Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Những phóng sự về chiến tranh Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="vodanhtran03" data-source="post: 70294" data-attributes="member: 54609"><p>Lật đổ Diệm: Tháng 11-1963 SỰ SỤP ĐỔ CỦA DÒNG HỌ NGÔ ĐÌNH Stanley Karnow The Sunday Eyening Post, 21-12-1963 Tại nhà thờ Thánh Francico Xavier xây từ thời Pháp trong Chợ Lớn, khu phố Tàu nhếch nhác của Sài Gòn, buổi lễ ban sáng là dành cho ngày lễ Các linh hồn, ngày của những người đã chết. Vài phút sau khi giáo dân đã ra về, hai người trong bộ đồ lớn xám đậm bước nhanh qua khoảng sân rợp bóng cây và vào nhà thờ. Tổng thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam và ông em Ngô Đình Nhu, cả hai đều mệt mỏi sau một đêm không ngủ, đã trở thành kẻ tị nạn ngay chính tại thủ đô mà họ từng nắm quyền. Trong ngôi nhà thờ hẻo lánh này họ cầu nguyện và rước lễ, và đó là lần nhập phép bí tích cuối cùng của họ. Chưa đầy một giờ sau thi thể đẫm máu, co rúm của họ đã nằm tội nghiệp trên sàn một chiếc xe thiết giáp rầm rập chạy qua đường phố Sài Gòn. Thế là chấm dứt nền thống trị mong manh của gia đình họ Ngô-một chế độ quả đầu ngoan cố, tự thị mà trong tám năm cầm quyền ở Nam Việt Nam, đã suy thoái từ chế độ gia trưởng kém cỏi sang một nền chuyên chế hầu như là điên loạn. Và rồi nền chuyên chế mục nát của Diệm đã sụp đổ một cách dễ dàng đến kinh ngạc. Không lâu sau khi khói lửa binh biến tan đi, chỉ huy của nhóm tướng lãnh đảo chánh đã mời tôi vào văn phòng rộng rãi đầy bản đồ của ông ta. Đại tướng Dương Văn Minh, được người Mỹ ở Sài Gòn gọi là Big Minh, là một quân nhân to lớn, trông mạnh mẽ, với chiếc răng cửa sún là dấu hiệu tự hào cho trò tra tấn của người Nhật mà ông ta đã chịu hồi Thế chiến 2. Ông ta là một con người dịu dàng dễ gây hiểu lầm, và khi nói về vụ đảo chánh đã đưa ông ta lên nắm quyền, rõ ràng có một vẻ phân trần trong giọng nói của ông ta. Cho dù nhóm đảo chánh đối diện vấn đề gì trong tương lai-và sẽ toàn là vấn đề lớn-thì vụ đảo chánh của họ cũng chỉ là một giải pháp thay thế cho chế độ Diệm. Vì thực tế, chính phủ Diệm đã không làm được các chức năng của nó từ lâu trước khi sụp đổ. Là một quan lại khắc kỷ, bảo thủ, Diệm không thể đối phó với hai mối nguy cùng một lúc là du kích Cộng sản và chống đối trong nội bộ ngày càng tăng. Như một vị nhân vật trong bi kịch Shakespeare, ông ta đã ngả theo những bản năng tồi tệ nhất. Ông ra đã rút khỏi thực tế và ngày càng giao nhiều quyền hành hơn cho người em Nhu bệnh hoạn, đầy mưu mô, cùng bà vợ xinh đẹp, kiêu ngạo. Trong tiến trình đó, ông ta dần dần rời xa quân đội, giới trí thức và đám đông quần chúng. Đồng thời, ông ta xa cách với những người nước ngoài trợ giúp ông ta nhiều nhất. Quá quan tâm đến hình ảnh của riêng mình, giáo hội Công giáo của Diệm đã cố tách ra khỏi một chế độ mà một vị cao cấp trong hàng giảo phẩm của Vatican mô tả là “phản động và đầy tính trung cổ”. Quan trọng hơn, qua việc thuận theo các chính sách áp thuế của Nhu, Diệm đã gây hiềm khích với Mỹ, quốc gia đã bỏ tiền bạc và sinh mạng để cứu xứ sở của ông ta. “Chúng tôi muốn thay đổi cách cai trị đất nước này”, một quan chức ngoại giao Mỹ hàng đầu ở Sài Gòn nói. “Nếu những người nắm quyền không có khả năng tự thay đổi, thì chúng tôi ủng hộ sự thay đổi những người nắm quyền đó… Chúng tôi chắc chắn tạo ra môi trường và não trạng có thể thúc đẩy những người chống đối lật đổ ông ta”. Diệm đã sống bên bờ vực kể từ tháng 11-1960 khi các tiểu đoàn nhảy dù thiện chiến bao vây phủ tổng thống và sau đó đã ngây thơ để cho ông ta qua mặt bằng lời hứa sẽ cải cách. Vào tháng 2-1962, hai phi công dùng máy bay chiến đấu tấn công phủ tổng thống khiến nó hư hại nặng. Cuộc tấn công càng khiến ông ta nghi ngờ mọi người ngoại trừ gia đình và một nhóm thân cận. Không ở đâu mà sự nghi ngờ đầy bệnh hoạn của Diệm lại có ảnh hưởng tai hại cho bằng sự nghi ngờ đối với quân đội, nơi mà các sĩ quan được đánh giá theo lòng trung thành hơn là theo khả năng quân sự. Một nghi ngờ tưởng tượng về một ai đó là đủ để làm hoen sự nghiệp của người đó. Ví dụ, một tướng lãnh từng góp sức cứu Diệm trong vụ đảo chánh 1960, sau đó đã bị nghi ngờ vì ông ta đã đi qua trận tuyến của địch quá dễ dàng. Thường xuyên lo sợ các tướng lãnh sẽ lật đổ mình, Diệm đã không cho họ cầm quân. Nhiều tướng lãnh kinh nghiệm như Đại tướng Minh, quân nhân cao cấp nhất nước, đã bị biến thành phụ tá trong phủ tổng thống hoặc nhận những vị trí tham mưu vô hại… … Tuy nhiên, không có gì hủy hoại sâu xa tinh thần chiến đấu của quân đội Nam Việt Nam bằng những biện pháp áp chế của Diệm đối với Phật giáo, lúc đó là cộng đồng tôn giáo đông nhất nước. Suốt mùa hè, trong khi cuộc khủng hoảng Phật giáo đã phát triển thành một phong trào chống đối chính trị rộng rãi đối với chế độ Diệm, một số sĩ quan được bố trí một cách có chiến lược đã bắt đầu tổ chức một cuộc nổi loạn. Có những nhân vật kỳ lạ và không ai ngờ trong số họ. Đại tá Đỗ Mậu, Cục trưởng An ninh quân đội chẳng hạn, bị Diệm nghi ngờ vì có tình cảm thân Phật giáo đến nỗi ông ta cảm thấy buộc lòng phải tham gia âm mưu đảo chánh. Trung tá Phạm Ngọc Thảo, người của Việt Minh, là một trong những người tin cẩn của Diệm, đã miễn cưỡng theo phe chống đối, với niềm tin rằng chỉ làm cho chế độ này sụp đổ thì mới cứu được đất nước. Những người dụ mưu làm việc rất thận trọng. Đôi khi họ gặp nhau tại nhà riêng; thường thì họ nói chuyện ở vùng nông thôn; đôi khi cuộc trao đổi lại xảy ra trong các hộp đêm ồn ào của Sài Gòn. Tới đầu mùa thu, họ đã kiểm soát được một lực lượng mạnh gồm 2.500 lính dù, TQLC, bộ binh và thiết giáp. Tuy nhiên, trong khi những sĩ quan trẻ đang lập kế hoạch đảo chánh thì một nhóm tướng lãnh có uy thế hơn, cầm đầu là Đại tướng Minh, cũng nghiên cứu những cách thức để lật đổ chính phủ. Khi cả hai nhóm tìm cách giành vị trí tốt, các tướng lãnh cũng cho người về các tỉnh để huy động các lực lượng có thể hữu dụng. Đến tháng 8, ngay đỉnh cao của cuộc khủng hoảng Phật giáo, họ đề nghị với Diệm và Nhu rằng nên ban bố thiết quân luật và đưa một số đơn vị quân đội vào Sài Gòn. Họ bí mật dàn xếp để ra lệnh cho các toán quân này nổi dậy. Do liên tục nghi ngờ, Ngô Đình Nhu đã khôn ngoan bác bỏ kế hoạch này. Ông ta chấp nhận ý kiến ban bố thiết quân luật của các tướng lãnh. Nhưng thay vì để họ điều quân lính ở các tỉnh vào, ông ta đã giao quyền kiểm soát quân sự cho Tôn Thất Đính, một tướng lãnh tin cẩn. Dưới sự chỉ huy chiến thuật của Đính, các lực lượng đặc nhiệm và cảnh sát chìm của Nhu đã bố ráp các ngôi chùa trong thành phố ngày 21 tháng 8. Và sau đó, Đính coi mình là anh hùng dân