Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Những phóng sự về chiến tranh Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="vodanhtran03" data-source="post: 70295" data-attributes="member: 54609"><p>Leo thang của Mỹ: Tháng 9-1965 Không kích tại Việt Nam: Tường thuật về một cuộc chiến không nhân diện Bernard B.Fall The New Republic, 9-10-1965 “Họ đã tạo ra một hoang mạc, và gọi đó là hoà bình”-Tacitus, sử gia Hy Lạp thế kỷ 1 sau CN. Vào một giai đoạn tương đối bình yên trong nhiệm kỳ đại sứ đầy sóng gió tại Việt Nam, Đại tướng Maxwell D.Taylor đã phát triển một luận điểm cho rằng không chỉ có một mà có tới 44 cuộc chiến tại Việt Nam: mỗi tỉnh của xứ này có một cuộc chiến. Đó là một kiểu quan hệ đại chúng hay, và nó tồn tại qua ít nhất một hay hai chương trình TV ở Mỹ trước khi biến mất. Nhưng sự thục vẫn là, chúng ta đang đánh nhiều kiểu chiến tranh tại Việt Nam, thường là tại cùng một chỗ-từ những phi vụ của Tiến sĩ Strangelove với những chiếc B-52 được thiết kế để mang bom H, cho đến những cây chông tẩm phân người do VC cắm trên đường đi với hi vọng sẽ xuyên thủng giày đinh của lính Mỹ và gây ra một vết thương làm độc. (Tác giả muốn nói tới phim Dr.Strangelove; or, How I Learned to Stop Worrying and Love the Bomb năm 1963, với nhiều cảnh xảy ra trên một máy bay B-52). Nhưng không có tới 44 cuộc chiến ở Việt Nam và cũng chưa bao giờ có. Có những khu vực rộng lớn, ở đó có những cuộc chiến đồng ruộng và sình lầy; những khu vực khác cuộc chiến chủ yếu là chạy đuổi trên sườn núi, như ta thấy ở dãy Rocky trong những cuộc chiến giữa Anh với Pháp ở thuộc địa Mỹ; và, sau cùng, có một ít khu vực nữa nơi người ta tiến hành kiểu chiến tranh rừng già, (tương tự như cảnh trong những phim mô tả việc Mỹ đánh chiếm từng hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương của Nhật trong Thế chiến 2). Tất cả những chuyện này đã được báo chí Mỹ tường thuật nhiều, nhất là từ khi nó dính líu đến binh lính Mỹ và do đó cho phép trích dẫn (với tên giả, tuổi tác, quê quán) càng nhiều nhân vật trong điều kiện cho phép càng tốt. Dĩ nhiên cũng có cả những người Việt. Người việt được chia làm hai loại: Việt Cộng (hay còn gọi là VC, Victor Charlie, Charlie, hay “bọn Cộng”), và người Việt “phe ta”, loại này lính Mỹ không có biệt danh, ngoại trừ có lúc gọi là “đồng minh” hay “phe bạn”; cả hai cách gọi này thường kèm theo tiếng cười. Là con người, nhưng cả hai loại người Việt ấy có vẻ chẳng còn quan trọng gì cả. VC thì chưa bao giờ thấy tận mặt anh ta tồn tại bí mật trong rừng sâu và hang động, không có phù hiệu đơn vị ngay anh ta mặc quân phục, không đeo thẻ bài để nhận diện, xoay xở chôn giấu võ khí trước khi bị phát hiện xác trên trận địa; và đẩy mạnh sự bất hợp tác với chúng ta đến mức anh ta liên tục thay đổi sô hiệu đơn vị-trái ngược với những quân đội bình thường khác, kể cả quân Bắc Việt trong thời chiến đấu chống Pháp. Điều này làm rối tung mọi ước lượng tb, các báo cáo triển khai đội hình và những đánh giá về ý đồ đối phương. Sư đoàn 325 miền Bắc “thoắt biến thoắt hiện” có lẽ là thí dụ điển hình cho những chiến thuật nguỵ trang này. Như bất cứ ai cũng biết, chỉ có vài bộ phận nhỏ của lực lượng 10 tiểu đoàn ấy có lẽ là có ở “trong khu”, theo kiểu người ta nói ở Sài Gòn. Từ thời điểm tôi lên đường vài ngày trước, không sĩ quan tình báo nào dám chắc chắn rằng 325 là một đơn vị đã tham gia chiến sự tại miền Nam. Trái với nguyên tắc thông thường vốn cho rằng hiểu rõ đối phương là bước đầu cho việc đánh bại đối phương, VC, đối với phần lớn người Mỹ (kể cả những người đã đụng trận với VC) vẫn là kẻ thù không tên tuổi và mặt mũi. Ở Việt Nam, không có tấm bích chương “Lệnh truy nã” nào treo phần thưởng cho việc bắt giữ một thủ lãnh Cộng sản. Nhưng lại có những bích chương kiểu đó-tuy bây giờ đã cũ nát nhưng còn đỗc-treo giải thưởng cho việc bắt giữ những kẻ thất bại trong các vụ đảo chánh quân sự ở Sài Gòn. Tính chất không nhận diện này (hay phi nhận diện) của kẻ thù chỉ phản ánh việc cuộc chiến này được tiến hành ra sao. Khi người ta hi vọng đập tan được sự chống đối bằng cách sử dụng tối đa hoả lực từ xa, dù là từ máy bay, pháo binh hay pháo hạm, thì họ trở nên hoàn toàn không quan tâm tới việc biết rõ những lãnh đạo của “Mặt trận giải phóng” là những ai, hoặc chuyện chỉ huy một đơn vị VC nào đó là người địa phương hay là một cán bộ từ Bắc Việt vào… Tương tự, những người Việt “phe bạn” cũng trở nên không quan trọng. Những gì xảy ra, hoặc ai đang nắm quyền, ở Sài Gò, cũng trở nên chẳng đáng quan tâm. Nhờ sự cam kết của Mỹ có quy mô lớn và toàn diện, nên Mỹ có thể làm bất cứ gì mà không cần sự đồng ý và cộng tác của người Việt. Vài tháng trước, nếu muốn quân đội VNCH tiến hành một chiến dịch, các cố vấn Mỹ phải nài nỉ những chỉ huy địa phương vốn rất miễn cưỡng. Còn bây giờ, nếu cần, cả một cuộc hành quân có thể tiến hành từ đầu tới cuối mà không dính dáng tới một người Việt Nam. Cuộc hành quân Chu Lai là tiêu biểu cho loại này: chính người Mỹ lên kế hoạch và tiến hành, và kế hoạch được giữ kín không cho người Việt biết để phòng ngừa nạn “rò rỉ“ tin tức rất thưường gặp ở chính quyền Sài Gòn. Sức mạnh Mỹ cũng đã đủ lớn để ngăn chạn hầu như bất kỳ thiệt hại quân sự nào… Ngày nay ở Việt Nam, thứ gì cũng có sẵn rất nhiều đến nỗi mọi sai lầm về quân sự, cho dù ngu xuẩn đến mức nào, đều có thể cứu vãn được. Trong trận đánh An Khê gần đây, sư đoàn 101 không vận bị thả lầm xuống một điểm tập kết của VC. Đơn vị bị thả lầm đã được tăng cường bằng những đơn vị trực thăng khi đối phương không giữ nổi vị trí và phải rút lui. (Trận đánh ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1965 giữa 224 lính nhảy dù thuộc Sư đoàn 101 không vận và khoảng 600 quân chính quy Bắc Việt. Hơn 200 VC và 13 lính Mỹ đã thiệt mạng). Trong bối cảnh tàn sát đó, những lời chỉ dạy, những chiến thuật ưu việt, sự ủng hộ của dân chúng dành cho VC, và ở phía bên kia, sự thiếu vắng động cơ chiến đấu của quân đội VNCH và sự kém cỏi của nhiều sĩ quan, và ngay cả tình trạng hỗn loạn ở Sài Gòn, cũng hoàn toàn không quan trọng. Nếu sáng mai chú Chuột Mickey có trở thành thủ tướng Nam Việt Nam thì chuyện đó cũng chẳng mấy ảnh hưởng đến binh lính trong Lực lượng đặc nhiệm Alfa của Lục quân Mỹ (thực tế đây là một quân đoàn Lục quân Mỹ nhưng không mang tên gọi chính thức như thế) hay khả năng chiến đấu của Sư đoàn 3 TQLC Mỹ. (Lực lượng đặc nhiệm Alfa-Task Force Alfa, bộ chỉ huy cấp quân đoàn được thiết lập ở Nha Trang tháng 8-1965 để kiểm soát các chiến dịch quân sự Mỹ tại Tây Nguyên. Nó được đặt tên là I Field Force Vietnam-Lực lượng dã chiến I tại Việt Nam-tháng 3-1966). Người ta đã nói nhiều về chuyện sử dụng B-52 trong một chiến dịch bình định hoặc chiến dịch đàn áp chiến tranh cách mạng, nếu muốn gọi tên cho đúng. Joseph Alsop, vốn luôn sẵn sàng tin tưởng không cần xét đoán vào mọi thông tin chính thức về Việt Nam, gần đây lại khẳng định với chúng ta trong một bài báo rằng B-52 rất cần thiết trong việc phá huỷ những cơ sở “được xây dựng rất sâu dưới lòng đất” của VC, nhờ thế làm biến mất mấy cái lô cốt nửa chìm nửa nổi và được che chắn bằng bao cát và hàng rào tre trông cứ như Phòng tuyến Siegrfied (Hệ thống pháo đài, công sự bêtông cốt thép dọc biên giới phía tây nước Đức trong Thế chiến 2). Những lời lẽ của ông ta vừa mới in trên báo thì không quân Mỹ đã phản thùng Alsop bằng cách làm ba cuộc không kích ở ĐBSCL, kế đó là vài cuộc nữa ở duyên hải miền Trung. Vd là ĐBSL rất bằng phẳng, và mực nước ngầm rất cao đến nỗi người ta không thể đào một cái hố nào mà nước không trào lên. Rõ ràng người ta không thể xây dựng những vị trí ngầm ở đó. Và như các bản đồ chính thức về mật độ dân cư tại Việt Namcho thấy, đồng bằng này (với ngoại lệ cho khoảng một trên 30 quận) có mật độ dân cư trung bình là 100 người trên một cây số vuông, và nhiều quận còn đạt tới mật độ khó tưởng tượng là 400 người trên một cây số vuông! Với một lượng bom là 500 tấn cho một cuộc không kích gồm 30 máy bay, và kiểu rải bom một trái cho khoảng hai cây số vuông trong những cuộc không kích như vậy, thì ảnh hưởng của nó tới một khu vực đông dân như thế nào thật dễ suy đoán ra. Điểm đáng nói là sự kiện này cũng trở nên không quan trọng bởi vì nó giả định rằng sự thù ghét hay tình yêu dành cho Sài Gòn hoặc thói quen chấp nhận số phận của dân chúng Việt Namlà quan trọng. Theo qua điểm của nhiều chính khách thực dụng ở Sài Gòn và Washington thì điều này không còn đúng nữa. Ngay cả quan điểm quân sự kiểu cũ vốn cho rằng phải đạt được hoặc phá huỷ một mục tiêu trước khi chiến dịch có thể đạt thắng lợi cũng không còn đứng vững. Những cuộc không kích B-52 (hoặc không kích “vùng sâu” bằng máy bay nhỏ hơn), không cần biết nó đánh trúng một cơ sở VC hay một làng hoàn toàn vô tội hoặc một làng theo Chính phủ, đã buộc VC phải di chuyển cả ngày lẫn đêm để tránh bị trúng bom. Đã qua rồi thời của những bệnh viện lớn và thoải mái trong rừng, những trạm nghỉ chân cho VC với thức ăn nóng, quần áo sạch và một chỗ tắm ngon lành; những kho đạn dược lớn và nhà máy sửa chữa võ khí với máy phát điện chạy rù rù binh yên. Oanh tạc cơ hạng nặng đã thay đổi tất cả. VC bị truy lùng như con thú. Những lính bị thương phải chết mà không được cứu chữa. Một đơn vị chiến đấu của VC trở về sau một cuộc hành quân chỉ để thấy khu vực đóng trại của mình đã bị phá huỷ và các kho lương thực và đạn dược đã tan hoang. Nhiều nhà quan sát am tường tại Sài Gòn cho rằng, điều làm thay đổi tính chất của chiến tranh Việt Nam không phải quyết định ném bom miền Bắc, không phải quyết định sử dụng lực lượng trên bộ của Mỹ tại Nam Việt Nam; mà chính là quyết định tiến hành không kích vô giời hạn tại miền Nam với cái giá gần như đập tan tành xứ này thành từng mảnh. Có hàng trăm bài báo với bằng chứng vụ thể cho thấy rằng việc ném bom không thương tiếc này đã xâm hại hàng ngàn người vô tội và một trong những lý do khiến trong nhiều trường hợp ta chẳng thu được võ khí gì là do những đống xác chết tại trận địa lại gồm rất nhiều dân làng đã không kịp bỏ chạy khỏi trận địa. Và nhà quan sát nào tại Việt Nam cũng đều có lần gặp gỡ một vài sĩ quan Mỹ đã lớn tiếng văng tục mỗi khi họ nghe tiếng máy bay phản lực bay qua trên đầu, bởi vì điều đó có nghĩa là thêm một mục tiêu không nhìn thấy đã bị ném bom-những chiếc F-105 bay quá nhanh không thấy được bom ném vào đâu và phải nhờ sự hướng dẫn của một máy bay không kiểm. Điều tương tự cũng xảy ra với sự phung phí đạn trọng pháo tới mức không tin được. Một cố vấn Mỹ ở cấp tỉnh nói với tôi, “Tại khi vực của tôi, tháng rồi đã bắn đi số đạn đại bác trị giá khoảng nửa triệu đôla vào những mục tiêu không hề nhìn thấy. Tuy nhiên toàn ngân sách của tỉnh dành dụm cho thu thập tin tình báo thì chỉ có 300 đôla”. Cá nhân tôi biết một bệnh viện ở khu mới định cư, thấy nói là có VC. Khi viên chức ở khu này báo tin về, phản ứng tức thời không phải là đem quân truy kích VC-vốn là chuyện nhiều rủi ro và mệt mỏi-mà là đề nghị pháo binh dập vào khu mới định cư ấy. “Tôi phả sùi bọt mép mới thuyết phục được họ đừng làm chuyện ấy”, sau đó viên chức địa phương kể lại. “Dù sao thì ở đó cũng có cỡ 9.000 nhân công với 22.000 phụ nữ và trẻ em”. Một lần nữa, việc nghiên cứu các chiến dịch lại cứu vãn cho người Mỹ. Cho đến nay, những cuộc thẩm vấn có vẻ như cho thấy rằng không hề có sự liên hệ thù nghịch tích cực nào giữa sự tàn phá gây ra cho nông thôn một bên, và Mỹ hoặc chính phủ Sài Gòn một bên. Theo cách nói của một chuyên gia, những cuộc không kích xuống xóm làng “dĩ nhiên là gây ra đau khổ, đương nhiên là về phía dân làng, (nhưng) không hề khiến họ tự động trở thành VC. Thực tế chúng tôi chưa hề gặp một ai trở thành VC vì lý do này”. Nhưng có lẽ câu trả lời phải được hiểu là, “… chưa hề gặp một ai từng thừa nhận mình trở thành VC chỉ vì lý do này”. Cho dù là thế, và dữ liệu lại hướng về điều ngược lại, một phái bộ cao cấp được cử sang Việt Nam mấy ngày trước để điều tra về những ảnh hưởng của hoả lực quá độ đối với người Việt Nam này có lẽ gây chia rẽ giữa các binh chủng. … Với tôi, vấn đề đạo đức thực sự nẩy sinh tại Việt Nam là việc tra tấn và hành động thô bạo không cần thiết đối với cả quân nhân lẫn thường dân. Vấn đề này ở Mỹ đã bị tránh né, hoặc tệ hơn, nó bị gạt bỏ vì cho là không phải là một vấn đề của Mỹ. Khi phóng viên quay được đoạn phim nổi tiếng ghi cảnh TQLC Mỹ đốt những căn nhà lá bằng hộp quẹt của mình, phản ứng trong giới quan chức Sài Gòn thì thất vọng vì chuyện đã xảy ra thì ít mà giận dữ thì với với đám phóng viên đã tường thuật chuyện đó thì nhiều (Ngày 3-8-1965, một nhóm săn tin của hãng truyền hình CBS do phóng viên Morley Safer dẫn đầu đã quay được cảnh các lính TQLC Mỹ dùng hộp quẹt để đốt những căn nhà lá ở Cam Ne. Đoạn phim được phát trên đài CBS ngày 5 tháng 8 ). Và rồi việc Bộ trưởng Hải quân cố giải thích sự vụ bằng cách gán cho ngôi làng ấy là “cơ sở do VC xây dựng" thì cũng khó vực dậy được vị thế đạo đức của cả cuộc hành quân. Tuy nhiên, kể từ đó, những lời kết án sự tàn bạo không cần thiết lại xuất phát từ Việt Nam. Ngày 11-9-1965, tờ Sài Gòn Daily News vốn chuyên dành cho cộng đồng người ngoại quốc nói tiếng Anh tại Việt Nam, đã đưa lên trang nhất ảnh chụp những lính Mỹ với súng ống trên tay đứng bên một đống mà chú thích ảnh ghi là “xác VC”-tất cả đều nằm úo mặt xuống đất, với hai tay bị trói ra sau lưng. Nếu, thử đặt ngược lại vấn đề, những người chết kia không phải là VC, mà là những dân làng bị VC bắn chết chẳng hạn, tôi sẽ rất sung sướng nếu có bạn bè nào ở Sài Gòn hiệu chỉnh lại hồ sơ, hay Lầu Năm Góc công bố một lời phủ nhận sự kiện cách chi tiết và một giải thích đáng tin về chuyện đã xảy ra. Bởi vì vấn đề những cách thức tiến hành chiến tranh như thế sau cùng gây ra cái gì, cho những người tiến hành hoặc những người phải chịu đựng những cách thức đó tại nơi họ đang sinh sống, thì chính thức người Mỹ mới là kẻ phải đối mặt, giống như vấn đề tra tấn ở Algeria thì chính người Pháp phải đối mặt (chuyện xảy ra trong cuộc chiến giành độc lập của Algeria 1954-62): không chỉ riêng chính phủ mà mọi công dân, mọi nhà giáo và mọi tu sĩ Pháp cho đến tận Hồng y giáo chủ xứ Gaul. Ngay cả quân đội Pháp cũng chia rẽ nhau quyết liệt vì vấn đề này, với một số sĩ quan tình báo (giống như một số đồng nghiệp Mỹ ở Việt Nam hiện nay) chống đối việc tra tấn dựa trên thực tiễn rằng việc đó sẽ đẩy đối phương vào quan điểm “nhất định không đầu hàng”, trong khi một số khác ít hơn phản đối chỉ vì lý do thuần tuý đạo đức. Trường hợp điển hình nhất là chuyện Thiếu tướng De la Bollardière, một cựu binh nhiều huân chương công trạng, người đã từ bỏ chức vụ chỉ huy ở Algeria bởi vì, theo cách nói của chính ông ta, ông ta là một lính nhảy dù chứ không phải chuyên viên tra tấn của Gestapo. Làn sóng phản đối ở Pháp đã buộc chính phủ Paris phải chỉ định một Uỷ ban bảo vệ để điều tra chuyện này; và các tác phẩm của những người sống sót sau những màn tra tấn ấy, như Djamila Boupacha hay Henri Alleg đã được cả thế giới biết đến. Trước khi tháp tùng một phi vụ ném bom napalm tại Việt Nam trên một chiếc Skyraider của Không quân Mỹ, tôi đã được tường trình đầy đủ về các cách thức “tránh né và thoát hiểm”. Tôi nhận thấy rằng trong bộ dụng cụ “né tránh và thoát hiểm” này có một tấm thẻ in lại Công ước Geneva 1929, nói cho các phi công Mỹ về các nghĩa vụ của phe địch đối với họ. Nước Mỹ hoàn toàn có thể cung cấp cho mọi lính Mỹ tại Việt Nam (chứ không chỉ phi công) một bản tóm lược các nghĩa vụ của họ đối với thường dân vô tội theo các bộ luật và hiệp định hiện hành cũng nưh đối với các chiến binh đối phương. Khi làm việc đó, ta có thể in thêm nửa triệu bản tiếng Việt để lính Nam Việt Nam có thể đọc lúc rảnh rỗi. Có một yếu tố trung tâm trong tình hình Việt Nam mà nó đã trở nên hiển nhiên tại trận địa, tuy rằng nó không được thừa nhận tại các cơ quan tại Mỹ, và cả ở Hà Nội và Bắc Kinh trong một chừng mực nào đó: sự tràn ngập nhân lực và hoả lực Mỹ, và việc sử dụng hoả lực bừa bãi, đã khiến cuộc chiến Nam Việt Nam, trong ngắn hạn, trở nên “không thể thua được” về mặt quân sự. Những chữ in nghiêng này rất quan trọng-và tôi chắc chắn rằng, như trên tờ Newseek ngày 27 tháng 9, tôi sẽ bị trích dẫn sai do sự lược bở của họ-nhưng luận điểm cốt lõi thì vẫn đúng. Đầu mùa xuân rồi, về mặt quân sự VC hoàn toàn có thể, bằng một loạt những cuộc tấn công tiền phương mạnh mẽ, tiêu diệt một hoặc hai sư đoàn Nam Việt Nam, khiến hàng ngàn binh lính Nam Việt Nam mất tinh thần phải đào ngũ, và đặt Mỹ trước một sự đã rồi của một Nam Việt Nam chống Cộng không tồn tại. Những giai đoạn suy thoái cùng cực tương tự đã từng có trong những cuộc chiến chống nổi dậy kiểu này: tại Algeria và đảo Cyprus, ở Aden và Madagascar, ở Palestine và Angola. Sức mạnh của phe nổi dậy thường bị đánh giá thấp lúc ban đầu. Cuộc nổi dậy lúc đầu thường được phó mặc cho cảnh sát hoặc lực lượng an ninh địa phương vốn hoàn toàn không có khả năng đối phó, và mọi chuyện ngày càng tồi tệ hơn cho đến khi Binh đoàn Hoàng gia Anh, hay Binh đoàn nhảy dù Pháp có mặt trọn vẹn tại hiện trường và lập tức được yểm trợ bằng những máy bay phản lực gầm rú trên đầu. Chuyện người Anh bị Mahdi người Sudan đánh bại ở Khartoum (Madi là danh hiệu của các nhà tiên tri Hồi giáo. Madhi được nhắc tới ở đây là Mohammed Ahmed ở xứ Dongola, người đã vây hãm Khartoum năm 1885, giết chết tướng Charles Gordon và binh lính đồn trú ở đó) hay bị người Boer của Paulus Kruger đánh bại ở Mafeking không ngăn được họ lần mò tới chiến thắng (người Boer là hậu duệ của người Hà Lan định cư ở Nam Phi và bị Anh cai trị. Cuộc chiến chống Anh của họ kéo dài từ 1881 đến 1902). Trong những trận Hoà Bình và Cao Bằng ở Bắc Việt (Trong trận Hoà Bình, nổ ra từ 14-11-1951, cả Pháp lẫn Việt Minh đều thiệt hại nặng trước khi Pháp rút lui ngày 24-2-1952. Quân Pháp đồn trú ở Cao Bằng phải rút lui khỏi đồn này và bị tiêu diệt tháng 10-1950), người Pháp thiệt mất nhiều quân hơn trận Điện Biên Phủ hai năm sau đó, nhưng vẫn cứ tiếp tục chiến đấu. Cái đã tan vỡ ở Điện Biên Phủ là ý chí kháng cự-chứ không phải là khả năng-của Pháp. Nỗ lực của Mỹ tại Việt Nam với quy mô cực lớn đã khiến mọi so sánh đều trở nên vô ích. Ví dụ nổi bật nhất diễn là cuộc chiến trên không. Trước Điện Biên Phủ, Không quân Pháp chỉ có 112 chiến đấu cơ và 68 oanh tạc cơ cho toàn Đông Dương (tức là Lào, Campuchia, Bắc và Nam Việt Nam). Tính đến 24-9-1965, Mỹ đã dùng 167 oanh tạc cơ đánh vào các mục tiêu ở Bắc Việt, thả 235 tấn bom và đồng thời có 317 phi vụ oanh tạc cơ tại Nam Việt Nam, thả xuống 270 tấn bom. Ngoài ra, một số B-52 còn dập vào một cứ điểm của VC ở bắc Sài Gòn thường được gọi là khu “tam giác sắt”. Chỉ trong ngày đó, thậm chí không kể những cuộc không kích bằng B-52, Mỹ cũng đã thả một lượng bom nhiều hơn số bom mà không quân Pháp đã thả trong suốt 56 ngày đêm của trận Điện Biên Phủ. Sự tin tưởng vào ưu thế hoàn toàn về võ khí trang bị hiện đại đã lan khắp guồng máy chính quyền có liên quan đến Việt Nam. Toàn bộ vấn đề, theo một nghĩa nào đó đã trở nên hoàn toàn kiểm soát được, sự tăng cường hiện nay có thể bỏ qua những chương trình cấp bách và những vụ vận chuyển binh lính khẩn cấp. Tại Việt Nam, những hợp đồng thuê mướn và xây dựng đã được ký kết cho một thời hạn ba năm. Từ một tình thế đầy những bất trắc, Việt Nam đã đi vào một tình thế hoàn toàn có thể kiểm soát được với những khó khăn rõ ràng có thể lượng hoá. Người ta cần một số biết trước những cuộc không kích B-52 để giải quyết cứ điểm của VC tại Chiến khu D (ở phía bắc Biên Hoà); cần một lượng biết trước những chuyến bay phun thuốc khai quang để huỷ diệt những rừng cao Bến Cát; cần khoảng 300.000 tấn gạp nhập khẩu (quãng năm 1939 Nam Việt Nam thường xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo) để ngăn nạn đói ở xứ này trong năm nay.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="vodanhtran03, post: 70295, member: 54609"] Leo thang của Mỹ: Tháng 9-1965 Không kích tại Việt Nam: Tường thuật về một cuộc chiến không nhân diện Bernard B.Fall The New Republic, 9-10-1965 “Họ đã tạo ra một hoang mạc, và gọi đó là hoà bình”-Tacitus, sử gia Hy Lạp thế kỷ 1 sau CN. Vào một giai đoạn tương đối bình yên trong nhiệm kỳ đại sứ đầy sóng gió tại Việt Nam, Đại tướng Maxwell D.Taylor đã phát triển một luận điểm cho rằng không chỉ có một mà có tới 44 cuộc chiến tại Việt Nam: mỗi tỉnh của xứ này có một cuộc chiến. Đó là một kiểu quan hệ đại chúng hay, và nó tồn tại qua ít nhất một hay hai chương trình TV ở Mỹ trước khi biến mất. Nhưng sự thục vẫn là, chúng ta đang đánh nhiều kiểu chiến tranh tại Việt Nam, thường là tại cùng một chỗ-từ những phi vụ của Tiến sĩ Strangelove với những chiếc B-52 được thiết kế để mang bom H, cho đến những cây chông tẩm phân người do VC cắm trên đường đi với hi vọng sẽ xuyên thủng giày đinh của lính Mỹ và gây ra một vết thương làm độc. (Tác giả muốn nói tới phim Dr.Strangelove; or, How I Learned to Stop Worrying and Love the Bomb năm 1963, với nhiều cảnh xảy ra trên một máy bay B-52). Nhưng không có tới 44 cuộc chiến ở Việt Nam và cũng chưa bao giờ có. Có những khu vực rộng lớn, ở đó có những cuộc chiến đồng ruộng và sình lầy; những khu vực khác cuộc chiến chủ yếu là chạy đuổi trên sườn núi, như ta thấy ở dãy Rocky trong những cuộc chiến giữa Anh với Pháp ở thuộc địa Mỹ; và, sau cùng, có một ít khu vực nữa nơi người ta tiến hành kiểu chiến tranh rừng già, (tương tự như cảnh trong những phim mô tả việc Mỹ đánh chiếm từng hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương của Nhật trong Thế chiến 2). Tất cả những chuyện này đã được báo chí Mỹ tường thuật nhiều, nhất là từ khi nó dính líu đến binh lính Mỹ và do đó cho phép trích dẫn (với tên giả, tuổi tác, quê quán) càng nhiều nhân vật trong điều kiện cho phép càng tốt. Dĩ nhiên cũng có cả những người Việt. Người việt được chia làm hai loại: Việt Cộng (hay còn gọi là VC, Victor Charlie, Charlie, hay “bọn Cộng”), và người Việt “phe ta”, loại này lính Mỹ không có biệt danh, ngoại trừ có lúc gọi là “đồng minh” hay “phe bạn”; cả hai cách gọi này thường kèm theo tiếng cười. Là con người, nhưng cả hai loại người Việt ấy có vẻ chẳng còn quan trọng gì cả. VC thì chưa bao giờ thấy tận mặt anh ta tồn tại bí mật trong rừng sâu và hang động, không có phù hiệu đơn vị ngay anh ta mặc quân phục, không đeo thẻ bài để nhận diện, xoay xở chôn giấu võ khí trước khi bị phát hiện xác trên trận địa; và đẩy mạnh sự bất hợp tác với chúng ta đến mức anh ta liên tục thay đổi sô hiệu đơn vị-trái ngược với những quân đội bình thường khác, kể cả quân Bắc Việt trong thời chiến đấu chống Pháp. Điều này làm rối tung mọi ước lượng tb, các báo cáo triển khai đội hình và những đánh giá về ý đồ đối phương. Sư đoàn 325 miền Bắc “thoắt biến thoắt hiện” có lẽ là thí dụ điển hình cho những chiến thuật nguỵ trang này. Như bất cứ ai cũng biết, chỉ có vài bộ phận nhỏ của lực lượng 10 tiểu đoàn ấy có lẽ là có ở “trong khu”, theo kiểu người ta nói ở Sài Gòn. Từ thời điểm tôi lên đường vài ngày trước, không sĩ quan tình báo nào dám chắc chắn rằng 325 là một đơn vị đã tham gia chiến sự tại miền Nam. Trái với nguyên tắc thông thường vốn cho rằng hiểu rõ đối phương là bước đầu cho việc đánh bại đối phương, VC, đối với phần lớn người Mỹ (kể cả những người đã đụng trận với VC) vẫn là kẻ thù không tên tuổi và mặt mũi. Ở Việt Nam, không có tấm bích chương “Lệnh truy nã” nào treo phần thưởng cho việc bắt giữ một thủ lãnh Cộng sản. Nhưng lại có những bích chương kiểu đó-tuy bây giờ đã cũ nát nhưng còn đỗc-treo giải thưởng cho việc bắt giữ những kẻ thất bại trong các vụ đảo chánh quân sự ở Sài Gòn. Tính chất không nhận diện này (hay phi nhận diện) của kẻ thù chỉ phản ánh việc cuộc chiến này được tiến hành ra sao. Khi người ta hi vọng đập tan được sự chống đối bằng cách sử dụng tối đa hoả lực từ xa, dù là từ máy bay, pháo binh hay pháo hạm, thì họ trở nên hoàn toàn không quan tâm tới việc biết rõ những lãnh đạo của “Mặt trận giải phóng” là những ai, hoặc chuyện chỉ huy một đơn vị VC nào đó là người địa phương hay là một cán bộ từ Bắc Việt vào… Tương tự, những người Việt “phe bạn” cũng trở nên không quan trọng. Những gì xảy ra, hoặc ai đang nắm quyền, ở Sài Gò, cũng trở nên chẳng đáng quan tâm. Nhờ sự cam kết của Mỹ có quy mô lớn và toàn diện, nên Mỹ có thể làm bất cứ gì mà không cần sự đồng ý và cộng tác của người Việt. Vài tháng trước, nếu muốn quân đội VNCH tiến hành một chiến dịch, các cố vấn Mỹ phải nài nỉ những chỉ huy địa phương vốn rất miễn cưỡng. Còn bây giờ, nếu cần, cả một cuộc hành quân có thể tiến hành từ đầu tới cuối mà không dính dáng tới một người Việt Nam. Cuộc hành quân Chu Lai là tiêu biểu cho loại này: chính người Mỹ lên kế hoạch và tiến hành, và kế hoạch được giữ kín không cho người Việt biết để phòng ngừa nạn “rò rỉ“ tin tức rất thưường gặp ở chính quyền Sài Gòn. Sức mạnh Mỹ cũng đã đủ lớn để ngăn chạn hầu như bất kỳ thiệt hại quân sự nào… Ngày nay ở Việt Nam, thứ gì cũng có sẵn rất nhiều đến nỗi mọi sai lầm về quân sự, cho dù ngu xuẩn đến mức nào, đều có thể cứu vãn được. Trong trận đánh An Khê gần đây, sư đoàn 101 không vận bị thả lầm xuống một điểm tập kết của VC. Đơn vị bị thả lầm đã được tăng cường bằng những đơn vị trực thăng khi đối phương không giữ nổi vị trí và phải rút lui. (Trận đánh ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1965 giữa 224 lính nhảy dù thuộc Sư đoàn 101 không vận và khoảng 600 quân chính quy Bắc Việt. Hơn 200 VC và 13 lính Mỹ đã thiệt mạng). Trong bối cảnh tàn sát đó, những lời chỉ dạy, những chiến thuật ưu việt, sự ủng hộ của dân chúng dành cho VC, và ở phía bên kia, sự thiếu vắng động cơ chiến đấu của quân đội VNCH và sự kém cỏi của nhiều sĩ quan, và ngay cả tình trạng hỗn loạn ở Sài Gòn, cũng hoàn toàn không quan trọng. Nếu sáng mai chú Chuột Mickey có trở thành thủ tướng Nam Việt Nam thì chuyện đó cũng chẳng mấy ảnh hưởng đến binh lính trong Lực lượng đặc nhiệm Alfa của Lục quân Mỹ (thực tế đây là một quân đoàn Lục quân Mỹ nhưng không mang tên gọi chính thức như thế) hay khả năng chiến đấu của Sư đoàn 3 TQLC Mỹ. (Lực lượng đặc nhiệm Alfa-Task Force Alfa, bộ chỉ huy cấp quân đoàn được thiết lập ở Nha Trang tháng 8-1965 để kiểm soát các chiến dịch quân sự Mỹ tại Tây Nguyên. Nó được đặt tên là I Field Force Vietnam-Lực lượng dã chiến I tại Việt Nam-tháng 3-1966). Người ta đã nói nhiều về chuyện sử dụng B-52 trong một chiến dịch bình định hoặc chiến dịch đàn áp chiến tranh cách mạng, nếu muốn gọi tên cho đúng. Joseph Alsop, vốn luôn sẵn sàng tin tưởng không cần xét đoán vào mọi thông tin chính thức về Việt Nam, gần đây lại khẳng định với chúng ta trong một bài báo rằng B-52 rất cần thiết trong việc phá huỷ những cơ sở “được xây dựng rất sâu dưới lòng đất” của VC, nhờ thế làm biến mất mấy cái lô cốt nửa chìm nửa nổi và được che chắn bằng bao cát và hàng rào tre trông cứ như Phòng tuyến Siegrfied (Hệ thống pháo đài, công sự bêtông cốt thép dọc biên giới phía tây nước Đức trong Thế chiến 2). Những lời lẽ của ông ta vừa mới in trên báo thì không quân Mỹ đã phản thùng Alsop bằng cách làm ba cuộc không kích ở ĐBSCL, kế đó là vài cuộc nữa ở duyên hải miền Trung. Vd là ĐBSL rất bằng phẳng, và mực nước ngầm rất cao đến nỗi người ta không thể đào một cái hố nào mà nước không trào lên. Rõ ràng người ta không thể xây dựng những vị trí ngầm ở đó. Và như các bản đồ chính thức về mật độ dân cư tại Việt Namcho thấy, đồng bằng này (với ngoại lệ cho khoảng một trên 30 quận) có mật độ dân cư trung bình là 100 người trên một cây số vuông, và nhiều quận còn đạt tới mật độ khó tưởng tượng là 400 người trên một cây số vuông! Với một lượng bom là 500 tấn cho một cuộc không kích gồm 30 máy bay, và kiểu rải bom một trái cho khoảng hai cây số vuông trong những cuộc không kích như vậy, thì ảnh hưởng của nó tới một khu vực đông dân như thế nào thật dễ suy đoán ra. Điểm đáng nói là sự kiện này cũng trở nên không quan trọng bởi vì nó giả định rằng sự thù ghét hay tình yêu dành cho Sài Gòn hoặc thói quen chấp nhận số phận của dân chúng Việt Namlà quan trọng. Theo qua điểm của nhiều chính khách thực dụng ở Sài Gòn và Washington thì điều này không còn đúng nữa. Ngay cả quan điểm quân sự kiểu cũ vốn cho rằng phải đạt được hoặc phá huỷ một mục tiêu trước khi chiến dịch có thể đạt thắng lợi cũng không còn đứng vững. Những cuộc không kích B-52 (hoặc không kích “vùng sâu” bằng máy bay nhỏ hơn), không cần biết nó đánh trúng một cơ sở VC hay một làng hoàn toàn vô tội hoặc một làng theo Chính phủ, đã buộc VC phải di chuyển cả ngày lẫn đêm để tránh bị trúng bom. Đã qua rồi thời của những bệnh viện lớn và thoải mái trong rừng, những trạm nghỉ chân cho VC với thức ăn nóng, quần áo sạch và một chỗ tắm ngon lành; những kho đạn dược lớn và nhà máy sửa chữa võ khí với máy phát điện chạy rù rù binh yên. Oanh tạc cơ hạng nặng đã thay đổi tất cả. VC bị truy lùng như con thú. Những lính bị thương phải chết mà không được cứu chữa. Một đơn vị chiến đấu của VC trở về sau một cuộc hành quân chỉ để thấy khu vực đóng trại của mình đã bị phá huỷ và các kho lương thực và đạn dược đã tan hoang. Nhiều nhà quan sát am tường tại Sài Gòn cho rằng, điều làm thay đổi tính chất của chiến tranh Việt Nam không phải quyết định ném bom miền Bắc, không phải quyết định sử dụng lực lượng trên bộ của Mỹ tại Nam Việt Nam; mà chính là quyết định tiến hành không kích vô giời hạn tại miền Nam với cái giá gần như đập tan tành xứ này thành từng mảnh. Có hàng trăm bài báo với bằng chứng vụ thể cho thấy rằng việc ném bom không thương tiếc này đã xâm hại hàng ngàn người vô tội và một trong những lý do khiến trong nhiều trường hợp ta chẳng thu được võ khí gì là do những đống xác chết tại trận địa lại gồm rất nhiều dân làng đã không kịp bỏ chạy khỏi trận địa. Và nhà quan sát nào tại Việt Nam cũng đều có lần gặp gỡ một vài sĩ quan Mỹ đã lớn tiếng văng tục mỗi khi họ nghe tiếng máy bay phản lực bay qua trên đầu, bởi vì điều đó có nghĩa là thêm một mục tiêu không nhìn thấy đã bị ném bom-những chiếc F-105 bay quá nhanh không thấy được bom ném vào đâu và phải nhờ sự hướng dẫn của một máy bay không kiểm. Điều tương tự cũng xảy ra với sự phung phí đạn trọng pháo tới mức không tin được. Một cố vấn Mỹ ở cấp tỉnh nói với tôi, “Tại khi vực của tôi, tháng rồi đã bắn đi số đạn đại bác trị giá khoảng nửa triệu đôla vào những mục tiêu không hề nhìn thấy. Tuy nhiên toàn ngân sách của tỉnh dành dụm cho thu thập tin tình báo thì chỉ có 300 đôla”. Cá nhân tôi biết một bệnh viện ở khu mới định cư, thấy nói là có VC. Khi viên chức ở khu này báo tin về, phản ứng tức thời không phải là đem quân truy kích VC-vốn là chuyện nhiều rủi ro và mệt mỏi-mà là đề nghị pháo binh dập vào khu mới định cư ấy. “Tôi phả sùi bọt mép mới thuyết phục được họ đừng làm chuyện ấy”, sau đó viên chức địa phương kể lại. “Dù sao thì ở đó cũng có cỡ 9.000 nhân công với 22.000 phụ nữ và trẻ em”. Một lần nữa, việc nghiên cứu các chiến dịch lại cứu vãn cho người Mỹ. Cho đến nay, những cuộc thẩm vấn có vẻ như cho thấy rằng không hề có sự liên hệ thù nghịch tích cực nào giữa sự tàn phá gây ra cho nông thôn một bên, và Mỹ hoặc chính phủ Sài Gòn một bên. Theo cách nói của một chuyên gia, những cuộc không kích xuống xóm làng “dĩ nhiên là gây ra đau khổ, đương nhiên là về phía dân làng, (nhưng) không hề khiến họ tự động trở thành VC. Thực tế chúng tôi chưa hề gặp một ai trở thành VC vì lý do này”. Nhưng có lẽ câu trả lời phải được hiểu là, “… chưa hề gặp một ai từng thừa nhận mình trở thành VC chỉ vì lý do này”. Cho dù là thế, và dữ liệu lại hướng về điều ngược lại, một phái bộ cao cấp được cử sang Việt Nam mấy ngày trước để điều tra về những ảnh hưởng của hoả lực quá độ đối với người Việt Nam này có lẽ gây chia rẽ giữa các binh chủng. … Với tôi, vấn đề đạo đức thực sự nẩy sinh tại Việt Nam là việc tra tấn và hành động thô bạo không cần thiết đối với cả quân nhân lẫn thường dân. Vấn đề này ở Mỹ đã bị tránh né, hoặc tệ hơn, nó bị gạt bỏ vì cho là không phải là một vấn đề của Mỹ. Khi phóng viên quay được đoạn phim nổi tiếng ghi cảnh TQLC Mỹ đốt những căn nhà lá bằng hộp quẹt của mình, phản ứng trong giới quan chức Sài Gòn thì thất vọng vì chuyện đã xảy ra thì ít mà giận dữ thì với với đám phóng viên đã tường thuật chuyện đó thì nhiều (Ngày 3-8-1965, một nhóm săn tin của hãng truyền hình CBS do phóng viên Morley Safer dẫn đầu đã quay được cảnh các lính TQLC Mỹ dùng hộp quẹt để đốt những căn nhà lá ở Cam Ne. Đoạn phim được phát trên đài CBS ngày 5 tháng 8 ). Và rồi việc Bộ trưởng Hải quân cố giải thích sự vụ bằng cách gán cho ngôi làng ấy là “cơ sở do VC xây dựng" thì cũng khó vực dậy được vị thế đạo đức của cả cuộc hành quân. Tuy nhiên, kể từ đó, những lời kết án sự tàn bạo không cần thiết lại xuất phát từ Việt Nam. Ngày 11-9-1965, tờ Sài Gòn Daily News vốn chuyên dành cho cộng đồng người ngoại quốc nói tiếng Anh tại Việt Nam, đã đưa lên trang nhất ảnh chụp những lính Mỹ với súng ống trên tay đứng bên một đống mà chú thích ảnh ghi là “xác VC”-tất cả đều nằm úo mặt xuống đất, với hai tay bị trói ra sau lưng. Nếu, thử đặt ngược lại vấn đề, những người chết kia không phải là VC, mà là những dân làng bị VC bắn chết chẳng hạn, tôi sẽ rất sung sướng nếu có bạn bè nào ở Sài Gòn hiệu chỉnh lại hồ sơ, hay Lầu Năm Góc công bố một lời phủ nhận sự kiện cách chi tiết và một giải thích đáng tin về chuyện đã xảy ra. Bởi vì vấn đề những cách thức tiến hành chiến tranh như thế sau cùng gây ra cái gì, cho những người tiến hành hoặc những người phải chịu đựng những cách thức đó tại nơi họ đang sinh sống, thì chính thức người Mỹ mới là kẻ phải đối mặt, giống như vấn đề tra tấn ở Algeria thì chính người Pháp phải đối mặt (chuyện xảy ra trong cuộc chiến giành độc lập của Algeria 1954-62): không chỉ riêng chính phủ mà mọi công dân, mọi nhà giáo và mọi tu sĩ Pháp cho đến tận Hồng y giáo chủ xứ Gaul. Ngay cả quân đội Pháp cũng chia rẽ nhau quyết liệt vì vấn đề này, với một số sĩ quan tình báo (giống như một số đồng nghiệp Mỹ ở Việt Nam hiện nay) chống đối việc tra tấn dựa trên thực tiễn rằng việc đó sẽ đẩy đối phương vào quan điểm “nhất định không đầu hàng”, trong khi một số khác ít hơn phản đối chỉ vì lý do thuần tuý đạo đức. Trường hợp điển hình nhất là chuyện Thiếu tướng De la Bollardière, một cựu binh nhiều huân chương công trạng, người đã từ bỏ chức vụ chỉ huy ở Algeria bởi vì, theo cách nói của chính ông ta, ông ta là một lính nhảy dù chứ không phải chuyên viên tra tấn của Gestapo. Làn sóng phản đối ở Pháp đã buộc chính phủ Paris phải chỉ định một Uỷ ban bảo vệ để điều tra chuyện này; và các tác phẩm của những người sống sót sau những màn tra tấn ấy, như Djamila Boupacha hay Henri Alleg đã được cả thế giới biết đến. Trước khi tháp tùng một phi vụ ném bom napalm tại Việt Nam trên một chiếc Skyraider của Không quân Mỹ, tôi đã được tường trình đầy đủ về các cách thức “tránh né và thoát hiểm”. Tôi nhận thấy rằng trong bộ dụng cụ “né tránh và thoát hiểm” này có một tấm thẻ in lại Công ước Geneva 1929, nói cho các phi công Mỹ về các nghĩa vụ của phe địch đối với họ. Nước Mỹ hoàn toàn có thể cung cấp cho mọi lính Mỹ tại Việt Nam (chứ không chỉ phi công) một bản tóm lược các nghĩa vụ của họ đối với thường dân vô tội theo các bộ luật và hiệp định hiện hành cũng nưh đối với các chiến binh đối phương. Khi làm việc đó, ta có thể in thêm nửa triệu bản tiếng Việt để lính Nam Việt Nam có thể đọc lúc rảnh rỗi. Có một yếu tố trung tâm trong tình hình Việt Nam mà nó đã trở nên hiển nhiên tại trận địa, tuy rằng nó không được thừa nhận tại các cơ quan tại Mỹ, và cả ở Hà Nội và Bắc Kinh trong một chừng mực nào đó: sự tràn ngập nhân lực và hoả lực Mỹ, và việc sử dụng hoả lực bừa bãi, đã khiến cuộc chiến Nam Việt Nam, trong ngắn hạn, trở nên “không thể thua được” về mặt quân sự. Những chữ in nghiêng này rất quan trọng-và tôi chắc chắn rằng, như trên tờ Newseek ngày 27 tháng 9, tôi sẽ bị trích dẫn sai do sự lược bở của họ-nhưng luận điểm cốt lõi thì vẫn đúng. Đầu mùa xuân rồi, về mặt quân sự VC hoàn toàn có thể, bằng một loạt những cuộc tấn công tiền phương mạnh mẽ, tiêu diệt một hoặc hai sư đoàn Nam Việt Nam, khiến hàng ngàn binh lính Nam Việt Nam mất tinh thần phải đào ngũ, và đặt Mỹ trước một sự đã rồi của một Nam Việt Nam chống Cộng không tồn tại. Những giai đoạn suy thoái cùng cực tương tự đã từng có trong những cuộc chiến chống nổi dậy kiểu này: tại Algeria và đảo Cyprus, ở Aden và Madagascar, ở Palestine và Angola. Sức mạnh của phe nổi dậy thường bị đánh giá thấp lúc ban đầu. Cuộc nổi dậy lúc đầu thường được phó mặc cho cảnh sát hoặc lực lượng an ninh địa phương vốn hoàn toàn không có khả năng đối phó, và mọi chuyện ngày càng tồi tệ hơn cho đến khi Binh đoàn Hoàng gia Anh, hay Binh đoàn nhảy dù Pháp có mặt trọn vẹn tại hiện trường và lập tức được yểm trợ bằng những máy bay phản lực gầm rú trên đầu. Chuyện người Anh bị Mahdi người Sudan đánh bại ở Khartoum (Madi là danh hiệu của các nhà tiên tri Hồi giáo. Madhi được nhắc tới ở đây là Mohammed Ahmed ở xứ Dongola, người đã vây hãm Khartoum năm 1885, giết chết tướng Charles Gordon và binh lính đồn trú ở đó) hay bị người Boer của Paulus Kruger đánh bại ở Mafeking không ngăn được họ lần mò tới chiến thắng (người Boer là hậu duệ của người Hà Lan định cư ở Nam Phi và bị Anh cai trị. Cuộc chiến chống Anh của họ kéo dài từ 1881 đến 1902). Trong những trận Hoà Bình và Cao Bằng ở Bắc Việt (Trong trận Hoà Bình, nổ ra từ 14-11-1951, cả Pháp lẫn Việt Minh đều thiệt hại nặng trước khi Pháp rút lui ngày 24-2-1952. Quân Pháp đồn trú ở Cao Bằng phải rút lui khỏi đồn này và bị tiêu diệt tháng 10-1950), người Pháp thiệt mất nhiều quân hơn trận Điện Biên Phủ hai năm sau đó, nhưng vẫn cứ tiếp tục chiến đấu. Cái đã tan vỡ ở Điện Biên Phủ là ý chí kháng cự-chứ không phải là khả năng-của Pháp. Nỗ lực của Mỹ tại Việt Nam với quy mô cực lớn đã khiến mọi so sánh đều trở nên vô ích. Ví dụ nổi bật nhất diễn là cuộc chiến trên không. Trước Điện Biên Phủ, Không quân Pháp chỉ có 112 chiến đấu cơ và 68 oanh tạc cơ cho toàn Đông Dương (tức là Lào, Campuchia, Bắc và Nam Việt Nam). Tính đến 24-9-1965, Mỹ đã dùng 167 oanh tạc cơ đánh vào các mục tiêu ở Bắc Việt, thả 235 tấn bom và đồng thời có 317 phi vụ oanh tạc cơ tại Nam Việt Nam, thả xuống 270 tấn bom. Ngoài ra, một số B-52 còn dập vào một cứ điểm của VC ở bắc Sài Gòn thường được gọi là khu “tam giác sắt”. Chỉ trong ngày đó, thậm chí không kể những cuộc không kích bằng B-52, Mỹ cũng đã thả một lượng bom nhiều hơn số bom mà không quân Pháp đã thả trong suốt 56 ngày đêm của trận Điện Biên Phủ. Sự tin tưởng vào ưu thế hoàn toàn về võ khí trang bị hiện đại đã lan khắp guồng máy chính quyền có liên quan đến Việt Nam. Toàn bộ vấn đề, theo một nghĩa nào đó đã trở nên hoàn toàn kiểm soát được, sự tăng cường hiện nay có thể bỏ qua những chương trình cấp bách và những vụ vận chuyển binh lính khẩn cấp. Tại Việt Nam, những hợp đồng thuê mướn và xây dựng đã được ký kết cho một thời hạn ba năm. Từ một tình thế đầy những bất trắc, Việt Nam đã đi vào một tình thế hoàn toàn có thể kiểm soát được với những khó khăn rõ ràng có thể lượng hoá. Người ta cần một số biết trước những cuộc không kích B-52 để giải quyết cứ điểm của VC tại Chiến khu D (ở phía bắc Biên Hoà); cần một lượng biết trước những chuyến bay phun thuốc khai quang để huỷ diệt những rừng cao Bến Cát; cần khoảng 300.000 tấn gạp nhập khẩu (quãng năm 1939 Nam Việt Nam thường xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo) để ngăn nạn đói ở xứ này trong năm nay. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Những phóng sự về chiến tranh Việt Nam
Top