Bài 1: Người xây dựng cơ sở “Biệt động thành”
Đại tá Trần Minh Sơn
Thời chống Mỹ, ở Sài Gòn - Gia Định có một lực lượng mà chiến công của họ đã khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Những chiến sĩ biệt động quả cảm thời ấy mãi mãi được lịch sử ghi nhận. Biết bao người từ những cơ sở đầu tiên đã âm thầm xây dựng để có thể cho ra đời các đội biệt động vang tiếng một thời. Và Đại tá Trần Minh Sơn, nguyên Phó chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng, phân khu Biệt động Sài Gòn - Gia Định là một trong những người như thế.
Một thời không quên
Hơn nửa cuộc đời hoạt động trong một đơn vị tinh nhuệ của Sài Gòn, người chỉ huy đội biệt động Trần Minh Sơn có cho riêng mình cả một thiên tiểu thuyết. Sinh năm 1925 tại Biên Hòa (Đồng Nai), ông vào bộ đội từ thời kháng chiến chống Pháp năm 1945 trong Đội 10 của Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ. Năm 1948, ông được cử đi học tại Trường Quân chính (QK7), sau đó được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Quân chính ở đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Một thời gian sau, cấp trên điều ông ra Bắc để làm trợ lý tác chiến cho Sư đoàn 338.
Tháng 1-1961, ông Sơn lại được chọn vào miền Nam trong khung của Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn, với cương vị trưởng ban tác chiến của phân khu, trực thuộc Đoàn Phương Đông 1 - đoàn đầu tiên được bố trí vào Nam chiến đấu chống Mỹ (Đoàn Phương Đông 1 gồm có 6 phân khu: 5, 6, 7, 8, 9 và phân khu Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Trần Văn Quang - Tư lệnh Đoàn Phương Đông 1 và Tướng Trần Lương - chính trị viên). Sau khi quay trở lại miền Nam, ông được cấp trên giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng biệt động cùng với hai đồng chí khác là Đoàn Thanh Long và Trần Thanh Đạt nhằm ráp nối các cơ sở biệt động thời chống Pháp để thành lập các đội biệt động phục vụ cho quá trình chống Mỹ. Lúc đó, lực lượng nòng cốt gồm có ông Sáu Thành, Anh hùng Đỗ Tấn Phong (biệt danh Ba Phong), Anh hùng Ngô Thành Vân (Ba Đen), Anh hùng Lê Tấn Quốc (Nhất Sứ), Anh hùng Phạm Văn Hai (Cải Nhì), Anh hùng Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu), Ba Hòa, Tư Dò… Nhiệm vụ chính của đội Biệt động thành là thường xuyên tổ chức các trận đánh có hiệu quả nhằm diệt lính và thu vũ khí của địch; chuẩn bị phối hợp với các lực lượng khác tập kích vào các cơ quan đầu não của Mỹ - Ngụy; huấn luyện cơ bản, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Cách đánh tiêu biểu của Biệt động thành là nổ chậm, cường tập và pháo kích.
Sau trận Bình Giã - Long Đất - Vũng Tàu, Đảng ta chủ trương kết thúc cuộc “Chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ đề ra vì nhận định rằng: “Quân chủ lực của ta có thể tiêu diệt quân chủ lực địch”. Từ nay, Trung ương Cục chỉ đạo lực lượng thành phố chuẩn bị kết thúc chiến tranh. Các đội biệt động nhanh chóng được thành lập (từ đội 1 đến đội 11) để tác chiến với 2 đơn vị bảo đảm A20 (chịu trách nhiệm ở khu vực nội thành) và A30 (đơn vị vận chuyển quân, tư trang từ ngoại thành vào nội thành) gọi chung là F100 do Đại úy Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) chỉ huy. Đây là lực lượng chủ lực Biệt động Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn sau này. “Ngày ấy, xây dựng được một căn cứ biệt động không phải là dễ. Để đưa khoảng 2 tấn đạn dược ra ngoài, các chiến sĩ phải đào 2 năm mới xong bởi mỗi ngày chỉ đào được chừng nửa xẻng đất rồi lén bỏ đi vì sợ bị lộ”, ông Sơn kể.