tộc. “Tôi đã đánh bại Henry Cabot Lodge”, ông ta tuyên bố. “Y sang đây để giật dây một vụ đảo chánh, nhưng tôi, Tôn Thất Đính, đã hạ y và cứu đất nước”. Một tuần sau những vụ bố ráp bạo lực vào các chùa, những người âm mưu bạo loạn tại Việt Nam đã rất phấn khởi trước những dấu hiệu rõ rệt cho thấy người Mỹ không còn ưa được chế độ Diệm. Tổng thống Kennedy nói rõ rằng ông ta không tán thành gia đình họ Ngô. Viện trợ Mỹ cho Việt Nam bị cắt giảm, và Đại sứ Lodge nói thẳng với Diệm rằng ông Ngô Đình Nhu nên rút lui. Và trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn, John Richardson, người nằm trong nhóm công tác Mỹ thân cận với Nhu nhất, cũng bị triệu hồi về nước. … Tướng Đính lúc này tuyên bố ông ta vẫn trunh thành với Diệm trong hy vọng sửa đổi được tổng thống. Nhưng nhiều người Việt am hiểu tình hình đất nước nhất định rằng Đín thực ra ở lại với gia đình thống trị này để tham gia vào một âm mưu hoang đường nào đó do Ngô Đình Nhu vạch ra. Mạng lưới dày đặc điệp viên đã cho ông ta biết về những cuộc nổi loạn manh nha, và Nhu lập ra một kế hoạch để kết liễu mọi âm mưu như thế. Đó là cuộc đảo chánh giả mà Nhu gọi là “Chiến dịch Bravo”. “Những vụ đảo chánh cũng giống như những quả trứng, nó phải bị vỡ thì gà con mới chui ra được”, ông ta nói. Vào một ngày đã định trước đầu tháng 11, theo kế hoạch, tư lệnh Lực lượng đặc biệt vốn trung thành với Nhu, Đại tá Lê Quang Tung, sẽ tiến hành một cuộc nổi dậy ở Sài Gòn với sự yểm trợ của những nhóm cảnh sát được tuyển chọn kỹ lưỡng. Diệm, Nhu và những nhân vật chọn lọc trong phủ tổng thống sẽ chạy ra một điểm trú ẩn đã chuẩn bị sẵn ở Vũng Tàu, một điểm nghỉ mát ven biển nằm ở phía đông thủ đô. Tướng Đính và những toán quân trung thành sẽ đóng ở ngoại vi thủ đô. Bên trong Sài Gòn, bạo loạn sẽ lập tức nổ ra. Các băng nhóm tội phạm sẽ cướp bóc và phá phách-nhất là những khu nhà của người Mỹ. Một số thủ lĩnh sinh viên-nhất và phái Phật giáo sẽ có thể bị giết. Trong cơn hỗn loạn ấy, Đại tá Tung “nổi loạn” sẽ thông báo thành lập một “Chính phủ cách mạng" bao gồm những nhân vật đối lập chính trị với Diệm. Cha của bà Nhu, Trần Văn Chương, cựu đại sứ Việt Nam tại Washington nhưng hiện nay là tay công khai chỉ trích chế độ Diệm, sẽ dược phong làm tổng thống của Chính phủ mới-mà không có sự đồng ý của ông ta. Đài phát thanh Sài Gòn sẽ tung ra luận điệu chống Mỹ và chủ trương trung lập đồng thời kêu gọi chấm dứt chiến tranh với Cộng sản. Những trò này được dự trù kéo dài trong 24 giờ. Rồi, từ những vị trí quanh Sài Gòn, các toán quân trung thành sẽ tiến vào thành phố và dễ dàng dẹp tan vụ nổi loạn. Diệm sẽ đắc thắng trở lại thủ đô, lấy lại quyền cai trị hợp pháp của ông ta, và Nhu sẽ có một ngày để ra tay. Vì cú đảo chánh giả sẽ “chứng tỏ” rằng: -Những kẻ chống đối Diệm là bọn trung lập, chống Mỹ và thân Cộng. Do đó người Mỹ đã từ bỏ mọi hy vọng về sự sụp đổ của ông ta. -Những người chống đối chế độ Diệm không kiểm soát nổi những đám đông cướp phá vốn nhằm vào người Mỹ. Chỉ có Diệm là có thể bảo đảm an ninh và trật tự. -Quân đội thực sự ủng hộ Diệm, vì họ không theo phe cách mạng mà còn tấn công dập tắt nổi loạn nữa. Bên cạnh những luận điểm tuyên truyền quan trọng này, Nhu hy vọng rằng vụ “đảo chánh giả” sẽ làm lộ mặt rất nhiều kẻ thù, khiến ông ta có thể nhận ra họ dễ dàng và thanh toán họ trong tương lai. Tuy nhiên, Nhu vừa mới vạch ra kế hoạch hoang đường của mình thì các chi tiết của nó đã lọt tói tai nhiều người. Một số trong bọn họ coi vụ đảo chánh giả là một cơ hội: họ ủng hộ việc tiến hành, rồi nhân đó làm thực. Một số khác không đồng ý vì cho rằng một chiến dịch phức tạp như thế sẽ đưa đến rất nhiều rối loạn và đổ máu. Nhóm sĩ quan trẻ thì quyết định hạ gục Nhu bằng cách đảo chánh thật trước. Ngày tiến hành được quyết định là Thứ Năm, 24 tháng 10. Tuy nhiên, các tướng lãnh phản bác rằng bất kỳ hành động nào mà không có sự hợp tác của tướng Đính và binh đoàn Sài Gòn của ông ta đều sẽ có nguy cơ thất bại. Không thể thuyết phục các sĩ quan trẻ thay đổi kế hoạch, các tướng lãnh đành phá hỏng nó. Họ đưa các trung đoàn chủ chốt vào một chiến dịch tấn công Cộng sản, và các sĩ quan trẻ không có cách nào khác hơn việc tạm hoãn kế hoạch lại. Khi một trong những tay dự mưu trở về nhà ngày 24 tháng 10, anh ta gặp một nhân viên CIA chờ sẵn để hỏi, “Sáng nay sao không tiến hành?” Ngày 29 tháng 10 Đính đã nằm trong phe nổi dậy. Họ bèn giăng một cái bẫy cho Nhu bằng cách cố tình cho ông ta nghe phong thanh về cuộc đảo chính. Tướng Đính phái một trong các phụ tá đến bộ chỉ huy Sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, cách Sài Gòn 60 km về phía tây nam. Viên phụ tá này họp một nhóm sĩ quan của sư đoàn và tuyên bố rằng một cuộc đảo chánh đang được tiến hành ở Sài Gòn. Ông ta nêu tên một số tướng tá dự mưu, cố tình tiết lộ rằng tướng Đính “không có tham gia”. Đúng như Đính và những tướng dự mưu trông đợi, có một tay mật báo trong số các sĩ quan sư đoàn ở Mỹ Tho. Chỉ trong vài giờ, Diệm và Nhu đã nghe tin về âm mưu đang manh nha này. Hôm sau, tướng Đính được triệu vào phủ tổng thống và khuyến cáo rằng có một trong những phụ tá của ông ta là kẻ phản bội. Là một diễn viên tuyệt vời, Đính làm một màn trình diễn ngoạn mục. Khóc lóc và vung tay múa chân, ông ta thề sẽ cho kẻ phản bội đó chết. Nhưng việc xem xét một chuyện đơn giản như vậy lại ngoài tầm hiểu biết của Nhu. Thay vào đó, ông ta lại đề nghị Đính thâm nhập hàng ngũ dự mưu và biến nó thành một vụ phản đảo chánh nhằm vào nhóm dự mưu. Hơn nữa, ông ta còn ra lệnh cho Đính chuẩn bị hành động vào ngày 1 tháng 11-ngày lễ Các thánh-khi moi công sở Sài Gòn sẽ đóng cửa, đường phố sẽ vắng vẻ và việc di chuyển quân đội sẽ dễ dàng hơn. Với điệu bộ của một tay âm mưu bậc thầy, Nhu thông báo rằng kế hoạch này sẽ thay thế cho kế hoạch trước đó của ông ta. Vẫn không đổi, Nhu gọi kế hoạch mới này là “Chiến dịch Bravo II”. Vấn đề trước hết của tướng Đính là kéo bốn đại đội Lực lượng đặc biệt trung thành với Diệm ra khỏi thủ đô. Ông ta lý giải với Đại tá Lê Quang Tung, tư lệnh Lực lượng đặc biệt, rằng phải đưa những toán quân mới vào Sài Gòn cho Chiến dịch Bravo II. “Nhưng nếu chúng ta đưa quân dự bị vào thành phố”, Đính nói tiếp, “người Mỹ sẽ bực bội. Họ sẽ phàn nàn rằng chúng ta không lo chiến đấu với Cộng sản. Nên ta phải nguỵ trang cho kế hoạch bằng cách đưa Lực lượng đặc biệt về nông thôn. Như thế sẽ gạt được họ”. Hôm sau, với sự đồng ý của Diệm, Lực lượng đặc biệt rời Sài Gòn. Như thế một trở ngại lớn cho cuộc đảo chánh đã được tháo gỡ. Bây giờ công việc của Đính là triển khai quân của mình để đảo chánh. Trong khi Diệm và Nhu tưởng