Những cách tiếp cận khác nhau về tính huyền diệu và bí ẩn của thế giới

nvtho_ph

New member
Xu
0
Nghiên cứu vũ trụ, cơ thể sinh vật và con người, người ta nhận thấy rằng thế giới chúng ta đang sống thật là huyền diệu với vô số những điều bí ẩn mà khoa học cho đến nay mới chỉ khám phá được một phần rất nhỏ. Bản chất và nguồn gốc của chúng là gì? Người ta vẫn còn đang chờ đợi những câu trả lời thật sự thoả đáng đối với nhiều hiện tượng quan trọng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu những cách tiếp cận khác nhau trong triết học sẽ giúp chúng ta có được một phương hướng đúng đắn trong việc xem xét các hiện tượng phức tạp đó.

1. Lý do đặt vấn đề

Nhận xét về bài viết của tôi đăng trên chungta.com ngày 4 tháng 9, có một độc giả nêu lên một thắc mắc mà tôi cho là rất hay về nguồn gốc của những hiện tượng huyền diệu, bí ẩn của thế giới:

“Ngày hôm nay khoa học vẫn chưa thể biết được ai đang điều khiển trái tim ta tự động đập hàng ngày. Lực lượng nào đã phân định sự cân bằng giới tính trong xã hội ... Khoa học chưa thể biết được vì sao và ai đã làm cho “Chúng ta” từ những điểm nhỏ như một tế bào với sự tích hợp hàng tỷ tỷ phép tính bên trong nhằm thực hiện một lập trình (mượn cách nói của CNTT) đến một mốc thời gian nào đó với những điều kiện đã được tính trước, biết trước sẽ: Thoát thai - biết nói - biết đi lại - mọc răng, lông – phát triển tư duy - có khả năng sinh sản - trưởng thành đầy đủ - suy tàn rồi chết. Tình cờ chăng?”

Theo hướng này thì chúng ta có thể đặt ra vô số những câu hỏi tương tự về vũ trụ, về sinh vật, về cơ thể con người. Ngay cả những đầu óc khoa học vĩ đại nhất khi đối mặt với sự huyền bí của vũ trụ cũng có những tình cảm tương tự. Albert Einstein đã trăn trở như sau:

“Tôi tin vào sự huyền bí, và thú thật, nhiều khi tôi đối mặt với sự huyền bí này với sự kinh sợ. Nói cách khác, tôi nghĩ rằng có nhiều điều trong vũ trụ mà chúng ta chưa thể cảm nhận và thâm nhập được, cũng như có nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống chúng ta mới chỉ cảm nhận được ở một hình thức sơ khai mà thôi.” (1)

Theo Einstein, những điều huyền diệu, bí ẩn của vũ trụ đã gây ra cho đầu óc có tư duy một “tình cảm khiêm nhường” (a feeling of humility), “một tình cảm tôn giáo chân chính” (a genuinely religious feeling), nhưng nó không liên quan gì đến chủ nghĩa thần bí (mysticism):

“Điều mà tôi nhận thấy được trong tự nhiên đó là một cấu trúc tuyệt vời mà chúng ta mới chỉ có thể hiểu được một cách rất không hoàn hảo, và điều đó không tránh khỏi đem lại cho con người đang tư duy một tình cảm khiêm nhường. Đó là một tình cảm tôn giáo chân chính không có liên quan gì đến chủ nghĩa thần bí cả.” (2)

Bản chất của sự huyền bí đó là gì? Nguồn gốc của chúng do đâu? Trả lời cho những câu hỏi này có mấy cách tiếp cận của các khuynh hướng triết học khác nhau: Hữu thần luận, Phiếm thần luận và Vô thần luận.

2. Cách tiếp cận của hữu thần luận

Hữu thần luận hay chủ nghĩa hữu thần (Theism) theo nghĩa rộng là khuynh hướng tư tưởng tin vào sự tồn tại của thần thánh nói chung. Hữu thần luận được dùng với nghĩa hẹp để chỉ niềm tin vào một vị thần tối cao, vạn năng, sáng tạo ra tất cả, quyết định tất cả. Vị thần này được gọi bằng những tên khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau. Kinh Veda và tín đồ Balamôn giáo gọi tên vị thần sản sinh ra dân tộc Ấn là Brahman (Balamôn). Tín đồ Do Thái giáo gọi vị thần sáng tạo thế giới và sinh ra hai con người đầu tiên là Adam và Eva, tổ tiên của dân tộc Do Thái (về sau được quan niệm là tổ tiên của cả nhân loại) là Yahweh hoặc Jehovah (Giê-hô-va). Trong tiếng Anh, vị thần này được gọi là God; tiếng Pháp là Dieu; tiếng Nga là Бог; tiếng Ả Rập là Allah. Tiếng Việt, Giê-hô-va được dịch là Thượng đế hay Thiên Chúa (Chúa Trời). Chủ nghĩa hữu thần không chỉ là một khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo mà còn lý luận thần học được một số nhà triết học và thần học phát triển. Họ dùng nhiều lập luận lôgic để chứng minh sự tồn tại và vai trò sáng tạo của Thiên Chúa.

