục quân, Ronald L. Haeberle, ngụ ở Cleveland. Haeberle nói trong 1 bài báo rằng anh ta tháp tùng đại đội ngay trước khi nó tiến vào ngôi làng và nghe lính nói chuyện rằng làng này bị tình nghi là cảm tình viên của VC. Anh ta nói đã nhìn thấy đàn ông, đàn bà và trẻ em bị giết) Bài báo này là của Joe Eszterhas viết cho tờ Plain Dealer. Haeberle sau đó bán những bức ảnh này cho tờ Life được 19.550 USD và chúng được in trên tạp chí này ngày 5-12-1969. Một nhân chứng khác của vụ bắn giết là Michael Terry, ở Orem, Utah, lúc đó là lính của Trung đội C thuộc đại đội của Medina và hiện là sinh viên năm thứ nhì Đại học Brigham Young. Khi được phỏng vấn tại nhà, Terry nói anh ta cũng đến hiện trường vài phút sau khi việc bắn giết bắt đầu. “Họ đi qua làng và bắn tất cả mọi người”. Có vẻ như chẳng ai nói gì cả… Họ chỉ lôi người ta ra và bắn họ”. Có lúc anh ta nói, hơn 20 dân làng bị xếp hàng trước 1 đường mương và bắn chết. “Họ bắt một nhóm người ra đứng bên đường mương – giống kiểu bọn Đức Quốc xã đã làm… Một sỹ quan ra lệnh cho 1 đứa nhỏ bắn súng máy vào mọi người, nhưng đứa nhỏ không làm vậy được. Nó quăng súng xuống và viên sỹ quan nhặt lên… Tôi không nhớ có nhìn thấy người đàn ông nào dưới mương hay không. Hâu hết là đàn bà và trẻ con”. Sau đó anh ta và toán trung đội dưới quyền đang nghỉ ăn trưa gần đường mương thì, anh ta nhận thấy “có người trong bọn họ còn thở… Họ bị bắn nát người. Họ không thể có trợ giúp cứu thương gì cả, và do đó chúng tôi bắn họ. Bắn có lẽ 5 người trong bọn họ…” Tại sao lại có chuyện đó? “Tôi nghĩ có lẽ các sỹ quan không thực sự hiểu họ có được lệnh giết các dân làng hay không… Rất nhiều lính cảm thấy rằng họ (thường dân VN) không phải con người. Chúng ta chỉ đối xử với họ như những con vật”. Rõ ràng 1 sỹ quan không nằm trong đại đội của Medina đã cố ngăn cuộc bắn giết lại. Terry và Bernhardt đều báo cáo rằng 1phi công trực thăng của 1 đơn vị yểm trợ đã đáp xuống ngay giữa sự cố và cố gắng chặn việc này lại. (Đó là phi công trực thăng quan sát Hugh Thompson Jr. của Tiểu đoàn không vân 123) Viên sỹ quan cảnh báo rằng ông ta sẽ báo cáo vụ bắn giết. Ngày hôm sau, viên phi công bị chết khi thi hành nhiệm vụ và cuộc điều tra sau đó vốn do những viên chức của Lữ đoàn 11 khởi sự đã bị gác lại sau 1 ngày rưỡi không đủ chứng cớ. (Glenn Andreotta, cơ trưởng trên trực thăng của Thompson, chết khi làm nnhiệm vụ ngày 4-8-1968. Thompson báo cáo những gì mình thấy ở Mỹ Lai cho các sỹ quan cấp trên ngày 16-3 và cho đại tá Oran Henderson, tư lệnh Lữ đoàn 11 ngày 18-3. Sau đó ông ta ra làm chứng trước tòa án binh xử Calley cùng với xạ thủ trực thăng Lawrence Colburn. Năm 1998, Thompson, Colburn và Andereotta được Quân đội thưởng huy chương chiến sỹ vì đã cứu mạng ít nhất 10 dân làng ở Mỹ Lai). Terry nói lần đầu tiên anh ta được biết về cuộc điều tra này khi mùa xuân rồi có 1 đại ta từ Ban Tổng Thanh tra quân đội đến phỏng vấn anh ta. Bernhardt không bị phỏng