rằng ông ta đang chuẩn bị cho kế hoạch, Đính mau chóng điều quân vào và ra Sài Gòn. Ngày đã định là 1 tháng 11; giờ đã định là 1 giờ 30 trưa. Suốt đêm hôm trước và sáng hôm sau, các binh đoàn nổi loạn tức tốc chiếm các vị trí. Hai tiểu đoàn TQLC có thiết giáp đi kèm đã sẵn sàng tấn công đài phát thanh và bộ tư lệnh cảnh sát. Một tiểu đoàn dù, trú đóng tại một điểm nghỉ mát ven biển cách Sài Gòn hơn 100 km, được lệnh ráp nối với các đơn vị phục vụ và thiết giáp và tiến vào thành phố để tấn công các trại vệ binh tổng thống phủ. Bộ binh từ phía tây bắc và tây nam cũng được triệu tập. Khi các cánh quân đã tụ về Sài Gòn, chỉ có những sĩ quan cao cấp mới biết mục đích của cuộc hành quân. “Tôi nói với trước các đại đội trưởng chuyện chúng tôi sắp làm”, một đại tá TQLC sau này kể lại, “nhưng tôi không nói thật với cấp trung đội trưởng. Tôi chỉ nói rằng cảnh sát đang mưu lật đổ Diệm và chúng ta vào cứu tổng thống”. Một trung uý nhảy dù nói: “Khi chúng tôi lên đường, tôi đã đoán đây là đảo chánh nhưng không biết chắc. Chúng tôi đến một điểm chỉ huy ở ngoại ô, và một số đại tá nói rằng mục tiêu là các trại vệ binh tổng thống phủ. ‘Ai bạn ai thù?’ tôi hỏi, va ông ta đáp, ‘Ai chống lại chúng ta là thù’”. Đến giữa buổi sáng 1 tháng 11, toàn bộ khu vực quanh Sài Gòn đầy những di chuyển lặng lẽ, và không biết chính xác chuyện gì đang xảy ra. Khoảng 9 giờ sáng gì đó, chỉ huy Hải quân trung thành với Diệm, Đại uý Hồ Tấn Quyền, có hai thuộc hạ tới chúc mừng sinh nhật. Nhưng sau đó họ đề nghị ông tham gia đảo chánh, và khi ông ta từ chối, họ đã áp tải ông ta ra ngoại ô và bắn chết. Các cố vấn quân sự Mỹ sống chung với quân lính Nam Việt Nam và những cố vấn làm việc với ban tham mưu của tướng Đính biết rõ giờ giấc bùng nổ của cuộc đảo chánh. Họ báo tin này về cho bộ chỉ huy của họ, nhưng tư lệnh quân đội Mỹ, Đại tướng Paul Harkins, rõ ràng không tin điều này. Tuy nhiên, Đại sứ Cabot Lodge có vẻ ít hồ nghi hơn. Lúc 10 giờ sáng, ông ta nhân cuộc viếng thăm Đề đốc Harry Felt, tổng tư lệnh các lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, để gặp Diệm trong một giờ. Đó là lần chạm trán kỳ cục. Cả Diệm và Lodge đều biết một biến cố lớn đang manh nha, và họ nói chuyện quanh “những tin đồn” về một cuộc đảo chánh. Nhưng nếu như Lodge chờ đợi một chyện xảy ra thực, thì Diệm trông vào Chiến dịch Bravo II, cú phản đảo chán phức tạp của ông Nhu. Khi các đơn vị nổi dậy tiến vào vị trí tấn công, các tướng lãnh dự mưu lại dàn xếp một kế hoạch tinh quái khác. Thứ Sáu là ngày họ vẫn hàng tuần ăn trưa với nhau để bàn bạc các vấn đề quân sự. Tại một phòng ăn ở Bộ Tổng tham mưu, họ đặt thêm ghế quanh bàn và mời mấy vị khách đặc biệt, như Đại tá Tư lệnh Lực lượng đặc biệt Lê Quang Tung và những sĩ quan khác trung thành với Diệm. Lúc 1 giờ 30 cuộc đảo chánh bùng nổ, dẫn đầu cuộc tấn công, hai tiểu đoàn TQLC tiến nhanh vào thành phố. Họ mau chóng chiếm đài phát thanh và các đồn cảnh sát, và một sĩ quan phe nổi dậy lên đài thông báo rằng cuộc đảo chánh đã xảy ra. Trong khi đó, tại bữa ăn trưa, các tướng lãnh thông báo cho các sĩ quan có mặt rằng đảo chánh đã bắt đầu và mời họ cùng tham gia. Hầu như mọi người đều đồng ý. Đại tá Tung trung thành với Diệm thẳng thừng từ chối. Khi bị dẫn ra để xử tử, ông ta gào lên với các tướng lãnh, “Hãy nhớ ai đã gắn sao trên cổ áo cho tụi bay”. Tại phủ tổng thống Diệm và Nhu ban đầy nghĩ rằng cú phản đảo chánh của họ đã bắt đầu. Họ hàon toàn tin tưởng rằng tướng Đính vẫn trung thành với mình và như tính toán, ông ta sẽ bắt hết các tay chủ mưu và kiểm soát tình hình. Ví dụ, ngay sau khi tiếng súng nổ ra một viên chức cảnh sát đã điện thoại cho Nhu và hốt hoảng kêu rằng bộ chỉ huy của anh ta bị tấn công. “Không sao đâu”, Nhu trấn an anh ta: “Tôi biết hết rồi”. Tuy nhiên, khi thời gian trôi qua, Diệm và ông em bắt đầu cảm thấy có điều bất thường. Họ nhận được những cú điện thoại của các tướng đảo chánh yêu cầu họ đầu hàng, và họ đã từ chối. Nhưng sau nhiều lần cố liên lạc với tướng Đính để hỏi chừng nào mới bắt đầu vụ phản đảo chánh. Mỗi lần như thế họ chỉ có thất vọng. Đính không có mặt ở văn phòng, mà đang ở Bộ Tổng tham mưu. “Đính chắc đã bị bắt”, Diệm nghe nói như thế, mà vẫn không tưởng tượng được rằng ông tướng đó đã phản bội mình. Lúc quá 4 giờ chiều pháo binh phe đảo chánh bắn vào các trại vệ binh phủ tổng thống, và Diệm biết rằng mình gặp nguy biến. Ông ta điện thoại cho Đại sứ Lodge để báo rằng quân đội đã nổi loạn. Bình thản xác nhận rằng mình có nghe tiếng súng nổ, Lodge bày tỏ lo ngại cho sự an nguy của Diệm và nhắc ông ta nhớ rằng các tướng đảo chánh đã đề nghị cho ông ta được ra nước ngoài bình yên. “Tôi sẽ phục hồi trật tự”, Diệm nạt lại. Lodge đáp: “Nếu tôi có thể làm gì để đảm bảo an toàn cá nhân cho ông thì cứ cho tôi hay”. Nhớ lại vụ vây hãm năm 1960 khi ông ta kiên quyết biến một trận thua chắc chắn thành thắng lợi, Diệm cứ ngoan cố không thay đổi. Qua một máy phát thanh đặc biệt trong phủ tổng thống, ông ta phát đi lời kêu gọi yêu cầu tư lệnh tiểu khu ở các tỉnh cứu viện. Không một ai trả lời. Chỉ cách phủ tổng thống vài dãy phố, các vệ binh của Diệm bị vây hãm, và chính phủ tổng thống cũng bị binh lính cùng thiết giáp bao vây. Diệm đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho đủ kiểu tấn công. Ví dụ, bên dưới phủ tổng thống, gần đây ông ta đã cho xây một hầm trú ẩn tránh bom trị giá đến 200.000 đôla. Ông ta đã xây ba đường hầm dẫn ra khỏi phủ, và ông ta có nhiều kế hoạch rút lui. Khoảng 8 giờ tối, khi phủ đã bị bao vây, Diệm và Nhu theo đường hầm đi ra một khu vực lót gỗ trong Cercle Sportif, câu lạc bộ thể thao của Sài Gòn (nay là Cung văn hoá Lao động TP.HCM). Họ chẳng mang theo gì ngoài một cái cặp nhỏ chứa đầy đôla Mỹ. Ở cửa đường hầm, một nhóm thủ hạ đã chờ sẵn để đưa họ tới nhà một thương gia người Hoa, Mã Tuyên. Ngôi nhà này có đường dây điện thoại trực tiếp với phủ tổng thống. Không lực lượng tấn công cũng như phòng vệ nào biết được rằng đêm đó họ đang giành nhau một phủ tổng thống trống rỗng. Tại nơi ẩn náu trong Chợ Lớn, Diệm và Nhu vẫn hy vọng rằng tướng Đính sẽ cứu họ, và họ kiên trì gọi điện cho ông ta. Đến quá nửa đêm họ mới liên lạc trực tiếp được với ông ta, lần đầu tiên trong ngày, ngay Bộ Tổng tham mưu. Với những tướng lãnh bên cạnh, Đính rõ ràng muốn xoá đi mọi nghi ngờ về sự trung thành của ông ta với phe nổi dậy. Dùng một ngôn ngữ tục tằn cố ý, ông ta quát với Diệm: “Đính này đã cứu bọn quỷ chúng mày nhiều lần rồi, bây giờ thì khỏi, bọn chó đẻ ạ. Bọn mày hết đời rồi. Kết thúc”. Diệm vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng. Qua máy phát thanh