Chủ nghĩa hữu thần chứng minh nguồn gốc và bản chất tính huyền diệu của thế giới bằng Lập luận từ sự thiết kế (Argument from Design) hay Lập luận mục đích luận (Teleological Argument). Toàn bộ tính phức tạp, huyền diệu của thế giới và con người được quy về trí tuệ thông minh của Thiên Chúa; ngài thiết kế và điều khiển tất cả. Từ sự quan sát thấy tất cả những đồ vật phức tạp đều có người thiết kế ra, các nhà lý luận thần học đi đến kết luận rằng vũ trụ và con người là những kết cấu cực kỳ phức tạp và tinh vi nên phải do một đầu óc cực kỳ thông mình thiết kế ra – đó là Thiên Chúa (Thượng đế).

Lập luận này nếu quy vê tam đoạn luận có dạng như sau:

1. Tất cả những gì phức tạp đều phải có người thiết kế ra (Complexity implies a designer).
2. Vũ trụ là cực kỳ phức tạp (The universe is highly complex).
3. Do đó, vũ trụ phải có người thiết kế (Therefore, the universe has a designer) (3)

Ta thử tham khảo lập luận sau đây trên một trang web tiếng Nga:

“Mỗi đồ vật đều có người làm ra; mỗi cái nhà đều có người xây dựng; mỗi quyển sách đều có tác giả; mỗi con người đều có cha mẹ. Xin hãy chỉ dùm tôi có vật nào tự nó được sinh ra không? Có cái nhà nào tự nó được xây dựng mà không có kiến trúc sư và những người thợ xây? Có quyển sách nào tự nó được viết ra mà không có tác giả?

Như vậy, không có một sự vật có kết cấu phức tạp nào mà không có người sáng lập ra. Do đó, vũ trụ, một kết cấu vô cùng phức tạp phải có người sáng lập nên – đó là Thượng đế.” (4)

Tất nhiên, ai cũng thấy được khiếm khuyết trong lập luận này là: từ nguồn gốc những đồ vật trong xã hội suy diễn ra cho tất cả sự vật, hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ là một suy luận không hợp lôgic. Đồ vật trong xã hội là do con người thiết kế ra với những mục đích nhất định, từ đó không thể suy ra sự vật, hiện tượng trong vũ trụ là do Thượng đế thiết kế ra theo một mục đích nào đó.

3. Cách tiếp cận của phiếm thần luận

Phiếm thần luận (Pantheism) là khuynh hướng triết học đồng nhất Thượng đế với toàn bộ giới tự nhiên. Thuật ngữ “phiếm thần luận” xuất phát từ tiếng Hy Lạp Pan (tất cả) và theos (thần, Thượng đế) có nghĩa là tất cả vũ trụ (toàn bộ giới tự nhiên) là Thượng đế. Điều này có nghĩa là không có một vị Thượng đế nào khác như là một lực lượng tinh thần tối cao đứng trên giới tự nhiên như quan niệm hữu thần luận, vì giới tự nhiên chính là Thượng đế rồi.

Như vậy tất cả những gì huyền bí, mầu nhiệm của thế giới đều là đặc tính của giới tự nhiên, của vị Thượng đế này. Không có một vị Thượng đế nào khác thiết kế, sáng tạo ra vũ trụ, đặt ra mục đích cho vũ trụ.

Đại biểu cho cách tiếp cận này có các nhà triết học và thiên văn học Ý G. Brunô (Giordano Bruno 1548-1600), nhà triết học Hà Lan Baruch Xpinôda (Baruch Spinoza, 1632-1677)… Albert Einstein đôi khi cũng tán đồng quan niệm như vậy. Khi được hỏi: “Ông có tin Thượng đế không?”, Einstein trả lời: “Tôi tin ở Thượng đế của Xpinôda, ngài mặc khải chính mình thông qua sự hài hòa có trật tự của những gì đang tồn tại, chứ không phải vị Thượng đế có liên quan đến số phận và hành động của con người.” (5)

Như vậy, theo Phiếm thần luận, giới tự nhiên vốn có những đặc tính huyền diệu, bí ẩn mà nhà khoa học phải nghiên cứu để tìm cách giải thích nó, do đó không cần phải tìm đến một vị Thượng đế khác như một tinh thần tối cao đứng trên giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên.

4. Cách tiếp cận của vô thần luận

Thuật ngữ vô thần luận (hay chủ nghĩa vô thần) (atheism) được cấu tạo từ tiếp đầu ngữ a (không) và từ Hy Lạp theos ( thần) là khái niệm dùng để chỉ một khuynh hướng tư tưởng thể hiện ở sự không tin hay phủ nhận sự tồn tại của thần thánh. Chủ nghĩa vô thần không chỉ thể hiện ở sự không tin mà còn đưa ra những lập luận nhất định để chứng minh cho lập trường của mình, bác bỏ các lập luận thần học về sự tồn tại của Thượng đế, về nguyên nhân đầu tiên, về mục đích luận và sự thiết kế, v.v..

Trong bài giảng “Tại sao tôi không phải là tín đồ Kitô giáo” (Why I am not a Christian), Bertrand Russell, nhà triết học nổi tiếng người Anh, người được giải thưởng Nobel năm 1950 đã phân tích và bác bỏ Lập luận từ sự thiết kế và mục đích luận của thần học. Theo ông, người ta tin rằng Thượng đế là cái đẩy đầu tiên làm cho vũ trụ vận động, vì đây là cách giải thích đơn giản và thuận lợi tránh được sự phức tạp khi phải dùng quy luật vạn vật hấp dẫn. Cũng theo Russel, giải thích những đặc diểm của sinh vật bằng sự thiết kế của Thượng đế là đơn giản hơn thuyết tiến hóa của Darwin với sự giải thích những đặc điểm của một giống loài sinh vật là kết quả của tính thích nghi của sinh vật với môi trường, do sự tác động của quy luật chọn lọc tự nhiên. Russell cũng chỉ ra mâu thuẫn trong lập luận từ sự thiết kế, nếu như tất cả đều do một đầu óc vạn năng và thông minh thiết kế ra thì điều đó liệu có giải thích được vô số những khiếm khuyết trong lịch sử nhân loại, như tổ chức KKK ở Mỹ, chiến tranh phát xit, v.v.. (6)

Trong triết học macxít, tất cả các đặc điểm vốn có của thế giới (tự nhiên, xã hội, con người) bao gồm mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, tính quy luật của sự vận động, phát triển được giải thích bằng khái niệm “biện chứng của tự nhiên”.

Theo quan điểm duy tâm, vật chất có đặc tính trơ, ì, chỉ có tinh thần mới năng động, do đó phải giải thích tính năng động của thế giới bằng tinh thần chứ không phải bằng bản thân vật chất. Trái lại, theo chủ nghĩa duy vật mácxít, tất cả sự vật vật chất, cũng như các mặt, các bộ phận của mỗi sự vật đều nằm trong những hệ thống, cấu trúc phức tạp, trong đó mỗi mặt, mỗi bộ phận đều bị quy định bởi những mặt, bộ phận còn lại; tất cả đều vận động, phát triển theo những quy luật vốn có của vật chất, không do ý thức. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.

Thí dụ, một nguyên tử đã là một cấu trúc phức tạp bao gồm mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân. Vật thể vô cơ không phải là một đống lộn xộn các phân tử mà là một tập hợp các phân tử được cấu trúc theo một quy luật nhất định. Khi quan sát một “hoa tuyết” chúng ta không thể không kinh ngạc và tự hỏi ai đã sắp xếp các phân tử hơi nước lại thành một đóa hoa đẹp như vậy. Chúng ta lại càng ngạc nhiên khi đối mặt với sự “mầu nhiệm” của cơ thể sinh vật và con người.

Cách tiếp cận duy vật, vô thần về thế giới không chỉ khác với cách tiếp cận hữu thần luận mà còn phân biệt với cách tiếp cận phiếm thần luận. Phiếm thần luận tuy có tính duy vật nhưng lại quan niệm thế giới vật chất, giới tự nhiên là Thượng đế”, là một vị thần. Trái lại, theo cách tiếp cận vô thần luận, tất cả những điều huyền diệu, bí ẩn của thế giới và con người đều là đặc tính vốn có của tự nhiên, là “biện chứng của tự nhiên” chứ không có tính thần thánh gì cả.

(PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng
Đại học Đà Nẵng )
 
Mình xin hỏi một câu hỏi khó. Mình đang nghiên cứu về bản chất, và mình muốn được cộng tác và chia sẻ ý tưởng cùng với cậu. Liệu chúng ta có trở về với cái bản chất đẹp mà chúng ta từng có trong quá khứ hay không? Và thế nào mới được gọi là bản chất đẹp trên mảnh đất này cậu nhỉ?
 
Một cách nhìn mới về thế giới

Từ xưa tới nay chúng ta mải tranh cãi nhau về bản chất thế giới ,vật chất có trước sinh ra tinh thần hay tinh thần có trước sinh ra vật chất từ đó mà triết học chia ra làm hai trường phái Duy vật và Duy tâm.Vật chất luôn biến hóa còn tinh thần thì bền lâu, "Hình trên cát có thể xóa nhưng ý niệm về nó thì vẫn còn".Vì thế khi muốn thay đổi cải cách người ta thường có lập trường duy vật ,phải làm từ dưới lên ,vật chất sinh ra tinh thần,khi hiện thực thay đổi thì đời sống tinh thần ,văn hóa tư tưởng phải thay đổi theo cho phù hợp.Còn khi muốn giữ vững bảo vệ cho một đời sống hiện thực nào đó thì cách hay nhất là phải duy tâm,phải giữ từ trên xuống ,phải đề cao tình cảm,lí tưởng,luật pháp...buộc thực tế phải khuôn theo,tinh thần quyết định vật chất.
Mỗi sự vật hiện tượng đều mang hai giá trị vật chất và tinh thần:Cái cây nếu dùng để làm trong sạch môi trường,khí hậu thì nó mang giá trị vật chất là chủ yếu nhưng nếu người ta dùng để làm cây cảnh,để làm đẹp thì nó lại thiên về giá trị tinh thần.Cùng một món ăn có người thì đề cao giá trị dinh dưỡng ăn để tốt cho sức khỏe,nhưng có người lại coi trọng mùi vị,ăn để thưởng thức ,thiên về cảm giác là chính.Nhưng chỉ khi có sự tác động của con người thì sự tồn tại mới có sự phân hóa thành hai mặt vật chất và tinh thần,không có con người thì sự tồn tại sẽ chỉ là câm lặng.Chính con người phát hiện ra sự tồn tại của thế giới cùng với những tính chất,quy luật trừu tượng của nó không có con người thì không thể có sự phân chia và tác động qua lại giữa vật chất và tinh thần,cũng không có văn hóa,luật pháp,nền sản xuất...các lĩnh vực của đời sống ấy xét cho cùng cũng là để phục vụ cho sự phát triển của con người và chịu sự chi phối của con người.Vậy tôi có một kết luận là"Con người là trung tâm của tồn tại".
Với quan niệm ấy thì bắt buộc phải coi trọng con người và phải có sự đi sâu nghiên cứu bản chất con người.Trước hết hãy bắt đầu từ tính chất toàn đồ"thế giới có gì con người có đó hay con người là tế giới thu nhỏ".Cái thế giới mà chúng ta đang sống được chia ra gồm vật chất và tinh thần,tự nhiên và xã hội.
Tổng hợp lại có thể chia làm bốn lĩnh vực cơ bản nhất gồm:
́́́́́́́́́́́Vật chất tự nhiên là đời sống vật chất của con người trong quan hệ với tự nhiên:lao động sản xuất,săn bắn hái lượm,giao thông vận tải...
Tinh thần tự nhiên là quan hệ của con người với mặt trừu tượng của tự nhiên :Nghiên cứu khoa học tự nhiên,hội họa,điêu khắc,tôn giáo...
Vật chất xã hội là mối quan hệ của con người giữa các lực lượng vật chất với nhau:quan hệ giai cấp,tầng lớp,đảng phái,tổ chức...
Tinh thần xã hội là mặt tinh thần của các mối quan hệ xã hội:luật pháp,tình cảm gia đình,đạo đức...
bốn lĩnh vực này có quan hệ gắn bó hữu cơ tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau.
Từ các mối quan hệ ấy mà thế giới phản ánh vào con người nên trong con người cũng có những quá trình lí hóa sinh như trong tự nhiên,và trong con người cũng có cả những quy tắc xã hội,ý thức luật pháp.Phần vật chất của con người chính là thể xác,phần tinh thần gồm cảm giác,ý thức,tình cảm.Con người là thế giới thu nhỏ,ở bên ngoài là mối liên hệ giữa con người với thế giới vậy thì ở bên trong con người cũng còn một con người nữa,đó là cái chân ngã,cái tôi đích thực của con người trong mối quan hệ với chính mình.
Thể xác,cảm giác,tư duy,tình cảm chỉ là cái thế giới trực tiếp, tài sản bất li thân hay chỉ là cái phần vỏ bên ngoài,còn cái chân ngã mới là bản nguyên của con người."Con người tự chủ "là quy luật cơ bản của tiến hóa.Ở thế giới bên ngoài con người phải dần tự chủ trước tự nhiên,xã hội,phải chuyển từ kiếp ăn sẵn sang chủ động chăn nuôi trồng trọt,phải đấu tranh làm Cách Mạng để được làm chủ số phận,làm chủ cuộc đời mình.Nhưng để có Cách mạng bên ngoài phải có cách Mạng bên trong chính con người ,đó là lúc con người phải đấu tranh để tự chủ với chính mình,để cho cái chân ngã nguyên thủy kiểm soát làm chủ được cái thể xác với những bản năng,làm chủ tình cảm,ý thức... để tự vượt qua chính mình.Con người hơn con vật đâu chỉ về tiến hóa trong gen di truyền,hay có ý thức cao.Con vượn tiến hóa hơn các loài khác vì nó làm chủ kiểm soát đôi tay khéo léo,từ chỗ dùng sẵn cành củi đến biết chủ động gọt đẽo để cải tạo cành củi thành công cụ.Lùi về xa hơn thì thấy từ vật chất vô cơ đến khi hình thành ADN,protein có khả năng tự nhân đôi tự đổi mới và rồi từ cơ thể thực vật đến động vật càng củng cố thêm cho quy luật tiến hóa mới này.

Tiếp theo tôi muốn trình bày là những phát hiện mới về phép biện chứng.Tôi đã có điều kiện nghiên cứu các tư tưởng của nhiều người khác nhau về phép biện chứng, .Sau khi nghiên cứu tôi thấy có thể tổng hợp các tư tưởng lại với nhau thành một chỉnh thể thống nhất.
Trước hết là triết lí của nhà Phật,của Đạo giáo đều coi bản nguyên của vạn vật vốn trong suốt do nhiễm phải vô minh mà biến hóa vô thường,sau đó sẽ lại trở về như lúc nguyên thủy và thành Phật.Hiểu sâu ra thì có nghĩa là ban đầu vốn không có đấu tranh,không có các mặt đối lập,không có sự phân hóa,mâu thuẫn sau đó do có sự tác động mà hình thành đấu tranh chuyển hóa tự phủ định lẫn nhau và rồi sau đó lại đi tới sự thống nhất trở về như nguyên bản.Tôi liên hệ với thực tiễn thì thấy:Trước kia sinh giới không có phân chia đực cái mà là sinh sản vô tính,xã hội nguyên thủy không có phân chia đấu tranh giai cấp,nguyên tử có cơ sở ban đầu là hạt không mang điện,chưa có điện tích âm-điện tích dương,trái đất hay mặt trời chưa hình thành thì chưa có ngày và đêm,bức tượng phật là tổng hợp vẻ đẹp của cả nam và nữ vào làm một,thiền là trạng thái không cương không nhu...
Nếu dùng Âm dương là kí hiệu cho các mặt đối lập thì sẽ có sự phát triển như sau:Không âm dương -âm dương chuyển hóa-âm-dương-âm-dương-âm....-không âm dương.Không âm dương hiểu ra thì đó là sự hợp nhất làm một,không đấu tranh,mâu thuẫn,đó là sự bình đẳng như nhau,không phân hóa...

Trong quan hệ đấu tranh giữa các mặt đối lập tôi thấy luôn có một yếu tố có vai trò quyết định làm động lực,nền tảng gốc rễ cho sự phát triển kí hiệu là Âm,còn mặt kia có tính bị quyết định phải biến hóa phù hợp với yếu tố nền tản kí hiệu là dương.Ví dụ:Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,trong gia đình phụ nữ đóng vai trò nền tảng trong việc sinh đẻ và làm các công việc gia đình vì thế họ là lực lượng sản xuất,còn người đàn ông thì quản lí,"của chồng công vợ" nên đại diện cho quan hệ sản xuất,trong gia đình đã có tính giai cấp,lực lượng sản xuất quyết định đến quan hệ sản xuất...
Âm cực dương sinh là quy luật khi Âm phát triển tới độ giới hạn sẽ phá vỡ dương cũ,đẩy thành dương mới phù hợp hơn hình thành thế cân bằng hài hòa,ví dụ như lúc chuyển mùa thường khó chịu vì lúc đó mâu thuẫn đang tới cực điểm,nhưng khi sang mùa thì dễ chịu bởi đã có sự hài hòa.Quá trình đấu tranh phát triển cứ theo quy luật ấy mà sinh ra đấu tranh chuyển hóa tự phủ định:ngày-đêm-ngày-đêm...,quả trứng-con gà-quả trứng-con gà...
Không có Âm thì dương không tồn tại được,nhưng nếu không có dương thì âm không phát triển vì thế âm dương là phạm trù dùng chỉ sự tồn tại và phát triển.Âm mạnh lên sẽ đẩy dương mạnh theo cho phù hợp là sự tương sinh,dương phải luôn có xu hướng cân bằng hài hòa với âm là sự tương khắc.
Dương thịnh âm tàn là quy luật khi dươg vượt trội quá so với âm thì sẽ đánh sập âm và kéo dương tụt lùi theo,đó là sự đốt cháy giai đoạn,tích lũy chưa đầy đủ đã nhảy vọt về chất.
Âm dương hoán đổi là quy luật tính quyết định có thể thay đổi vị trí từ yếu tố này sang cho yếu tố khác tùy theo thời điểm hoàn cảnh cụ thể.Cái cốc lúc uống nước thì đáy cốc và khoảng rỗng thuộc tính cơ bản nhưng để đè giấy tờ thì khối lượng lại quan trọng.
Mở rộng lí thuyết âm dương ra thì mỗi sự vật như 1 thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố như các mắt xích có sự liên hệ tác động qua lại nhưng trong đó luôn có mắt xích đóng vai trò nền tảng,là yếu tố có vai trò quyết định động lực cho phát triển,ví dụ hệ thông giáo dục:học sinh-phụ huynh-dư luận-quốc hội-bộ giáo dục-giáo viên-học sinh ,thì học sinh là mắt xích cơ bản nhất.


Cuối cùng tôi trình bày quan niệm về không gian thời gian.
Sự vật tồn tại sẽ xác định ra không gian tương ứng,và sự vận động thì xác định ra thời gian tương ứng,vì thế sự vật hiện tượng khác nhau thì không gian thời gian sẽ khác nhau,không gian thời gian của các sự vật là tương đối.
Một nhà hiền triết đã nói con thỏ không thể đuổi nổi con rùa vì trên 1 đoạn thẳng dù ngắn cũng có vô số điểm và con thỏ phải vượt qua vô số điểm đó mới tới chỗ con rùa,hay là khi con thỏ tới chỗ con rùa thì con rùa đã đi tới chỗ khác xa hơn mâu thuẫn cứ phát sinh và giải quyết rồi lại phát sinh.
Theo quan niệm hiện đại thì con thỏ xác định ra không gian thời gian riêng của nó,con rùa xác định ra không gian thời gian riêng nên chúng không thể đồng nhất tuyệt đối,chúng chỉ gặp nhau khi có cùng không gian thời gian nhưng con thỏ và con rùa chỉ tam thời gặp nhau rồi sau đó mỗi con lại đi 1 nơi nên chúng không đuổi kịp nhau tuyệt đối.
Vậy không gian thời gian sẽ là tuyệt đối khi có sự hợp nhất làm 1 của các sự vật hiện tượng,khi đó con thỏ và con rùa đi thì cùng đi bên nhau,dừng thì cùng dừng bên nhau và như thế sẽ có được sự tuyệt đối.
Tôi nhận ra điều này khi thấy có 2 vợ chồng sĩ quan quân đội cùng làm ở 1 đơn vị đi làm cùng đi,về cùng về,làm cùng làm bên nhau rất hạnh phúc trong khi những người khác thì phải dằn vặt với việc vợ làm 1 nơi ở quê còn chồng làm 1 nẻo ở xa.


XIN CẢM ƠN BẠN ĐÃ DÀNH CHÚT THỜI GIAN ĐỌC BÀI
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top