vấn cho đến khi có 1 nhóm từ ban điều tra tội phạm của Lục quân đến gặp anh ta hồi 2 tháng trước. Nhân chứng thứ 3 cho vụ Pinkville không thể xác minh được. Anh ta vẫn còn phục vụ trong Lục quân ở West Coast. Nhưng anh ta khẳng định chi tiết các lời kể của Bernhardt và Terry về ngày đó trong tháng 3-1968. “Tôi lo bắn heo và gà trong khi những lính khác bắn người. Nó không chỉ là cơn ác mộng; tôi hoàn toàn ý thức nó là thực đến thế nào. Đó là điều mà tôi nghĩ không ai có thể hiểu được – thực thế về chuyện đó mãi đến gần đây tôi mới nhới lại, khi tôi đọc được chuyện đó trên báo”. Cả 3 người lính đều được đọc những đoạn trích quan trọng từ 1 lá thư 3 trang viết vào tháng 3 bởi 1 cựu quân nhân, Ronald Ridenhour, gửi Lục quân và 30 viên chức khác, kể cả 1 số nghị sỹ. lá thư phác họa lại sự cố Pinkville theo cách hiểu của anh ta. Chính sự kiên định của Ridenhour đã thúc đẩy Lục quân bắt đầu cuộc điều tra ở cấp cao vào tháng 4. Ridenhour, hiện là sinh viên ở Claremont Men’s College, không nằm trong đại đội của Medina và không tham gia vụ bắn giết. Anh ta dựa trên thông tin từ Terry và Bernhardt, cùng nhiều nguồn khác, để viết lá thư này. Luật sư của Calley từ chối bình luận về những lời cáo buộc mới được nêu ra trong các cuộc phỏng vấn. Nhưng 1 nguồn tin khác, khio bàn đến vị trí của Calley, đã nói: “Cho đến nay chưa ai chỉ rõ được người ta đã khởi sự vụ này”. Nguốn tin này cũng nói rằng anh ta đã hiểu Calley và những sỹ quan khác trong đại đội ban đầu đã chống lại mệnh lệnh nhưng sau cùng cũng phải làm việc của họ. Trung đội của Calley tiến hành tấn công vào làng, cùng những đơn vị khác tạo thành đội hình vòng cung quanh khu vực để ngăn không cho địch quân bỏ chạy. “Tôi không cần biết Calley có sử dụng phán đoán tốt nhất hay không – anh ta bị đối mặt với 1 quyết định gay go”, nguốn tin ấy nói. Cựu quân nhân kể lại việc giết dân thường ở Pinkville St. Louis Post – Dispatch, 23-11-1969. Terre Haut, Indiana, 25-11 – Một cựu quân nhân nhân kể lại trong những cuộc phỏng vấn hôm qua việc anh ta đã hành quyết theo mệnh lệnh, các thường dân Nam VN như thế nào trong cuộc tấn công của quân Mỹ vào làng Sơn Mỹ hồi tháng 3-1968. Anh ta ước lượng rằng anh ta cùng đồng bọn đã bắn vào 370 dân làng trong cuộc hành quân tại khu làng hiện được biết dưới tên Pinkville. Paul Meadlo, 22 tuổi, ở West Terre Haut, Indiana, một cộng đồng nông trại ở gần biên giới bang Illinois, đã kể lại điều mắt thấy tai nghe – lời kể lần đầu tiên được đưa ra tính cho đến nay – về sự cố khi trung đội của trung úy William L. Calley Jr. tiến vào Pinkville trong 1 cuộc hành quân tìm-và-diệt. Lục quân đã xác nhận rằng có ít nhất 100 thường dân đã bị anh này giết chết. Những người Việt sống sót đã nói với các phóng viên rằng tổng số người chết là 567. Meadlo, người bị thương vì mìn sau ngày vụ Pinkville, tiết lộ rằng đại úy đại đội trưởng Ernest Medina, đã có mặt tại khu vực đó khi sảy ra vụ bắn giết và