“Tôi còn nợ đồng đội”
Khi chúng tôi nhắc đến những đồng đội của ông, nét mặt Đại tá Trần Minh Sơn chợt buồn: “Phần lớn đồng đội tôi đã qua đời! Nhiều người hy sinh trong các trận đột kích, số còn lại cũng ra đi vì thời gian”. Mân mê tấm hình của đồng đội trên tay, ông Sơn hòa mình vào những kỷ niệm thời chinh chiến. Vào năm 1968, sau khi cấp trên ra lệnh phải đánh các căn cứ điểm trọng yếu của địch, các đội biệt động được tập hợp để nhận nhiệm vụ. Đội 3 do đồng chí Nguyễn Gia Lộc chỉ huy có nhiệm vụ đánh vào Đài phát thanh; đội 4 do đồng chí Nguyễn Văn Lém chỉ huy đánh Bộ Tư lệnh Hải quân, đội 5 do đồng chí Tô Hoài Thanh chỉ huy đánh Tổng Dinh Độc Lập, Đội 679 đánh Bộ Tổng tham mưu địch. Tuy nhiên, sau khi khảo sát tình hình vào ngày 22-12-1968, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó là lãnh đạo của khu Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn quyết định đánh thêm một cứ điểm nữa là Đại sứ quán Mỹ vì theo ông, nếu quân ta đánh vào các căn cứ trọng yếu mà không đánh vào Đại sứ quán Mỹ thì xem như chưa đánh. Ngay lập tức, đội 11 được thành lập, đồng chí Ngô Thành Vân (Ba Đen) và hạ cấp được lệnh đánh vào Đại sứ quán Mỹ. Ở thời điểm đó, hầu hết nhân lực đã được sắp xếp vào các đội, nên đội 11 lâm vào tình trạng thiếu người trầm trọng. Thấy vậy, 7 nhân viên từ lực lượng bảo vệ, đánh máy, văn thư… của phân khu Biệt động Sài Gòn - Gia Định đã xung phong đánh trận này. Đội 11 bao gồm 17 đồng chí, trong đó có 9 người được cấp trên tăng cường, còn lại là các binh sĩ nghiệp dư. Ngày 28 và 29-12, sau khi được huấn luyện tại Củ Chi, các đồng chí được đưa lên Sài Gòn làm giấy tờ để chuẩn bị vào trận trong dịp Tết Mậu Thân 1968.
Sau 2 ngày 1 đêm chiến đấu anh dũng, đội 11 đã đánh chiếm được tòa đại sứ quán, làm tiêu hao sinh lực địch. Quân địch ngay lập tức được chi viện thêm 2 tiểu đoàn, có xe bọc thép, súng ống tối tân làm hậu thuẫn để phản công. Các chiến sĩ của ta đã anh dũng hy sinh, còn lại chỉ huy trưởng Ngô Thành Vân sống sót bị địch bắt làm tù binh. Trong trận đánh lịch sử này, quân địch đã bị đánh tới sào huyệt cuối cùng. Người Mỹ lúc bấy giờ tự hỏi nhau “Sao đột nhiên lại có một đội quân từ lòng đất chui lên. Từ những công dân đến các anh lao công trên đường phố… đều cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm đến vậy”. Những chiến sĩ biệt động thành đã khiến cả thế giới biết đến và thán phục.
Khi kể về những đồng đội đã hy sinh, ông Sơn cảm thấy bản thân nợ các đồng đội quá nhiều vì chưa tìm được hồ sơ của họ để báo về cho gia đình. Tuy đã bước sang tuổi 85 nhưng ông vẫn luôn hy vọng đến một ngày nào đó sẽ tìm được các tài liệu về đồng đội của mình.
Chia tay ông - người chiến sĩ biệt động thành năm xưa - trong cái bắt tay rất chặt, chúng tôi thấy ánh mắt ông đang cười với niềm tin vào tương lai của đất nước, và ông tin những người đã ngã xuống vì nền hòa bình của quê hương cũng có suy nghĩ như mình.
Xin chúc người chỉ huy đội đặc công biệt động thành Trần Minh Sơn mãi khỏe mạnh để tôi lại được nghe ông kể tiếp những trang sử vàng của dân tộc.