trong phủ, ông tiếp tục kêu gọi cứu viện. Ông ta gọi cho những tỉnh trưởng được chọn lọc yêu cầu họ phái quân trừ bị cho ông ta, và ông ta năn nỉ Lực lượng Thanh niên Cộng hoà nổi dậy. Ông ta thậm chí còn cầu xin Hội phụ nữ liên đới của bà Nhu huy động lực lượng để bảo vệ ông ta. Không có ai trả lời. Thay vào đó, những tuyên bố ủng hộ đảo chánh từ khắp nước cứ đổ về. Đến bình minh phe bảo vệ phủ tổng thống kéo cờ trắng. Một lũ binh lính cũng như dân sự, hầu như không dám tin vào thắng lợi của cuộc đảo chánh, đã tràn vào phủ tổng thống. Họ thấy những căn phòng trang hoang sang trọng chỉ còn là đống hỗn độn, và họ tò mò nhìn qua khắp các phòng, ăn cắp đồ ngủ của bà Nhu và rượu whisky của ông Nhu. Phòng ngủ của Diệm bừa bãi những tạp chí phiêu lưu của Mỹ, và trên bàn của Nhu là mấy ấn bản của một cuốn sách có tựa Shoot to Kill (Bắn để giết). Nhưng chẳng ai thấy Diệm và ông em đâu. Khoảng 8 giờ 30, Chợ Lớn đã náo nhiệt và tấp nập hết mức. Diệm và Nhu quyết định tìm chỗ ẩn trốn trong nhà thờ thánh Francico Xavier. Từ chỗ này Diệm gọi điện cho Bộ Tổng tham mưu. Ông ta đề nghị đầu hàng với điều kiện rằng: (1) ông ta được phép đầu hàng trong danh dự, (2) thành viên gia đình ông ta được rời khỏi đất nước, (3) ông ta được tại chức tổng thống trong một khoảng thời gian để rút lui một cách đường hoàng. Một đại diện phe đảo chánh chấp nhận hai điều kiện đầu. Về điều kiện thứ ba, ông ta nói: “Chúng tôi sẽ bàn sau”. Diệm đồng ý và tiết lộ nơi ẩn náu của mình. Chỉ trong vài phút, ba thiết giáp rầm rập chạy xuyên thành phố. Khoảng 9 giờ 45, chúng rẽ vào một con đường cụt dẫn tới nhà thờ. Đích thân chỉ huy nhóm này là tướng Mai Hữu Xuân. Vốn là sĩ quan cảnh sát cao cấp trong chế độ thuộc địa Pháp, Xuân đã bị Diệm đẩy vào một chức vụ nhỏ bé, và ông ta thù ghét tổng thống. Ông ta là một lựa chọn sai cho nhiệm vụ tế nhị này. Nhưng ông ta lại là người duy nhất dám nhận công việc. Khi được yêu cầu đi cùng với Xuân, một tướng lãnh khác đã từ chối, bảo rằng, “Diệm không đáng cần tới hai ông tướng”. Mặc dù chiến đấu quyết liệt chống lại ông ta nhưng các tướng đảo chánh không thể rũ bỏ sự kính trọng đối với Diệm. Khi những chiếc thực hiện tới nhà thờ, những người lính ấy do dự không tràn vào bắt giữ anh em tổng thống ngay. Thayvì thế, họ phái một sĩ quan từng một thời trung thành vào đó để dẫn họ ra. Thấy mặt thuộc hạ trung thành của mình, Diệm và Nhu xuất hiện. Nhóm quân nhân đảo chánh lập tức bắt giữ họ. Hai người bị trói tay ra sau lưng và bị thẳng thừng đẩy vào một trong những chiếc thiết giáp. Vì lý do gì đó không giải thích được, tướng Xuân đã không ngồi cùng xe với Diệm và Nhu. Chiếc xe chở họ nằm dưới quyền chỉ huy của một thiếu tá thiết giáp cao lớn, từng có quan hệ với đảng Đại Việt, một phong trào bất mãn chống đối cả Diệm lẫn Cộng sản. Theo một số người biết chuyện, viên thiếu tá này khao khát muốn trả thù một người bạn thân từng bị Nhu xử tử (Karnow, trong cuốn Vietnam: A History sau này của mình, đã xác định thiếu tá này là Dương Hữu Nghĩa). “Khi chúng tôi chạy xe trở về Bộ Tổng tham mưu", một nhân chứng kể lại với tôi, “Diệm ngồi im lặng, nhưng nhu và ông thiếu tá bắt đầu trở nên dữ dội.Thiếu tá đã ghét ông Nhu từ lâu. Bây giờ ông ta đầy kích động. Đột nhiên ông ta rút lưỡi lê đâm Nhu, rồi cứ thế đâm tiếp, chắc cỡ mười lăm hay hai mươi nhát. Vẫn còn tức giận, ông ta quay sang Diệm, rút súng lục ra và bắn ngay vào đầu. Rồi ông ta nhìn sang Nhu, lúc đó còn nằm trên sàn giãy giụa. Ông ta cũng bồi thêm một viên vào đầu. Cả Diệm lẫn Nhu đều không tự vệ gì được. Họ bị trói tay mà”. Khi chiếc xe thiết giáp tới Bộ Tổng tham mưu với hai cái xác, các tướng lãnh kinh hoàng. Họ không có chút thiện cảm gì với Nhu. Nhưng mặc dù hết kiên nhẫn được với các chính sách của Nhu, họ vẫn luôn kính nể sự can đảm và uy tín của Diệm. Ngoài ra, họ đã hứa cho ông ta được an toàn và bây giờ họ không giữ được lời hứa. Một tướng lãnh khóc công khai, và sau đó tướng Đính kể, “Đêm đó tôi không ngủ được”. Để che giấu mặc cảm tội lỗi, các tướng lãnh ban đầu tuyên bố rằng Diệm và Nhu đã tự sát, một câu chuyện mà về sau được sửa chữa thành “bất cẩn tự sát”. Ở chỗ riêng tư, họ thừa nhận rằng Diệm và Nhu đã bị sát hại. Việc từ chối tuyên bố công khai chuyện thi thể của hai người này được chôn ở đâu càng làm câu chuyện thêm bí ẩn. Người ta tin rằng họ được chôn trong một nghĩa trang nhà tù gần sân bay Sài Gòn. Trong những ngày sau cuộc đảo chánh, một số băng nhóm được tổ chức chặt chẽ đã đập phá toà soạn của những tờ báo thân Diệm, trong đó có tờ Times of Vietnam của người Mỹ (chủ tờ báo, bà Ann Gregory, sau một thời gian rủa xả các “âm mưu” lật đổ Diệm của Mỹ, đã chạy trốn vào Toà đại sứ Mỹ). Tuy nhiên, nhìn chung, dân Sài Gòn biểu lộ sự hài lòng hạn chế. Các cô gái rụt rè mang hoa và thức ăn cho các anh hùng nổi loạn, và các đoàn đại biểu thanh niên thăm viếng các trại lính để đọc những bài diễn văn nghiêm trang cảm ơn những sĩ quan đảo chánh. Quên hẳn lệnh cấm khiêu vũ của bà Nhu, các hộp đêm lao ngay vào những cơn nhảy múa. Các tù nhân chính trị từ từ xuất hiện, một số người kể lại những câu chuyện kinh hoàng. Một thiếu nữ mảnh mai 21 tuổi, bị bắt trong một cuộc biểu tình ủng hộ Phật giáo hồi tháng 9 rồi và bị giam hơn một tháng, kể cho tôi nghe chuyện cảnh sát đã bắt dây điện vào cổ tay, vú và dái tai của cô rồi cho điện giật cô đến bất tỉnh như thế nào trong những lần hỏi cung. Bác sĩ Phan Quang Đán, người từng học ở Harvard, một trong những tay đối lập chính của Diệm, bị giam hai năm trong một căn hầm chỉ có ba mét vuông bên dưới Thảo cầm viên Sài Gòn. Ông Đán kể lại, một ngày vào đầu năm 1961, Nhu đích thân tới gặp để yêu cầu ông ta tuyên bố trung thành với chế độ. Đán từ chối. Nhu liệt kê ra các màn tra tấn mà ông ta sẽ phải chịu, và lệnh đượcthi hành. Ông bác sĩ bị chích điện và trấn nước. Đến tháng 9 rồi, ông ta bị chuyển ra Côn Đảo. “So với căn hầm thì ở đao là quá sang trọng”, bác sĩ Đán nói. “Tôi có thể thấy nắng và nghe những âm thanh khác ngoài tiếng gào rú của những người bị tra tấn”. Trong những ngày sau khi chế độ của Diệm sụp đổ, có nhiều bằng chứng về nền chuyên chế này được đưa ra làm bối rối nhiều người Mỹ. Vì các phóng viên Mỹ đã được nhắc nhở đừng làm mất giá chính phủ này. Nhìn lại thời kỳ đó, một viên chức Mỹ lâu năm ở Sài Gòn không giấu được sự ghê tởm “Vì cái gọi là chủ nghĩa hiện thực, chúng tôi đã từ bỏ các nguyên tắc của mình”, ông ta nói. “Chúng tôi cứ hy vọng nhân dân Việt Nam chịu đựng được một chế độ mà chính chúng ta nếu ở Mỹ thì cũng không chịu đựng nổi trong năm phút. Có lẽ đạo đức phải có một chỗ đứng trong công việc đối ngoại…”</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="vodanhtran03, post: 70294, member: 54609"] Lật đổ Diệm: Tháng 11-1963 SỰ SỤP ĐỔ CỦA DÒNG HỌ NGÔ ĐÌNH Stanley Karnow The Sunday Eyening Post, 21-12-1963 Tại nhà thờ Thánh Francico Xavier xây từ thời Pháp trong Chợ Lớn, khu phố Tàu nhếch nhác của Sài Gòn, buổi lễ ban sáng là dành cho ngày lễ Các linh hồn, ngày của những người đã chết. Vài phút sau khi giáo dân đã ra về, hai người trong bộ đồ lớn xám đậm bước nhanh qua khoảng sân rợp bóng cây và vào nhà thờ. Tổng thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam và ông em Ngô Đình Nhu, cả hai đều mệt mỏi sau một đêm không ngủ, đã trở thành kẻ tị nạn ngay chính tại thủ đô mà họ từng nắm quyền. Trong ngôi nhà thờ hẻo lánh này họ cầu nguyện và rước lễ, và đó là lần nhập phép bí tích cuối cùng của họ. Chưa đầy một giờ sau thi thể đẫm máu, co rúm của họ đã nằm tội nghiệp trên sàn một chiếc xe thiết giáp rầm rập chạy qua đường phố Sài Gòn. Thế là chấm dứt nền thống trị mong manh của gia đình họ Ngô-một chế độ quả đầu ngoan cố, tự thị mà trong tám năm cầm quyền ở Nam Việt Nam, đã suy thoái từ chế độ gia trưởng kém cỏi sang một nền chuyên chế hầu như là điên loạn. Và rồi nền chuyên chế mục nát của Diệm đã sụp đổ một cách dễ dàng đến kinh ngạc. Không lâu sau khi khói lửa binh biến tan đi, chỉ huy của nhóm tướng lãnh đảo chánh đã mời tôi vào văn phòng rộng rãi đầy bản đồ của ông ta. Đại tướng Dương Văn Minh, được người Mỹ ở Sài Gòn gọi là Big Minh, là một quân nhân to lớn, trông mạnh mẽ, với chiếc răng cửa sún là dấu hiệu tự hào cho trò tra tấn của người Nhật mà ông ta đã chịu hồi Thế chiến 2. Ông ta là một con người dịu dàng dễ gây hiểu lầm, và khi nói về vụ đảo chánh đã đưa ông ta lên nắm quyền, rõ ràng có một vẻ phân trần trong giọng nói của ông ta. Cho dù nhóm đảo chánh đối diện vấn đề gì trong tương lai-và sẽ toàn là vấn đề lớn-thì vụ đảo chánh của họ cũng chỉ là một giải pháp thay thế cho chế độ Diệm. Vì thực tế, chính phủ Diệm đã không làm được các chức năng của nó từ lâu trước khi sụp đổ. Là một quan lại khắc kỷ, bảo thủ, Diệm không thể đối phó với hai mối nguy cùng một lúc là du kích Cộng sản và chống đối trong nội bộ ngày càng tăng. Như một vị nhân vật trong bi kịch Shakespeare, ông ta đã ngả theo những bản năng tồi tệ nhất. Ông ra đã rút khỏi thực tế và ngày càng giao nhiều quyền hành hơn cho người em Nhu bệnh hoạn, đầy mưu mô, cùng bà vợ xinh đẹp, kiêu ngạo. Trong tiến trình đó, ông ta dần dần rời xa quân đội, giới trí thức và đám đông quần chúng. Đồng thời, ông ta xa cách với những người nước ngoài trợ giúp ông ta nhiều nhất. Quá quan tâm đến hình ảnh của riêng mình, giáo hội Công giáo của Diệm đã cố tách ra khỏi một chế độ mà một vị cao cấp trong hàng giảo phẩm của Vatican mô tả là “phản động và đầy tính trung cổ”. Quan trọng hơn, qua việc thuận theo các chính sách áp thuế của Nhu, Diệm đã gây hiềm khích với Mỹ, quốc gia đã bỏ tiền bạc và sinh mạng để cứu xứ sở của ông ta. “Chúng tôi muốn thay đổi cách cai trị đất nước này”, một quan chức ngoại giao Mỹ hàng đầu ở Sài Gòn nói. “Nếu những người nắm quyền không có khả năng tự thay đổi, thì chúng tôi ủng hộ sự thay đổi những người nắm quyền đó… Chúng tôi chắc chắn tạo ra môi trường và não trạng có thể thúc đẩy những người chống đối lật đổ ông ta”. Diệm đã sống bên bờ vực kể từ tháng 11-1960 khi các tiểu đoàn nhảy dù thiện chiến bao vây phủ tổng thống và sau đó đã ngây thơ để cho ông ta qua mặt bằng lời hứa sẽ cải cách. Vào tháng 2-1962, hai phi công dùng máy bay chiến đấu tấn công phủ tổng thống khiến nó hư hại nặng. Cuộc tấn công càng khiến ông ta nghi ngờ mọi người ngoại trừ gia đình và một nhóm thân cận. Không ở đâu mà sự nghi ngờ đầy bệnh hoạn của Diệm lại có ảnh hưởng tai hại cho bằng sự nghi ngờ đối với quân đội, nơi mà các sĩ quan được đánh giá theo lòng trung thành hơn là theo khả năng quân sự. Một nghi ngờ tưởng tượng về một ai đó là đủ để làm hoen sự nghiệp của người đó. Ví dụ, một tướng lãnh từng góp sức cứu Diệm trong vụ đảo chánh 1960, sau đó đã bị nghi ngờ vì ông ta đã đi qua trận tuyến của địch quá dễ dàng. Thường xuyên lo sợ các tướng lãnh sẽ lật đổ mình, Diệm đã không cho họ cầm quân. Nhiều tướng lãnh kinh nghiệm như Đại tướng Minh, quân nhân cao cấp nhất nước, đã bị biến thành phụ tá trong phủ tổng thống hoặc nhận những vị trí tham mưu vô hại… … Tuy nhiên, không có gì hủy hoại sâu xa tinh thần chiến đấu của quân đội Nam Việt Nam bằng những biện pháp áp chế của Diệm đối với Phật giáo, lúc đó là cộng đồng tôn giáo đông nhất nước. Suốt mùa hè, trong khi cuộc khủng hoảng Phật giáo đã phát triển thành một phong trào chống đối chính trị rộng rãi đối với chế độ Diệm, một số sĩ quan được bố trí một cách có chiến lược đã bắt đầu tổ chức một cuộc nổi loạn. Có những nhân vật kỳ lạ và không ai ngờ trong số họ. Đại tá Đỗ Mậu, Cục trưởng An ninh quân đội chẳng hạn, bị Diệm nghi ngờ vì có tình cảm thân Phật giáo đến nỗi ông ta cảm thấy buộc lòng phải tham gia âm mưu đảo chánh. Trung tá Phạm Ngọc Thảo, người của Việt Minh, là một trong những người tin cẩn của Diệm, đã miễn cưỡng theo phe chống đối, với niềm tin rằng chỉ làm cho chế độ này sụp đổ thì mới cứu được đất nước. Những người dụ mưu làm việc rất thận trọng. Đôi khi họ gặp nhau tại nhà riêng; thường thì họ nói chuyện ở vùng nông thôn; đôi khi cuộc trao đổi lại xảy ra trong các hộp đêm ồn ào của Sài Gòn. Tới đầu mùa thu, họ đã kiểm soát được một lực lượng mạnh gồm 2.500 lính dù, TQLC, bộ binh và thiết giáp. Tuy nhiên, trong khi những sĩ quan trẻ đang lập kế hoạch đảo chánh thì một nhóm tướng lãnh có uy thế hơn, cầm đầu là Đại tướng Minh, cũng nghiên cứu những cách thức để lật đổ chính phủ. Khi cả hai nhóm tìm cách giành vị trí tốt, các tướng lãnh cũng cho người về các tỉnh để huy động các lực lượng có thể hữu dụng. Đến tháng 8, ngay đỉnh cao của cuộc khủng hoảng Phật giáo, họ đề nghị với Diệm và Nhu rằng nên ban bố thiết quân luật và đưa một số đơn vị quân đội vào Sài Gòn. Họ bí mật dàn xếp để ra lệnh cho các toán quân này nổi dậy. Do liên tục nghi ngờ, Ngô Đình Nhu đã khôn ngoan bác bỏ kế hoạch này. Ông ta chấp nhận ý kiến ban bố thiết quân luật của các tướng lãnh. Nhưng thay vì để họ điều quân lính ở các tỉnh vào, ông ta đã giao quyền kiểm soát quân sự cho Tôn Thất Đính, một tướng lãnh tin cẩn. Dưới sự chỉ huy chiến thuật của Đính, các lực lượng đặc nhiệm và cảnh sát chìm của Nhu đã bố ráp các ngôi chùa trong thành phố ngày 21 tháng 8. Và sau đó, Đính coi mình là anh hùng dân tộc. “Tôi đã đánh bại Henry Cabot Lodge”, ông ta tuyên bố. “Y sang đây để giật dây một vụ đảo chánh, nhưng tôi, Tôn Thất Đính, đã hạ y và cứu đất nước”. Một tuần sau những vụ bố ráp bạo lực vào các chùa, những người âm mưu bạo loạn tại Việt Nam đã rất phấn khởi trước những dấu hiệu rõ rệt cho thấy người Mỹ không còn ưa được chế độ Diệm. Tổng thống Kennedy nói rõ rằng ông ta không tán thành gia đình họ Ngô. Viện trợ Mỹ cho Việt Nam bị cắt giảm, và Đại sứ Lodge nói thẳng với Diệm rằng ông Ngô Đình Nhu nên rút lui. Và trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn, John Richardson, người nằm trong nhóm công tác Mỹ thân cận với Nhu nhất, cũng bị triệu hồi về nước. … Tướng Đính lúc này tuyên bố ông ta vẫn trunh thành với Diệm trong hy vọng sửa đổi được tổng thống. Nhưng nhiều người Việt am hiểu tình hình đất nước nhất định rằng Đín thực ra ở lại với gia đình thống trị này để tham gia vào một âm mưu hoang đường nào đó do Ngô Đình Nhu vạch ra. Mạng lưới dày đặc điệp viên đã cho ông ta biết về những cuộc nổi loạn manh nha, và Nhu lập ra một kế hoạch để kết liễu mọi âm mưu như thế. Đó là cuộc đảo chánh giả mà Nhu gọi là “Chiến dịch Bravo”. “Những vụ đảo chánh cũng giống như những quả trứng, nó phải bị vỡ thì gà con mới chui ra được”, ông ta nói. Vào một ngày đã định trước đầu tháng 11, theo kế hoạch, tư lệnh Lực lượng đặc biệt vốn trung thành với Nhu, Đại tá Lê Quang Tung, sẽ tiến hành một cuộc nổi dậy ở Sài Gòn với sự yểm trợ của những nhóm cảnh sát được tuyển chọn kỹ lưỡng. Diệm, Nhu và những nhân vật chọn lọc trong phủ tổng thống sẽ chạy ra một điểm trú ẩn đã chuẩn bị sẵn ở Vũng Tàu, một điểm nghỉ mát ven biển nằm ở phía đông thủ đô. Tướng Đính và những toán quân trung thành sẽ đóng ở ngoại vi thủ đô. Bên trong Sài Gòn, bạo loạn sẽ lập tức nổ ra. Các băng nhóm tội phạm sẽ cướp bóc và phá phách-nhất là những khu nhà của người Mỹ. Một số thủ lĩnh sinh viên-nhất và phái Phật giáo sẽ có thể bị giết. Trong cơn hỗn loạn ấy, Đại tá Tung “nổi loạn” sẽ thông báo thành lập một “Chính phủ cách mạng" bao gồm những nhân vật đối lập chính trị với Diệm. Cha của bà Nhu, Trần Văn Chương, cựu đại sứ Việt Nam tại Washington nhưng hiện nay là tay công khai chỉ trích chế độ Diệm, sẽ dược phong làm tổng thống của Chính phủ mới-mà không có sự đồng ý của ông ta. Đài phát thanh Sài Gòn sẽ tung ra luận điệu chống Mỹ và chủ trương trung lập đồng thời kêu gọi chấm dứt chiến tranh với Cộng sản. Những trò này được dự trù kéo dài trong 24 giờ. Rồi, từ những vị trí quanh Sài Gòn, các toán quân trung thành sẽ tiến vào thành phố và dễ dàng dẹp tan vụ nổi loạn. Diệm sẽ đắc thắng trở lại thủ đô, lấy lại quyền cai trị hợp pháp của ông ta, và Nhu sẽ có một ngày để ra tay. Vì cú đảo chánh giả sẽ “chứng tỏ” rằng: -Những kẻ chống đối Diệm là bọn trung lập, chống Mỹ và thân Cộng. Do đó người Mỹ đã từ bỏ mọi hy vọng về sự sụp đổ của ông ta. -Những người chống đối chế độ Diệm không kiểm soát nổi những đám đông cướp phá vốn nhằm vào người Mỹ. Chỉ có Diệm là có thể bảo đảm an ninh và trật tự. -Quân đội thực sự ủng hộ Diệm, vì họ không theo phe cách mạng mà còn tấn công dập tắt nổi loạn nữa. Bên cạnh những luận điểm tuyên truyền quan trọng này, Nhu hy vọng rằng vụ “đảo chánh giả” sẽ làm lộ mặt rất nhiều kẻ thù, khiến ông ta có thể nhận ra họ dễ dàng và thanh toán họ trong tương lai. Tuy nhiên, Nhu vừa mới vạch ra kế hoạch hoang đường của mình thì các chi tiết của nó đã lọt tói tai nhiều người. Một số trong bọn họ coi vụ đảo chánh giả là một cơ hội: họ ủng hộ việc tiến hành, rồi nhân đó làm thực. Một số khác không đồng ý vì cho rằng một chiến dịch phức tạp như thế sẽ đưa đến rất nhiều rối loạn và đổ máu. Nhóm sĩ quan trẻ thì quyết định hạ gục Nhu bằng cách đảo chánh thật trước. Ngày tiến hành được quyết định là Thứ Năm, 24 tháng 10. Tuy nhiên, các tướng lãnh phản bác rằng bất kỳ hành động nào mà không có sự hợp tác của tướng Đính và binh đoàn Sài Gòn của ông ta đều sẽ có nguy cơ thất bại. Không thể thuyết phục các sĩ quan trẻ thay đổi kế hoạch, các tướng lãnh đành phá hỏng nó. Họ đưa các trung đoàn chủ chốt vào một chiến dịch tấn công Cộng sản, và các sĩ quan trẻ không có cách nào khác hơn việc tạm hoãn kế hoạch lại. Khi một trong những tay dự mưu trở về nhà ngày 24 tháng 10, anh ta gặp một nhân viên CIA chờ sẵn để hỏi, “Sáng nay sao không tiến hành?” Ngày 29 tháng 10 Đính đã nằm trong phe nổi dậy. Họ bèn giăng một cái bẫy cho Nhu bằng cách cố tình cho ông ta nghe phong thanh về cuộc đảo chính. Tướng Đính phái một trong các phụ tá đến bộ chỉ huy Sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, cách Sài Gòn 60 km về phía tây nam. Viên phụ tá này họp một nhóm sĩ quan của sư đoàn và tuyên bố rằng một cuộc đảo chánh đang được tiến hành ở Sài Gòn. Ông ta nêu tên một số tướng tá dự mưu, cố tình tiết lộ rằng tướng Đính “không có tham gia”. Đúng như Đính và những tướng dự mưu trông đợi, có một tay mật báo trong số các sĩ quan sư đoàn ở Mỹ Tho. Chỉ trong vài giờ, Diệm và Nhu đã nghe tin về âm mưu đang manh nha này. Hôm sau, tướng Đính được triệu vào phủ tổng thống và khuyến cáo rằng có một trong những phụ tá của ông ta là kẻ phản bội. Là một diễn viên tuyệt vời, Đính làm một màn trình diễn ngoạn mục. Khóc lóc và vung tay múa chân, ông ta thề sẽ cho kẻ phản bội đó chết. Nhưng việc xem xét một chuyện đơn giản như vậy lại ngoài tầm hiểu biết của Nhu. Thay vào đó, ông ta lại đề nghị Đính thâm nhập hàng ngũ dự mưu và biến nó thành một vụ phản đảo chánh nhằm vào nhóm dự mưu. Hơn nữa, ông ta còn ra lệnh cho Đính chuẩn bị hành động vào ngày 1 tháng 11-ngày lễ Các thánh-khi moi công sở Sài Gòn sẽ đóng cửa, đường phố sẽ vắng vẻ và việc di chuyển quân đội sẽ dễ dàng hơn. Với điệu bộ của một tay âm mưu bậc thầy, Nhu thông báo rằng kế hoạch này sẽ thay thế cho kế hoạch trước đó của ông ta. Vẫn không đổi, Nhu gọi kế hoạch mới này là “Chiến dịch Bravo II”. Vấn đề trước hết của tướng Đính là kéo bốn đại đội Lực lượng đặc biệt trung thành với Diệm ra khỏi thủ đô. Ông ta lý giải với Đại tá Lê Quang Tung, tư lệnh Lực lượng đặc biệt, rằng phải đưa những toán quân mới vào Sài Gòn cho Chiến dịch Bravo II. “Nhưng nếu chúng ta đưa quân dự bị vào thành phố”, Đính nói tiếp, “người Mỹ sẽ bực bội. Họ sẽ phàn nàn rằng chúng ta không lo chiến đấu với Cộng sản. Nên ta phải nguỵ trang cho kế hoạch bằng cách đưa Lực lượng đặc biệt về nông thôn. Như thế sẽ gạt được họ”. Hôm sau, với sự đồng ý của Diệm, Lực lượng đặc biệt rời Sài Gòn. Như thế một trở ngại lớn cho cuộc đảo chánh đã được tháo gỡ. Bây giờ công việc của Đính là triển khai quân của mình để đảo chánh. Trong khi Diệm và Nhu tưởng rằng ông ta đang chuẩn bị cho kế hoạch, Đính mau chóng điều quân vào và ra Sài Gòn. Ngày đã định là 1 tháng 