Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học Tổng quát
Những hành vi tự làm hại bản thân
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="rubi_mos2002" data-source="post: 151358" data-attributes="member: 50878"><p><span style="font-family: 'Arial'">Tham khảo sách “Social psychology & Human Nature” – Roy F. Baumeister</span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Con người đôi lúc làm những việc đem lại thất bại, đau khổ hoặc bất hạnh cho bản thân họ. Thuật ngữ tâm lý học dùng để chỉ về những hành động đó được gọi là “<strong>Hành vi tự làm hại bản thân</strong>” (self-defeating behavior). Trong ngôn ngữ đời thường, khi người ta nói 1 ai đó đã làm điều gì “ngu ngốc”, họ thường ám chỉ đó là sự tự làm hại bản thân. Những hành vi “ngu ngốc” là những hành vi (có thể dự đoán được) mang lại 1 số kết quả trái ngược với những điều mà người đó theo đuổi.</span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Hành vi tự làm hại bản thân là nghịch lý. Nhưng tại sao hành vi tự làm hại bản thân lại vẫn tiếp tục hoặc tồn tại? Nếu hành động lý trí có nghĩa là làm điều gì đó có lợi cho bản thân thì làm thế nào những động vật lý trí lại làm những việc có hại hoặc gây bất lợi cho bản thân?</span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Chúng ta không phủ nhận là con người làm rất nhiều việc có hại cho bản thân. Nhiều người hút thuốc khiến họ bị ung thư phổi. Họ ăn thức ăn không lành mạnh làm tuổi thọ của họ bị rút ngắn. Họ quan hệ tình dục bừa bãi làm tăng nguy cơ mắc bệnh hoặc mang thai ngoài ý muốn. Họ lãng phí tiền vào cờ bạc...</span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Hành vi tự làm hại bản thân từ lâu đã thu hút các nhà tâm lý học, vì nó dường như nghịch lí. Nhiều lí thuyết giả định rằng những quá trình tâm lý được thiết kế để làm tăng sự an toàn, hạnh phúc và làm tăng cơ hội sinh tồn và sinh sản. Hành vi tự làm hại bản thân thì ngược lại. Nó thách thức lý thuyết tâm lý học để giải thích làm thế nào hành vi tự làm hại bản thân có thể phù hợp với giả định chung là con người hành xử theo những cách có tính thích nghi, lý trí và có lợi cho bản thân. Nhiều lí thuyết được nêu ra, bao gồm kết luận nổi tiếng của Freud (1920/1964) rằng con người có 1 “bản năng chết” thúc đẩy họ theo đuổi cái chết và sự sụp đổ của riêng họ. Lí thuyết “sợ thành công” của Matina Horner (1972) nói rằng nhiều phụ nữ trẻ tin là nếu họ trở nên quá thành công trong công việc thì họ sẽ kết thúc là cô đơn, bị từ chối, không thể tìm bạn đời. Vì nỗi sợ thành công này nên nhiều phụ nữ tự làm hại sự nghiệp của họ.</span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Sau nhiều thập kỉ nghiên cứu, các nhà tâm lý học xã hội đã bắt đầu thiết lập những sự thật quan trọng về hành vi tự làm hại bản thân. <strong>Kết luận đầu tiên là con người gần như không bao giờ trực tiếp tìm kiếm thất bại, đau khổ hoặc bất hạnh</strong>. Lý thuyết của Freud về bản năng chết rõ ràng là sai. Nhiều người có thể có những hành động tự làm hại bản thân nhưng họ không làm chúng với ý định tự làm hại bản thân. Và nhiều nghiên cứu được kiểm soát cẩn thận đã bác bỏ lí thuyết “nỗi sợ thất bại” (Hyland, 1989). Không có dấu hiệu nào cho thấy đàn ông hoặc phụ nữ cố tình làm hại sự nghiệp hoặc công việc của họ vì họ ý thức (hoặc vô thức) sợ thành công sẽ có hại cho họ.</span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Thay vào đó, có 2 lí do chính cho hành vi tự làm hại bản thân. 1 trong số đó liên quan đến sự cân bằng: <strong>Đôi khi những kết quả tốt và xấu có liên kết với nhau, và để lấy được kết quả tốt, đáng khao khát, con người chấp nhận kết quả xấu</strong>. Ví dụ về hút thuốc lá minh họa cho điều này. Hút thuốc gây ung thư và những bệnh khác, nhưng hầu như không có ai hút thuốc để mắc bệnh ung thư. Con người hút thuốc vì những niềm vui và phần thưởng của hút thuốc, bao gồm những cảm giác thoái mái và ngay lập tức gây ra bởi nicotine, và những lợi ích khác như gây ấn tượng với người khác là họ quyến rũ, trưởng thành. Họ chấp nhận 1 số nguy cơ của bệnh ung thư phổi để thu được những lợi ích đó.</span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><strong>Đặc biệt khi phần thưởng đến ngay lập tức và cái giá phải trả bị trì hoãn</strong>. Thuốc lá đem lại niềm vui ngay tức khắc trong khi bệnh ung thư và cái chết do chúng mang lại nằm ở tương lai xa. Nhiều hành động tự làm hại bản thân có đặc điểm này, hy sinh tương lai vì lợi ích trong hiện tại. </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><strong>Con đường thứ 2 của hành vi tự làm hại bản thân liên quan đến kiến thức sai và dựa vào những chiến lược không hiệu quả</strong>. Thường thì con người không đủ hiểu biết về cái gì là có hiệu quả trong thế giới, hoặc vì họ không hiểu thế giới hoặc họ không hiểu bản thân họ 1 cách chính xác. Ví dụ, 1 số người trì hoãn vì họ tin là “Tôi làm việc có năng suất nhất khi chịu áp lực” (Ferrari, johnson, & McCown, 1995), công việc bị để lại đến phút cuối thì sẽ khiến tôi làm việc tốt hơn. Điều này nhìn chung là sai: Nó làm họ thực hiện công việc kém hơn (Tica & Baumeister, 1997). </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p style="text-align: right"></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="rubi_mos2002, post: 151358, member: 50878"] [FONT=Arial]Tham khảo sách “Social psychology & Human Nature” – Roy F. Baumeister Con người đôi lúc làm những việc đem lại thất bại, đau khổ hoặc bất hạnh cho bản thân họ. Thuật ngữ tâm lý học dùng để chỉ về những hành động đó được gọi là “[B]Hành vi tự làm hại bản thân[/B]” (self-defeating behavior). Trong ngôn ngữ đời thường, khi người ta nói 1 ai đó đã làm điều gì “ngu ngốc”, họ thường ám chỉ đó là sự tự làm hại bản thân. Những hành vi “ngu ngốc” là những hành vi (có thể dự đoán được) mang lại 1 số kết quả trái ngược với những điều mà người đó theo đuổi. Hành vi tự làm hại bản thân là nghịch lý. Nhưng tại sao hành vi tự làm hại bản thân lại vẫn tiếp tục hoặc tồn tại? Nếu hành động lý trí có nghĩa là làm điều gì đó có lợi cho bản thân thì làm thế nào những động vật lý trí lại làm những việc có hại hoặc gây bất lợi cho bản thân? Chúng ta không phủ nhận là con người làm rất nhiều việc có hại cho bản thân. Nhiều người hút thuốc khiến họ bị ung thư phổi. Họ ăn thức ăn không lành mạnh làm tuổi thọ của họ bị rút ngắn. Họ quan hệ tình dục bừa bãi làm tăng nguy cơ mắc bệnh hoặc mang thai ngoài ý muốn. Họ lãng phí tiền vào cờ bạc... Hành vi tự làm hại bản thân từ lâu đã thu hút các nhà