đã không làm gì để ngăn nó lại. Calley, 26 tuổi ở Waynesville, Bắc Carolina, đã bị kết tội sát nhân có suy tính trước đối với 109 thường dân trong vụ này. Medina, với tư cách chỉ huy đơn vị thuộc Lữ đoàn 11 bộ binh, đang bi điều tra về vai trò của ông ta trong vụ bắn giết này. Tuần rồi, Lục quân thông báo rằng có ít nhất 24 người khác cũng đang bị điều tra, trong đó có hạ sỹ quan hành chính của Calley, trung sỹ David Mitchell, 29 tuổi, ở St. Francisville, Louisiana, người đang bị điều tra về tội tấn công với ý đồ sát nhân. (Mitchell ra tòa án binh vì tội tấn công với ý đồ sát nhân và được tha bổng ngày 20-11-1970. Calley bị kết án sát nhân có suy tính trước ngày 29-3-1971 và bị tù chung thân. Ngày 1-4-1971, tổng thống Nixon ra lệnh thả Calley khỏi tù và cho quản thúc tại gia ở Căn cứ Benning, Georgia, trong khi anh ta kháng án. Bản án của Calley được giảm xuống còn 20 năm vào tháng 8-1971 rối xuống còn 10 năm vào tháng 4-1974. Anh ta được thả tự do có giám sát ngày 9-11-1974. 10 người lính khác của Đại đội Charlie bị cáo buộc vì những tội đã phạm ở Mỹ Lai; 1 được tha bổng ngay tại tòa án binh, và các cáo buộc đối với 9 người kia cũng bị bác bỏ. Đại tá Oran Henderson, cựu tư lệnh Lữ đoàn 11, bị ra tòa án binh vì vai trò của ông ta trong việc che giấu vụ thảm sát và được tha bổng ngày 17-12-1091. Những cáo buộc tương tự với 13 sỹ quan khác, trong đó có trung tướng Samuel Koster, cựu tư lệnh Sư đoàn Americal, bị bác bỏ). Sau đây là câu chuyện của Meadlo kể trong buổi phỏng vấn tại nhà mẹ anh ta gần Terre Haut: “Người ta cho rằng có 1 số VC tại Pinkville và chúng tôi bắt đầu tiến hành càn quét qua chỗ đó. Khi tới nơi, chúng tôi bắt đầu tập hợp mọi người lại… khởi sự chia họ thành những nhóm lớn. Đã có khoảng 40 hay 45 thường dân đứng trong 1 vòng tròn lớn ngay giữa làng… Calley bảo tôi và 1 nhóm lính khác canh chừng họ. “Các bạn biết tôi muốn các bạn làm gì mà” – anh ta nói. (Meadlo kể lại. Anh ta và những người lính khác tiếp tục canh chừng nhóm người đó) “Khoảng 10 phút sau Calley trở lại. “Cảnh giác đấy. Tôi muốn họ chết”. “Thế là chúng tôi đứng cách họ độ 4-5 mét, rồi anh ta (Calley) bắt đầu bắn họ. Rồi anh ta bảo tôi bắn họ… Tôi khởi sự bắn, nhưng những người lính khác (những anh được phân công canh gác đám thường dân) không làm chuyện đó. Thế là chúng tôi (Meadlo và Calley) tiếp tục bắn giết bọn họ. Tôi sài hết nhiều hơn 1 băng đạn – sự thực tôi đã sài 4 hay 5 băng. (Có 17 viên M-16 trong 1 băng)”. Anh ta ước lượng mình đã giết ít nhất 15 thường dân hay gần nửa số người trong vòng tròn (Để giảm rủi ro kẹt đạn, lính Mỹ thường chỉ nạp 17 hay 18 viên vào 1 băng có thể chứa 20 viên). Khi được hỏi anh ta đã nghĩ gì lúc đó, Meadlo nói: “Tôi chỉ nghĩ người ta muốn chúng tôi làm thế”. Sau này, anh ta nói rằng việc bắn giết “đã làm nhẹ lương tâm của tôi về những đồng đội đã mất. Đó chỉ là trả thù. Chỉ có vậy”. Đại đội ở trận địa đến 40 ngày mà không được thay thế trước khi vụ Pinkville xảy ra ngày 16-3, và đã mất đi 1 số lính vì mìn. Lòng căm ghét người Việt trong đại đội lên rất cao, Meadlo nói. Cuộc bắn giết tiếp tục. “Chúng tôi cho tập họp khoảng 7 hay 8 thường dân trong 1 căn chòi, và tôi định thảy 1 trái lựu đạn vào đó. Nhưng có người bảo tôi dẫn họ ra bờ mương và bắn chết. Calley đang ở đó và nói với tôi: “Meadlo, mình có 1 việc nữa phải làm”. Thế là chúng tôi đẩy 7 tới 8 người vào chung với số người kia. Và thế là chúng tôi bắt đầu bắn cả bọn. Mitchell, Calley… cũng làm như thế. (đến đây Meadlo không nhớ thêm được tên của bất kỳ người lính nào đã tham gia). Tôi đoán mình đã bắn có lẽ 25 hay 20 người dưới mương” Vai trò của anh ta trong vụ bắn giết cũng chưa hết. “Sau vụ bên đường mương, chỉ còn vào người trong chòi. Tôi biết còn có vài người nữa trong 1 chòi kia, có lẽ 2 hay 3 người, nên tôi chỉ thảy vào đó 1 trái lựu đạn” Meadlo người cao lớn, tóc húi sát, một thợ mỏ ở Indiana. Anh ta kết hôn với người yêu ở ngoại ô Terre Haut, đang nuôi nấng cả gia đình (anh ta có 2 con) thì bị gọi nhập ngũ. Cho đến lúc xảy ra vụ Pinkville anh ta đã ở VN được 4 tháng. Ngày hôm sau, 17-3, trong khi theo Calley trong 1cuộc hành quân, anh ta bị mìn nổ đứt bàn chân. Trong khi Meadlo chờ được di tản, những người lính khác trong đại đội đã báo cáo với rằng anh ta có nói với Calley: “Đây là sự trừng phạt cho những gì anh ta đã làm hôm trước”. Anh ta cảnh báo, thoe những người chứng kiến, Calley cũng sẽ đến ngày bị phán xử thôi. Khi được hỏi về điều này. Meadlo nói anh ta chẳng nhớ được. Meadlo hiện đang làm việc trong 1 xí nghiệp ở Terre Haut, đang cố gắng đòi trợ cấp thương tật toàn phần ở Sở Cựu chiến binh. Việc mất bàn chân phải có vẻ không làm cho anh ta phiền lòng bằng việc bị mất lòng tự trọng. Giống như những người bạn khác trong đại đội, anh ta, trước cuộc phỏng vấn, đã được 1 sỹ quan ở căn cứ Benning, nơi Calley bị quản thúc, đến thăm và khuyên anh ta đừng nói chuyện về vụ này với phóng viên. Nhưng, giống như những bạn khác trong đại đội, anh ta có vẻ rất muốn kể chuyện. “Chuyện này đã làm nó rất bồn chồn”, mẹ anh ta, bà Myrtkle Meaddlo, 57 ruổi, ở New Goshen, Indiana, giải thích. “Làm như nó không thể vượt qua chuyện đó. Tôi đã gửi cho quân đội 1 đứa con tử tế, và họ biến nó thành kẻ sát nhân”. Tại sao anh ta làm thế? “Chúng tôi đều phải tuân lệnh”, Meadlo nói. “Tất cả chúng tôi đều nghĩ mình đang làm chuyện đúng… Lúc đó nó chẳng làm tôi áy náy gì cả”. Đêm đó anh ta bắt đầu hồ nghi dữ dội về điều mình đã làm ở Pinkville. Anh ta nói cho đến bây giờ anh vẫn còn thấy hồ nghi. “Trẻ con và phụ nữ - họ không có bất cứ quyền nào phải chết. Ban đầu tôi chỉ nghĩ mình sẽ giết VC”. Anh ta, giống như các bạn trong đại đội đêm hôm trước, lúc đó đại đội trưởng Medina đã hứa hẹn sẽ có 1 cuộc chạm súng ra trò. Calley và trung đội của anh ta được phân công giữ vai trò chủ chốt trong việc tiến vào Pinkville trước hết. “Khi đến nơi chúng tôi nghĩ mình sẽ bị bắn”, Meadlo nói, tuy rằng đại đội không bị tổn thất gì. “Chúng tôi từ ngoài đồng trống đi vào làng, và có ai đó nhìn thấy 1 người ngoài kia. Anh ta hụp xuống 1 chỗ núp, sợ hãi co rúm lại… Có ai đó nói: “Có 1 tên vàng ngoài kia”, và hỏi phải làm gì đây. Mitchell nói: “Bắn nó đi”, và người đó bắn. Người nông dân đứng dậy, run rẩy và vung 2 tay khi anh ta trúng đạn. “Rồi chúng tôi đến căn nhà này, nó có 1 cái cửa không mở ra được”. Meadlo nói anh ta đã tông cửa vào và “thấy 1 ông già trong đó đang run rẩy. Tôi bảo với đồng đội, “Tao vớ được 1”, và chính Mitchell bảo tôi bắn lão đi. Đó là người đầu tiên tôi bắn. Ông ta đang trốn trong 1 cái hầm, lắc đầu và quơ tay lia lịa, cố gắng xin tôi đừng bắn ông ta”. Sau cuộc tàn sát, Meadlo nói: “Tôi nghe nói điều chúng tôi cần làm chỉ là giết VC. Mitchell nói việc của chúng tôi chỉ là bắn đàn ông”. Đàn bà và trẻ em cũng bị bắn. Meadlo ước lượng có ít nhất 310 người bị lính Mỹ bắn chết ngày hôm đó. “Tôi biết nó cao hơn nhiều so với con số 100 mà Lục quân Mỹ đưa ra. Tôi hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Xác người khắp nơi mà”. Anh ta có 1 số ký ức đầy ám ảnh, anh ta nói: “Họ không hề chống cự hay làm gì cả. Các phụ nữ rúm lại bên con cái và lãnh đạn. Họ ôm chặt con vào lòng, hay lấy thân mình che cho con mong cứu được chúng. Làm vậy chũng chẳng được gì”. Có 2 điều kiện khiến anh ta bối rối. Anh tranh cãi quyết liệt về tiếng trọng pháo lặp lại trước khi họ tiến vào làng. “Không có tiếng đại bác nào trong làng cả. Chỉ có vài trực thăng bắn từ trên xuống”. Hôm thứ Bảy, chính phủ Nam VN nói rằng có 20 thường dân bị giết trong vụ tấn công Sơn Mỹ, hầu hết nạn nhân của không kích hoặc trọng pháo trước khi binh lính Mỹ tiến vào. Chính phủ bác bỏ những báo cáo về 1 cuộc thảm sát. Meadlo thắc mắc về vai trò của đại úy Medina trong vụ này. “Tôi không biết liệu đại đội trưởng có ra lệnh giết hay không, nhưng ông ta có mặt ở đó khi mọi chuyện xảy ra. Tại sao ông ta không chặn nó lại? Ông ta và Calley sáng hôm đó chạm mặt nhau nhiều lần nhưng chẳng nói gì cả. Medina cứ đi tới đi lui, ông ta chắc chắn có thể dừng nó lại bất cứ lúc nào ông ta muốn”. Toàn bộ cuộc hành quân chỉ có dài khoảng 30 phút, Meadlo nói. Còn về Calley, Meadlo nói về một sự cố vài tuần trước vụ Pinkville. “Chúng tôi thấy 1 phụ nữ băng qua ruộng lúa và Calley nói: “Bắn nó đi”, và chúng tôi bắn. Khi ra đến đó, chúng tôi thấy cô ta còn sống, bị trúng đạn bên sườn. Calley cố ra lệnh cho người khác bắn cô ấy. Tôi không biết anh ta có bắn không”. Ngoài gì, Medina và Calley đã nói với binh lính trước vụ Pinkville, Meadlo nói rằng “nếu chúng ta có bắn thường dân nào, chúng ta phải tiến tới và cài 1 trái lựu đạn vào tay họ”. Meadlo không dám chắc, nhưng anh ta nghĩ cảm giác về cái chết đến với đại đội rất nhanh ngay khi đến với Việt nam… [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Những phóng sự về chiến tranh Việt Nam
Top