Trả lời chủ đề

12. Tia X

Wihelm Roentgen bên cạnh bức ảnh X Quang.

Wihelm Roentgen bên cạnh bức ảnh X Quang.


Vào năm 1895, một nhà vật lý người Đức tên Wihelm Roentgen đã thử nghiệm với một ống tia cathode.


Cho dù chiếc ống đã được che, ông thấy màn huỳnh quang ở gần đó sẽ phát sáng khi ống được bật và phòng tối. Bằng một cách nào đó, các tia đã chiếu sáng cái màn.


Roentgen đã cố bằng mọi cách để ngăn các tia này, nhưng hầu như vật dụng gì được đặt trước nó đều không có tác dụng.


Khi ông đặt tay của mình trước ống, ông nhận ra rằng xương của mình hiển thị lên chiếc màn đó. Roentgen liền thay chiếc ống bằng một tấm chụp hình để có thể chụp lấy hình ảnh, tạo ra ảnh X quang đầu tiên trên thế giới.


Công nghệ này sau đó đã được sử dụng bởi các tổ chức y học và các trung tâm nghiên cứu, cho dù việc phát hiện ra tác hại của phóng xạ X quang phải mất một thời gian để tìm hiểu.


13. Vaseline

Robert Chesebrough và quảng cáo về Vaseline của mình.

Robert Chesebrough và quảng cáo về Vaseline của mình.


Năm 1859, nhà hóa học 22 tuổi Robert Chesebrough đang điều tra một giếng dầu tại Pennsylvania khi ông nghe được lời đồn của các công nhân: một hợp chất dẻo được biết như "sáp khoan" đang chui vào trong các thiết bị và khiến chúng bị hỏng.


Nhưng không chỉ thế, hợp chất này còn được dùng cho nhiều ứng dụng. Chesebrough để ý rằng các công nhân đã dùng loại sáp này để làm dịu các vết cắt trên da, nên anh đã đem một ít về để thử.


Thông qua hàng loạt thí nghiệm, tới nay hợp chất "petrolium jelly" này được biết với cái tên Vaseline.


14. Insulin

Chú chó đã giúp ngành y học phát triển.

Chú chó đã giúp ngành y học phát triển.


Phát hiện về insulin theo các nhà nghiên cứu được coi là một phát hiện ngẫu nhiên.


Vào năm 1889, hai bác sĩ tại đại học Strasbourg, Oscar Minkowski và Josef von Mering đang tìm hiểu về cách tuyến tụy hỗ trợ tiêu hóa, nên họ đã loại bỏ cơ quan này khỏi một chú chó khỏe mạnh.


Vào ngày sau, họ nhận ra một điều bất thường - một lượng lớn ruồi đã được thu hút xung quanh nước tiểu của chú chó này.


Khi xét nghiệm nước tiểu, kết quả cho thấy trong dung dịch có chưa đường - bằng cách loại bỏ tuyến tụy, chú chó đã bị bệnh béo phì.


Cả hai đều không biết rằng tuyến tụy đã điều tiết đường trong máu như thế nào, nhưng sau một loạt thí nghiệm khác từ năm 1920 tới 1922, các nhà nghiên cứu tại đại học Toronto đã tách được chất bài tiết ra từ cơ quan này - và đặt tên là insulin.


Đội ngũ nghiên cứu đã được trao thưởng giải Nobel, và trong vòng 1 năm công ty y dược Eli Lilly đã bắt đầu sản xuất và bán insulin.


15. Keo siêu bền

Harry Coover và các sản phẩm của mình.

Harry Coover và các sản phẩm của mình.


Khi Harry Coover Jr. tìm ra keo siêu bền thông qua hàng loạt thử nghiệm để tìm ra một ống kính trong suốt dành cho súng vào thế chiến thứ 2.


Ông đã thử nghiệm qua một họ hóa học gọi là acrylat, nhưng thấy công thức của mình quá dính và bỏ qua hợp chất đó.


Vào năm 1951, Coover đã xem xét lại họ acrylat này nhằm phát triển một lớp chống nhiệt cho buồng lái máy bay. Một ngày, đồng nghiệp Fred Joyner đã phết hợp chất acrylat vào giữa hai thấu kính để xét nghiệm bằng một khúc xạ kế, nhưng đột nhiên không thể tách nó ra nữa. Coover đã nhìn ra được triển vọng của nó từ tai nạn này, và sau vài năm nó được bày bán trên thị trường với tên Super Glue (Keo siêu bền).


16. Kính chắn gió an toàn của ô tô

Thử nghiệm kính an toàn.

Thử nghiệm kính an toàn.


Năm 1903, Edouard Benedictus, một nhà khoa học người Pháp đã đánh rơi một lọ chứa hợp dung dịch nitrat cellulose, một dạng chất nhựa lỏng. Chiếc lọ vỡ ngay lập tức, và dung dịch này bốc hơi - nhưng không hề có mảnh vỡ nào bị bắn ra ngoài.


Benedictus cho rằng lớp nhựa này đã giữ các mảnh kính lại đúng như hình chiếc lọ. Đây được coi là loại kính an toàn đầu tiên được thiết kế - một ứng dụng được dùng rất nhiều trong kính chắn gió, kính bảo vệt mắt và nhiều hơn nữa.


17. Mảnh vảy ngô

Lịch sử của mảnh vảy ngô (Cornflakes) làm từ bột ngô nướng có từ thế kỷ 19. Chủ sở hữu nhà điều dưỡng Battle Creek ở Michigan, tiến sĩ Kellogg và anh trai Will Keith Kellogg, đang chuẩn bị một món bột ngô, nhưng họ cần phải rời đi vì nhu cầu cấp thiết của nhà khách.


Mảnh vảy ngô

Mảnh vảy ngô làm từ bột ngô nướng có từ thế kỷ 19.


Khi trở về, họ thấy rằng số bột ngô đã sắp hỏng, nhưng vẫn quyết định nhồi bột ngô, tuy nhiên đám bột vón cục và biển thành những mảnh bột nhỏ. Tuyệt vọng, hai anh em chiên những mảnh bột trông giống vảy cá này, và thật bất ngờ, một số mảnh phồng lên như bỏng ngô, một số trở thành những mảnh cốm nhỏ giòn với vị dễ chịu.


Sau đó, những mảnh bột ngô này được cung cấp cho bệnh nhân của bác sĩ Kellogg như một món ăn mới, được ăn cùng với sữa, kẹo dẻo và trở nên rất phổ biến.


Bằng cách thêm đường vào, Will Keith Kellogg đã làm cho hương vị của chúng dễ chấp nhận hơn với nhiều đối tượng.


Như thế vào năm 1894, bằng sáng chế cho món vảy ngô độc đáo đã được cấp cho bác sĩ Mỹ John Harvey Kellogg. Năm 1906, Kellogg bắt đầu sản xuất hàng loạt loại thực phẩm mới và thành lập công ty riêng.

Nguồn ST


Top