Đại tá Trần Minh Sơn
Một thời không quên
Hơn nửa cuộc đời hoạt động trong một đơn vị tinh nhuệ của Sài Gòn, người chỉ huy đội biệt động Trần Minh Sơn có cho riêng mình cả một thiên tiểu thuyết. Sinh năm 1925 tại Biên Hòa (Đồng Nai), ông vào bộ đội từ thời kháng chiến chống Pháp năm 1945 trong Đội 10 của Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ. Năm 1948, ông được cử đi học tại Trường Quân chính (QK7), sau đó được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Quân chính ở đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Một thời gian sau, cấp trên điều ông ra Bắc để làm trợ lý tác chiến cho Sư đoàn 338.
Tháng 1-1961, ông Sơn lại được chọn vào miền Nam trong khung của Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn, với cương vị trưởng ban tác chiến của phân khu, trực thuộc Đoàn Phương Đông 1 - đoàn đầu tiên được bố trí vào Nam chiến đấu chống Mỹ (Đoàn Phương Đông 1 gồm có 6 phân khu: 5, 6, 7, 8, 9 và phân khu Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Trần Văn Quang - Tư lệnh Đoàn Phương Đông 1 và Tướng Trần Lương - chính trị viên). Sau khi quay trở lại miền Nam, ông được cấp trên giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng biệt động cùng với hai đồng chí khác là Đoàn Thanh Long và Trần Thanh Đạt nhằm ráp nối các cơ sở biệt động thời chống Pháp để thành lập các đội biệt động phục vụ cho quá trình chống Mỹ. Lúc đó, lực lượng nòng cốt gồm có ông Sáu Thành, Anh hùng Đỗ Tấn Phong (biệt danh Ba Phong), Anh hùng Ngô Thành Vân (Ba Đen), Anh hùng Lê Tấn Quốc (Nhất Sứ), Anh hùng Phạm Văn Hai (Cải Nhì), Anh hùng Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu), Ba Hòa, Tư Dò… Nhiệm vụ chính của đội Biệt động thành là thường xuyên tổ chức các trận đánh có hiệu quả nhằm diệt lính và thu vũ khí của địch; chuẩn bị phối hợp với các lực lượng khác tập kích vào các cơ quan đầu não của Mỹ - Ngụy; huấn luyện cơ bản, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Cách đánh tiêu biểu của Biệt động thành là nổ chậm, cường tập và pháo kích.
Sau trận Bình Giã - Long Đất - Vũng Tàu, Đảng ta chủ trương kết thúc cuộc “Chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ đề ra vì nhận định rằng: “Quân chủ lực của ta có thể tiêu diệt quân chủ lực địch”. Từ nay, Trung ương Cục chỉ đạo lực lượng thành phố chuẩn bị kết thúc chiến tranh. Các đội biệt động nhanh chóng được thành lập (từ đội 1 đến đội 11) để tác chiến với 2 đơn vị bảo đảm A20 (chịu trách nhiệm ở khu vực nội thành) và A30 (đơn vị vận chuyển quân, tư trang từ ngoại thành vào nội thành) gọi chung là F100 do Đại úy Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) chỉ huy. Đây là lực lượng chủ lực Biệt động Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn sau này. “Ngày ấy, xây dựng được một căn cứ biệt động không phải là dễ. Để đưa khoảng 2 tấn đạn dược ra ngoài, các chiến sĩ phải đào 2 năm mới xong bởi mỗi ngày chỉ đào được chừng nửa xẻng đất rồi lén bỏ đi vì sợ bị lộ”, ông Sơn kể.