tâm lý học, vì nó dường như nghịch lí. Nhiều lí thuyết giả định rằng những quá trình tâm lý được thiết kế để làm tăng sự an toàn, hạnh phúc và làm tăng cơ hội sinh tồn và sinh sản. Hành vi tự làm hại bản thân thì ngược lại. Nó thách thức lý thuyết tâm lý học để giải thích làm thế nào hành vi tự làm hại bản thân có thể phù hợp với giả định chung là con người hành xử theo những cách có tính thích nghi, lý trí và có lợi cho bản thân. Nhiều lí thuyết được nêu ra, bao gồm kết luận nổi tiếng của Freud (1920/1964) rằng con người có 1 “bản năng chết” thúc đẩy họ theo đuổi cái chết và sự sụp đổ của riêng họ. Lí thuyết “sợ thành công” của Matina Horner (1972) nói rằng nhiều phụ nữ trẻ tin là nếu họ trở nên quá thành công trong công việc thì họ sẽ kết thúc là cô đơn, bị từ chối, không thể tìm bạn đời. Vì nỗi sợ thành công này nên nhiều phụ nữ tự làm hại sự nghiệp của họ. Sau nhiều thập kỉ nghiên cứu, các nhà tâm lý học xã hội đã bắt đầu thiết lập những sự thật quan trọng về hành vi tự làm hại bản thân. [B]Kết luận đầu tiên là con người gần như không bao giờ trực tiếp tìm kiếm thất bại, đau khổ hoặc bất hạnh[/B]. Lý thuyết của Freud về bản năng chết rõ ràng là sai. Nhiều người có thể có những hành động tự làm hại bản thân nhưng họ không làm chúng với ý định tự làm hại bản thân. Và nhiều nghiên cứu được kiểm soát cẩn thận đã bác bỏ lí thuyết “nỗi sợ thất bại” (Hyland, 1989). Không có dấu hiệu nào cho thấy đàn ông hoặc phụ nữ cố tình làm hại sự nghiệp hoặc công việc của họ vì họ ý thức (hoặc vô thức) sợ thành công sẽ có hại cho họ. Thay vào đó, có 2 lí do chính cho hành vi tự làm hại bản thân. 1 trong số đó liên quan đến sự cân bằng: [B]Đôi khi những kết quả tốt và xấu có liên kết với nhau, và để lấy được kết quả tốt, đáng khao khát, con người chấp nhận kết quả xấu[/B]. Ví dụ về hút thuốc lá minh họa cho điều này. Hút thuốc gây ung thư và những bệnh khác, nhưng hầu như không có ai hút thuốc để mắc bệnh ung thư. Con người hút thuốc vì những niềm vui và phần thưởng của hút thuốc, bao gồm những cảm giác thoái mái và ngay lập tức gây ra bởi nicotine, và những lợi ích khác như gây ấn tượng với người khác là họ quyến rũ, trưởng thành. Họ chấp nhận 1 số nguy cơ của bệnh ung thư phổi để thu được những lợi ích đó. [B]Đặc biệt khi phần thưởng đến ngay lập tức và cái giá phải trả bị trì hoãn[/B]. Thuốc lá đem lại niềm vui ngay tức khắc trong khi bệnh ung thư và cái chết do chúng mang lại nằm ở tương lai xa. Nhiều hành động tự làm hại bản thân có đặc điểm này, hy sinh tương lai vì lợi ích trong hiện tại. [B]Con đường thứ 2 của hành vi tự làm hại bản thân liên quan đến kiến thức sai và dựa vào những chiến lược không hiệu quả[/B]. Thường thì con người không đủ hiểu biết về cái gì là có hiệu quả trong thế giới, hoặc vì họ không hiểu thế giới hoặc họ không hiểu bản thân họ 1 cách chính xác. Ví dụ, 1 số người trì hoãn vì họ tin là “Tôi làm việc có năng suất nhất khi chịu áp lực” (Ferrari, johnson, & McCown, 1995), công việc bị để lại đến phút cuối thì sẽ khiến tôi làm việc tốt hơn. Điều này nhìn chung là sai: Nó làm họ thực hiện công việc kém hơn (Tica & Baumeister, 1997). [/FONT] [RIGHT][/RIGHT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học Tổng quát
Những hành vi tự làm hại bản thân
Top