11; giờ đã định là 1 giờ 30 trưa. Suốt đêm hôm trước và sáng hôm sau, các binh đoàn nổi loạn tức tốc chiếm các vị trí. Hai tiểu đoàn TQLC có thiết giáp đi kèm đã sẵn sàng tấn công đài phát thanh và bộ tư lệnh cảnh sát. Một tiểu đoàn dù, trú đóng tại một điểm nghỉ mát ven biển cách Sài Gòn hơn 100 km, được lệnh ráp nối với các đơn vị phục vụ và thiết giáp và tiến vào thành phố để tấn công các trại vệ binh tổng thống phủ. Bộ binh từ phía tây bắc và tây nam cũng được triệu tập. Khi các cánh quân đã tụ về Sài Gòn, chỉ có những sĩ quan cao cấp mới biết mục đích của cuộc hành quân. “Tôi nói với trước các đại đội trưởng chuyện chúng tôi sắp làm”, một đại tá TQLC sau này kể lại, “nhưng tôi không nói thật với cấp trung đội trưởng. Tôi chỉ nói rằng cảnh sát đang mưu lật đổ Diệm và chúng ta vào cứu tổng thống”. Một trung uý nhảy dù nói: “Khi chúng tôi lên đường, tôi đã đoán đây là đảo chánh nhưng không biết chắc. Chúng tôi đến một điểm chỉ huy ở ngoại ô, và một số đại tá nói rằng mục tiêu là các trại vệ binh tổng thống phủ. ‘Ai bạn ai thù?’ tôi hỏi, va ông ta đáp, ‘Ai chống lại chúng ta là thù’”. Đến giữa buổi sáng 1 tháng 11, toàn bộ khu vực quanh Sài Gòn đầy những di chuyển lặng lẽ, và không biết chính xác chuyện gì đang xảy ra. Khoảng 9 giờ sáng gì đó, chỉ huy Hải quân trung thành với Diệm, Đại uý Hồ Tấn Quyền, có hai thuộc hạ tới chúc mừng sinh nhật. Nhưng sau đó họ đề nghị ông tham gia đảo chánh, và khi ông ta từ chối, họ đã áp tải ông ta ra ngoại ô và bắn chết. Các cố vấn quân sự Mỹ sống chung với quân lính Nam Việt Nam và những cố vấn làm việc với ban tham mưu của tướng Đính biết rõ giờ giấc bùng nổ của cuộc đảo chánh. Họ báo tin này về cho bộ chỉ huy của họ, nhưng tư lệnh quân đội Mỹ, Đại tướng Paul Harkins, rõ ràng không tin điều này. Tuy nhiên, Đại sứ Cabot Lodge có vẻ ít hồ nghi hơn. Lúc 10 giờ sáng, ông ta nhân cuộc viếng thăm Đề đốc Harry Felt, tổng tư lệnh các lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, để gặp Diệm trong một giờ. Đó là lần chạm trán kỳ cục. Cả Diệm và Lodge đều biết một biến cố lớn đang manh nha, và họ nói chuyện quanh “những tin đồn” về một cuộc đảo chánh. Nhưng nếu như Lodge chờ đợi một chyện xảy ra thực, thì Diệm trông vào Chiến dịch Bravo II, cú phản đảo chán phức tạp của ông Nhu. Khi các đơn vị nổi dậy tiến vào vị trí tấn công, các tướng lãnh dự mưu lại dàn xếp một kế hoạch tinh quái khác. Thứ Sáu là ngày họ vẫn hàng tuần ăn trưa với nhau để bàn bạc các vấn đề quân sự. Tại một phòng ăn ở Bộ Tổng tham mưu, họ đặt thêm ghế quanh bàn và mời mấy vị khách đặc biệt, như Đại tá Tư lệnh Lực lượng đặc biệt Lê Quang Tung và những sĩ quan khác trung thành với Diệm. Lúc 1 giờ 30 cuộc đảo chánh bùng nổ, dẫn đầu cuộc tấn công, hai tiểu đoàn TQLC tiến nhanh vào thành phố. Họ mau chóng chiếm đài phát thanh và các đồn cảnh sát, và một sĩ quan phe nổi dậy lên đài thông báo rằng cuộc đảo chánh đã xảy ra. Trong khi đó, tại bữa ăn trưa, các tướng lãnh thông báo cho các sĩ quan có mặt rằng đảo chánh đã bắt đầu và mời họ cùng tham gia. Hầu như mọi người đều đồng ý. Đại tá Tung trung thành với Diệm thẳng thừng từ chối. Khi bị dẫn ra để xử tử, ông ta gào lên với các tướng lãnh, “Hãy nhớ ai đã gắn sao trên cổ áo cho tụi bay”. Tại phủ tổng thống Diệm và Nhu ban đầy nghĩ rằng cú phản đảo chánh của họ đã bắt đầu. Họ hàon toàn tin tưởng rằng tướng Đính vẫn trung thành với mình và như tính toán, ông ta sẽ bắt hết các tay chủ mưu và kiểm soát tình hình. Ví dụ, ngay sau khi tiếng súng nổ ra một viên chức cảnh sát đã điện thoại cho Nhu và hốt hoảng kêu rằng bộ chỉ huy của anh ta bị tấn công. “Không sao đâu”, Nhu trấn an anh ta: “Tôi biết hết rồi”. Tuy nhiên, khi thời gian trôi qua, Diệm và ông em bắt đầu cảm thấy có điều bất thường. Họ nhận được những cú điện thoại của các tướng đảo chánh yêu cầu họ đầu hàng, và họ đã từ chối. Nhưng sau nhiều lần cố liên lạc với tướng Đính để hỏi chừng nào mới bắt đầu vụ phản đảo chánh. Mỗi lần như thế họ chỉ có thất vọng. Đính không có mặt ở văn phòng, mà đang ở Bộ Tổng tham mưu. “Đính chắc đã bị bắt”, Diệm nghe nói như thế, mà vẫn không tưởng tượng được rằng ông tướng đó đã phản bội mình. Lúc quá 4 giờ chiều pháo binh phe đảo chánh bắn vào các trại vệ binh phủ tổng thống, và Diệm biết rằng mình gặp nguy biến. Ông ta điện thoại cho Đại sứ Lodge để báo rằng quân đội đã nổi loạn. Bình thản xác nhận rằng mình có nghe tiếng súng nổ, Lodge bày tỏ lo ngại cho sự an nguy của Diệm và nhắc ông ta nhớ rằng các tướng đảo chánh đã đề nghị cho ông ta được ra nước ngoài bình yên. “Tôi sẽ phục hồi trật tự”, Diệm nạt lại. Lodge đáp: “Nếu tôi có thể làm gì để đảm bảo an toàn cá nhân cho ông thì cứ cho tôi hay”. Nhớ lại vụ vây hãm năm 1960 khi ông ta kiên quyết biến một trận thua chắc chắn thành thắng lợi, Diệm cứ ngoan cố không thay đổi. Qua một máy phát thanh đặc biệt trong phủ tổng thống, ông ta phát đi lời kêu gọi yêu cầu tư lệnh tiểu khu ở các tỉnh cứu viện. Không một ai trả lời. Chỉ cách phủ tổng thống vài dãy phố, các vệ binh của Diệm bị vây hãm, và chính phủ tổng thống cũng bị binh lính cùng thiết giáp bao vây. Diệm đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho đủ kiểu tấn công. Ví dụ, bên dưới phủ tổng thống, gần đây ông ta đã cho xây một hầm trú ẩn tránh bom trị giá đến 200.000 đôla. Ông ta đã xây ba đường hầm dẫn ra khỏi phủ, và ông ta có nhiều kế hoạch rút lui. Khoảng 8 giờ tối, khi phủ đã bị bao vây, Diệm và Nhu theo đường hầm đi ra một khu vực lót gỗ trong Cercle Sportif, câu lạc bộ thể thao của Sài Gòn (nay là Cung văn hoá Lao động TP.HCM). Họ chẳng mang theo gì ngoài một cái cặp nhỏ chứa đầy đôla Mỹ. Ở cửa đường hầm, một nhóm thủ hạ đã chờ sẵn để đưa họ tới nhà một thương gia người Hoa, Mã Tuyên. Ngôi nhà này có đường dây điện thoại trực tiếp với phủ tổng thống. Không lực lượng tấn công cũng như phòng vệ nào biết được rằng đêm đó họ đang giành nhau một phủ tổng thống trống rỗng. Tại nơi ẩn náu trong Chợ Lớn, Diệm và Nhu vẫn hy vọng rằng tướng Đính sẽ cứu họ, và họ kiên trì gọi điện cho ông ta. Đến quá nửa đêm họ mới liên lạc trực tiếp được với ông ta, lần đầu tiên trong ngày, ngay Bộ Tổng tham mưu. Với những tướng lãnh bên cạnh, Đính rõ ràng muốn xoá đi mọi nghi ngờ về sự trung thành của ông ta với phe nổi dậy. Dùng một ngôn ngữ tục tằn cố ý, ông ta quát với Diệm: “Đính này đã cứu bọn quỷ chúng mày nhiều lần rồi, bây giờ thì khỏi, bọn chó đẻ ạ. Bọn mày hết đời rồi. Kết thúc”. Diệm vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng. Qua máy phát thanh trong phủ, ông tiếp tục kêu gọi cứu viện. Ông ta gọi cho những tỉnh trưởng được chọn lọc yêu cầu họ phái quân trừ bị cho ông ta, và ông ta năn nỉ Lực lượng Thanh niên Cộng hoà nổi dậy. Ông ta thậm chí còn cầu xin Hội phụ nữ liên đới của bà Nhu huy động lực lượng để bảo vệ ông ta. Không có ai trả lời. Thay vào đó, những tuyên bố ủng hộ đảo chánh từ khắp nước cứ đổ về. Đến bình minh phe bảo vệ phủ tổng thống kéo cờ trắng. Một lũ binh lính cũng như dân sự, hầu như không dám tin vào thắng lợi của cuộc đảo chánh, đã tràn vào phủ tổng thống. Họ thấy những căn phòng trang hoang sang trọng chỉ còn là đống hỗn độn, và họ tò mò nhìn qua khắp các phòng, ăn cắp đồ ngủ của bà Nhu và rượu whisky của ông Nhu. Phòng ngủ của Diệm bừa bãi những tạp chí phiêu lưu của Mỹ, và trên bàn của Nhu là mấy ấn bản của một cuốn sách có tựa Shoot to Kill (Bắn để giết). Nhưng chẳng ai thấy Diệm và ông em đâu. Khoảng 8 giờ 30, Chợ Lớn đã náo nhiệt và tấp nập hết mức. Diệm và Nhu quyết định tìm chỗ ẩn trốn trong nhà thờ thánh Francico Xavier. Từ chỗ này Diệm gọi điện cho Bộ Tổng tham mưu. Ông ta đề nghị đầu hàng với điều kiện rằng: (1) ông ta được phép đầu hàng trong danh dự, (2) thành viên gia đình ông ta được rời khỏi đất nước, (3) ông ta được tại chức tổng thống trong một khoảng thời gian để rút lui một cách đường hoàng. Một đại diện phe đảo chánh chấp nhận hai điều kiện đầu. Về điều kiện thứ ba, ông ta nói: “Chúng tôi sẽ bàn sau”. Diệm đồng ý và tiết lộ nơi ẩn náu của mình. Chỉ trong vài phút, ba thiết giáp rầm rập chạy xuyên thành phố. Khoảng 9 giờ 45, chúng rẽ vào một con đường cụt dẫn tới nhà thờ. Đích thân chỉ huy nhóm này là tướng Mai Hữu Xuân. Vốn là sĩ quan cảnh sát cao cấp trong chế độ thuộc địa Pháp, Xuân đã bị Diệm đẩy vào một chức vụ nhỏ bé, và ông ta thù ghét tổng thống. Ông ta là một lựa chọn sai cho nhiệm vụ tế nhị này. Nhưng ông ta lại là người duy nhất dám nhận công việc. Khi được yêu cầu đi cùng với Xuân, một tướng lãnh khác đã từ chối, bảo rằng, “Diệm không đáng cần tới hai ông tướng”. Mặc dù chiến đấu quyết liệt chống lại ông ta nhưng các tướng đảo chánh không thể rũ bỏ sự kính trọng đối với Diệm. Khi những chiếc thực hiện tới nhà thờ, những người lính ấy do dự không tràn vào bắt giữ anh em tổng thống ngay. Thayvì thế, họ phái một sĩ quan từng một thời trung thành vào đó để dẫn họ ra. Thấy mặt thuộc hạ trung thành của mình, Diệm và Nhu xuất hiện. Nhóm quân nhân đảo chánh lập tức bắt giữ họ. Hai người bị trói tay ra sau lưng và bị thẳng thừng đẩy vào một trong những chiếc thiết giáp. Vì lý do gì đó không giải thích được, tướng Xuân đã không ngồi cùng xe với Diệm và Nhu. Chiếc xe chở họ nằm dưới quyền chỉ huy của một thiếu tá thiết giáp cao lớn, từng có quan hệ với đảng Đại Việt, một phong trào bất mãn chống đối cả Diệm lẫn Cộng sản. Theo một số người biết chuyện, viên thiếu tá này khao khát muốn trả thù một người bạn thân từng bị Nhu xử tử (Karnow, trong cuốn Vietnam: A History sau này của mình, đã xác định thiếu tá này là Dương Hữu Nghĩa). “Khi chúng tôi chạy xe trở về Bộ Tổng tham mưu", một nhân chứng kể lại với tôi, “Diệm ngồi im lặng, nhưng nhu và ông thiếu tá bắt đầu trở nên dữ dội.Thiếu tá đã ghét ông Nhu từ lâu. Bây giờ ông ta đầy kích động. Đột nhiên ông ta rút lưỡi lê đâm Nhu, rồi cứ thế đâm tiếp, chắc cỡ mười lăm hay hai mươi nhát. Vẫn còn tức giận, ông ta quay sang Diệm, rút súng lục ra và bắn ngay vào đầu. Rồi ông ta nhìn sang Nhu, lúc đó còn nằm trên sàn giãy giụa. Ông ta cũng bồi thêm một viên vào đầu. Cả Diệm lẫn Nhu đều không tự vệ gì được. Họ bị trói tay mà”. Khi chiếc xe thiết giáp tới Bộ Tổng tham mưu với hai cái xác, các tướng lãnh kinh hoàng. Họ không có chút thiện cảm gì với Nhu. Nhưng mặc dù hết kiên nhẫn được với các chính sách của Nhu, họ vẫn luôn kính nể sự can đảm và uy tín của Diệm. Ngoài ra, họ đã hứa cho ông ta được an toàn và bây giờ họ không giữ được lời hứa. Một tướng lãnh khóc công khai, và sau đó tướng Đính kể, “Đêm đó tôi không ngủ được”. Để che giấu mặc cảm tội lỗi, các tướng lãnh ban đầu tuyên bố rằng Diệm và Nhu đã tự sát, một câu chuyện mà về sau được sửa chữa thành “bất cẩn tự sát”. Ở chỗ riêng tư, họ thừa nhận rằng Diệm và Nhu đã bị sát hại. Việc từ chối tuyên bố công khai chuyện thi thể của hai người này được chôn ở đâu càng làm câu chuyện thêm bí ẩn. Người ta tin rằng họ được chôn trong một nghĩa trang nhà tù gần sân bay Sài Gòn. Trong những ngày sau cuộc đảo chánh, một số băng nhóm được tổ chức chặt chẽ đã đập phá toà soạn của những tờ báo thân Diệm, trong đó có tờ Times of Vietnam của người Mỹ (chủ tờ báo, bà Ann Gregory, sau một thời gian rủa xả các “âm mưu” lật đổ Diệm của Mỹ, đã chạy trốn vào Toà đại sứ Mỹ). Tuy nhiên, nhìn chung, dân Sài Gòn biểu lộ sự hài lòng hạn chế. Các cô gái rụt rè mang hoa và thức ăn cho các anh hùng nổi loạn, và các đoàn đại biểu thanh niên thăm viếng các trại lính để đọc những bài diễn văn nghiêm trang cảm ơn những sĩ quan đảo chánh. Quên hẳn lệnh cấm khiêu vũ của bà Nhu, các hộp đêm lao ngay vào những cơn nhảy múa. Các tù nhân chính trị từ từ xuất hiện, một số người kể lại những câu chuyện kinh hoàng. Một thiếu nữ mảnh mai 21 tuổi, bị bắt trong một cuộc biểu tình ủng hộ Phật giáo hồi tháng 9 rồi và bị giam hơn một tháng, kể cho tôi nghe chuyện cảnh sát đã bắt dây điện vào cổ tay, vú và dái tai của cô rồi cho điện giật cô đến bất tỉnh như thế nào trong những lần hỏi cung. Bác sĩ Phan Quang Đán, người từng học ở Harvard, một trong những tay đối lập chính của Diệm, bị giam hai năm trong một căn hầm chỉ có ba mét vuông bên dưới Thảo cầm viên Sài Gòn. Ông Đán kể lại, một ngày vào đầu năm 1961, Nhu đích thân tới gặp để yêu cầu ông ta tuyên bố trung thành với chế độ. Đán từ chối. Nhu liệt kê ra các màn tra tấn mà ông ta sẽ phải chịu, và lệnh đượcthi hành. Ông bác sĩ bị chích điện và trấn nước. Đến tháng 9 rồi, ông ta bị chuyển ra Côn Đảo. “So với căn hầm thì ở đao là quá sang trọng”, bác sĩ Đán nói. “Tôi có thể thấy nắng và nghe những âm thanh khác ngoài tiếng gào rú của những người bị tra tấn”. Trong những ngày sau khi chế độ của Diệm sụp đổ, có nhiều bằng chứng về nền chuyên chế này được đưa ra làm bối rối nhiều người Mỹ. Vì các phóng viên Mỹ đã được nhắc nhở đừng làm mất giá chính phủ này. Nhìn lại thời kỳ đó, một viên chức Mỹ lâu năm ở Sài Gòn không giấu được sự ghê tởm “Vì cái gọi là chủ nghĩa hiện thực, chúng tôi đã từ bỏ các nguyên tắc của mình”, ông ta nói. “Chúng tôi cứ hy vọng nhân dân Việt Nam chịu đựng được một chế độ mà chính chúng ta nếu ở Mỹ thì cũng không chịu đựng nổi trong năm phút. Có lẽ đạo đức phải có một chỗ đứng trong công việc đối ngoại…” [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Những phóng sự về chiến tranh Việt Nam
Top