“Tôi còn nợ đồng đội”
Khi chúng tôi nhắc đến những đồng đội của ông, nét mặt Đại tá Trần Minh Sơn chợt buồn: “Phần lớn đồng đội tôi đã qua đời! Nhiều người hy sinh trong các trận đột kích, số còn lại cũng ra đi vì thời gian”. Mân mê tấm hình của đồng đội trên tay, ông Sơn hòa mình vào những kỷ niệm thời chinh chiến. Vào năm 1968, sau khi cấp trên ra lệnh phải đánh các căn cứ điểm trọng yếu của địch, các đội biệt động được tập hợp để nhận nhiệm vụ. Đội 3 do đồng chí Nguyễn Gia Lộc chỉ huy có nhiệm vụ đánh vào Đài phát thanh; đội 4 do đồng chí Nguyễn Văn Lém chỉ huy đánh Bộ Tư lệnh Hải quân, đội 5 do đồng chí Tô Hoài Thanh chỉ huy đánh Tổng Dinh Độc Lập, Đội 679 đánh Bộ Tổng tham mưu địch. Tuy nhiên, sau khi khảo sát tình hình vào ngày 22-12-1968, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó là lãnh đạo của khu Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn quyết định đánh thêm một cứ điểm nữa là Đại sứ quán Mỹ vì theo ông, nếu quân ta đánh vào các căn cứ trọng yếu mà không đánh vào Đại sứ quán Mỹ thì xem như chưa đánh. Ngay lập tức, đội 11 được thành lập, đồng chí Ngô Thành Vân (Ba Đen) và hạ cấp được lệnh đánh vào Đại sứ quán Mỹ. Ở thời điểm đó, hầu hết nhân lực đã được sắp xếp vào các đội, nên đội 11 lâm vào tình trạng thiếu người trầm trọng. Thấy vậy, 7 nhân viên từ lực lượng bảo vệ, đánh máy, văn thư… của phân khu Biệt động Sài Gòn - Gia Định đã xung phong đánh trận này. Đội 11 bao gồm 17 đồng chí, trong đó có 9 người được cấp trên tăng cường, còn lại là các binh sĩ nghiệp dư. Ngày 28 và 29-12, sau khi được huấn luyện tại Củ Chi, các đồng chí được đưa lên Sài Gòn làm giấy tờ để chuẩn bị vào trận trong dịp Tết Mậu Thân 1968.
Sau 2 ngày 1 đêm chiến đấu anh dũng, đội 11 đã đánh chiếm được tòa đại sứ quán, làm tiêu hao sinh lực địch. Quân địch ngay lập tức được chi viện thêm 2 tiểu đoàn, có xe bọc thép, súng ống tối tân làm hậu thuẫn để phản công. Các chiến sĩ của ta đã anh dũng hy sinh, còn lại chỉ huy trưởng Ngô Thành Vân sống sót bị địch bắt làm tù binh. Trong trận đánh lịch sử này, quân địch đã bị đánh tới sào huyệt cuối cùng. Người Mỹ lúc bấy giờ tự hỏi nhau “Sao đột nhiên lại có một đội quân từ lòng đất chui lên. Từ những công dân đến các anh lao công trên đường phố… đều cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm đến vậy”. Những chiến sĩ biệt động thành đã khiến cả thế giới biết đến và thán phục.
Khi kể về những đồng đội đã hy sinh, ông Sơn cảm thấy bản thân nợ các đồng đội quá nhiều vì chưa tìm được hồ sơ của họ để báo về cho gia đình. Tuy đã bước sang tuổi 85 nhưng ông vẫn luôn hy vọng đến một ngày nào đó sẽ tìm được các tài liệu về đồng đội của mình.
Chia tay ông - người chiến sĩ biệt động thành năm xưa - trong cái bắt tay rất chặt, chúng tôi thấy ánh mắt ông đang cười với niềm tin vào tương lai của đất nước, và ông tin những người đã ngã xuống vì nền hòa bình của quê hương cũng có suy nghĩ như mình.
Xin chúc người chỉ huy đội đặc công biệt động thành Trần Minh Sơn mãi khỏe mạnh để tôi lại được nghe ông kể tiếp những trang sử vàng của dân tộc.
Bài, ảnh: Văn Mạnh - Báo GD TPHCM
Đại tá Trần Minh Sơn tham gia cách mạng từ năm 20 tuổi, đã trải qua 2 cuộc chiến tranh ác liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ông nguyên là Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng phân khu Biệt động Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn; nguyên Phó tư lệnh TP.HCM; Tham mưu trưởng - Bộ Tư lệnh TP.HCM, Phó tham mưu trưởng Quân khu 7, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng…